Nhu cầu đầu tư cho bảo vệ môi trường làm căn cứ kêu gọi nguồn vốn ODA giai đoạn 2011-2015
Nguyễn Tuấn Anh
Phó Vụ trưởng Vụ KHGDTN&MT
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tình hình phân bổ và thực hiên ngân sách đầu tư phát triển cho BVMT giai đoạn 2006 - 2011
Từ năm 2006, ngân sách cho BVMT đã được bố trí thành một nguồn riêng (chi sự nghiệp môi
trường) không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước. Với việc hình thành mục chi riêng ngân
sách nhà nước về sự nghiệp môi trường đã tạo chuyển biến về đầu tư từ ngân sách nhà nước cho
hoạt động BVMT. Mặc dù đây chỉ là nguồn chi ngân sách thường xuyên, nhưng thực tế đã cho
thấy, nguồn chi này đã hỗ trợ, thúc đẩy mạnh mẽ công tác BVMT ở các Bộ, ngành và địa phương.
Trong giai đoạn 2006-2011, vốn đầu tư phát triển trong lĩnh vực BVMT đã tăng khoảng 2 lần, từ
1.429 tỷ năm 2006 lên 2.954,3 tỷ năm 2011. Trong giai đoạn 5 năm (2006-2011), vốn đầu tư cho
BVMT đạt khoảng 2% tổng chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước. Vốn đầu tư phát triển
trên chủ yếu tập trung phân bổ cho nguồn vốn địa phương, nguồn vốn Trung ương chiếm tỷ lệ nhỏ,
bình quân trong cả giai đoạn 2006-2011, nguồn vốn Trung ương đạt khoảng 19%, địa phương đạt
khoảng 81%.
Việc giải ngân nguồn vốn đầu tư phát triển hàng năm cho lĩnh vực BVMT cũng đạt kết quả tốt, các
Bộ, ngành Trung ương đã bố trí vốn hợp lý để đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án được giao. Cụ
thể việc phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2006-2011 ngành
TN&MT như sau:
Mặc dù nguồn vốn đầu tư phát triển cho BVMT đã đạt trung bình khoảng 2% tổng chi đầu tư phát
triển từ ngân sách nhà nước, tuy nhiên đầu tư trong giai đoạn Kế hoạch 5 năm (2006 - 2010) chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt một số đề án lớn có yêu cầu vốn đầu tư lớn như: Xử
lý môi trường các lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai; xây dựng hệ thống các
trạm quan trắc môi trường quốc gia... Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư phát triển cho BVMT chỉ đáp
ứng được khoảng 50% nhu cầu đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương.
Tỷ trọng phân bổ nguồn vốn giữa Trung ương và địa phương cũng còn bất cập. Do vốn Trung
ương chỉ chiếm bình quân 19% trong giai đoạn 2006-2011 (vốn địa phương chiếm 81%), nên
nguồn vốn Trung ương đã không đủ để đầu tư các công trình BVMT lớn, bức xúc, các vấn đề liên
ngành, liên vùng. Do phân cấp đầu tư, nên việc giám sát, đánh giá đảm bảo sử dụng nguồn vốn địa
phương đầu tư cho BVMT cũng cần phải thay đổi, đảm bảo vốn BVMT được đầu tư đúng mục
đích.
Tình hình huy dộng các nguồn vốn khác, ngoài ngăn sách Trung ương và địa phương, đầu tư cho
BVMT
Đối với lĩnh vực BVMT: Ngoài nguồn vốn Trung ương và địa phương như đã nêu trên, trong giai
đoạn 2006-2011, ngân sách nhà nước đã đầu tư từ nguồn vốn ODA cho BVMT, với tổng giá trị ký
kết ODA cho các chương trình, dự án đạt khoảng 2.914 triệu USD (trong đó Vốn vay là 2.856 triệu
USD, viện trợ không hoàn lại là 58 triệu USD).
Riêng năm 2011, giá trị giải ngân của các chương trình dự án BVMT đạt khoảng 259,3 triệu USD
(trong đó vốn vay là 249,7 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại đặt 9,6 triệu USD).
Đánh giá chung, đề xuất, kiến nghị
Một số Chương trình mục tiêu quốc gia có nội dung BVMT được triển khai như nước sạch, vệ
sinh môi trường nông thôn, trồng 5 triệu ha rừng, cải thiện nhà vệ sinh cho hộ nghèo đã giải quyết,
xử lý được một phần những hiện tượng ô nhiễm môi trường trên toàn quốc. Việc hỗ trợ kinh phí từ
nguồn sự nghiệp môi trường để xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đã xử lý
được 79% số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc danh mục theo Quyết định
64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Nhìn chung, hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật TN&MT đã được chú trọng xây dựng nhưng
vẫn chưa bảo đảm tính đồng bộ, chưa đáp ứng kịp thời với yêu cầu của cuộc sống và tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thực tế đã bộc lộ những bất cập, chưa phù hợp với thực
tế khách quan, chưa thật phù hớp với cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguồn vốn
ngân sách đầu tư trong những năm gần đây đã tăng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu cải thiện cơ
sở vật chất, hạ tầng, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên và
BVMT, một số các chỉ tiêu không đạt kế hoạch đặt ra. Môi trường ở các khu công nghiệp, làng
nghề, khu đô thị có mật độ dân số cao... vẫn tiếp tục bị xuống cấp, ảnh hưởng xâu đến sức khỏe
người dân. Việc xử lý rác thải còn nhiều bất cập, hầu hết các địa phương sử dụng biện pháp chôn
lấp chất thải với số lượng trung bình một bãi chôn lấp/1 đô thị, trong đó 85-90% các bãi chôn lấp
không hợp vệ sinh, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Chính sách "xã hội hóa" đầu tư
BVMT chưa được tập trung nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện.
Đề xuất, kiến nghị:
* Tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư cho BVMT.
* Hoàn thiện công tác quy hoạch ngành như quy hoạch các bãi chôn lấp, bãi xử lý rác thải.
* Tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển để thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt; cải
thiện cơ sở vật chất, hạ tầng, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác quản lý tài nguyên thiên
nhiên và BVMT, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo các Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản chỉ đạo của Đảng, Quốc hội.
* Tăng cường công tác giám sát đầu tư, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả nguồn
vốn đầu tư cho BVMT.
* Xây dựng các chế tài và hình thức xử phạt đủ mạnh để đảm bảo các doanh nghiệp thực hiện
nguyên tắc đã ghi trong Luật BVMT là người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Tăng cường đa dạng hóa đầu tư cho BVMT, thực hiện phương châm xã hội hóa; tiếp tục có chính
sách huy động nguồn vốn ODA cho BVMT.
TCMT 06/2012