BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
Báo cáo chuyên đề:
Giới thiệu một số nghiên cứu điển hình về thực hiện ĐMC liên
quan đến nông nghiệp phát triển nông thôn của Việt Nam
Phùng Giang Hải
Hà Nội, tháng 12 năm 2008.
Mục lục
I.GIỚI THIỆU CHUNG 3
1. 1. Sự ra đời của ĐMC 3
2. 2. Khái niệm về đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) 4
3. 3. Các nội dung cần thực hiện ĐMC ở Việt Nam 4
4. 4. Sự khác nhau giữa ĐMC và ĐTM 5
5. 5. Lợi ích của Đánh giá môi trường chiến lược 7
6. 6. Nguyên tắc của Đánh giá môi trường chiến lược 8
7. 7. Các khuyến nghị chung 8
II.MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH VỀ ĐMC Ở VIỆT NAM 10
8. 1. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện An Nhơn, Bình Định 10
9. 2. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện Vị Xuyên, Hà Giang 13
10. 3. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất Thị trấn Long Hải, BRVT, 2006-2010. .14
11. 4. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện Yên Thành, Nghệ An 15
12. 5. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 17
III.KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Sự ra đời của ĐMC
Kể từ khi ra đời tại Mỹ đầu những năm 1970, quá trình đánh giá tác động môi
trường (ĐTM) chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển tại những địa điểm cụ thể. Tuy
nhiên, ĐTM ở cấp dự án thường không đủ để ra quyết định có quy mô rộng lớn.
Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) dựa vào một quá trình có hệ thống đánh
giá các tác động của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đối với môi trường. Bản chất của
ĐMC là đánh giá các tác động của CQK về mặt môi trường để xác định hiệu quả của
chúng. Việc đánh giá này nhằm đảm bảo những vấn đề môi trường đều được xem xét cặn
kẽ và giải quyết thích đáng ở giai đoạn đầu của việc lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
(CQK). Ngoài ra, chính sách và chương trình môi trường cần được đánh giá định kỳ về
hiệu quả và có thể được điều chỉnh để phục vụ tốt hơn các ưu tiên về môi trường.
Năm 2001, Liên minh Châu Âu đã ban hành Chỉ thị về ĐMC đòi hỏi mỗi năm
phải thực hiện một số lượng lớn các báo cáo ĐMC tại 27 nước thành viên EU. Đây là một
trong những dấu mốc quan trọng tạo nên yêu cầu phải tiến hành các ĐMC trong quá trình
ra các quyết định phát triển trong phạm vi các nước này. Tiếp theo đó, Ủy ban Kinh tế
LHQ khu vực Châu Âu cũng đã ban hành Nghị định thư về ĐMC đính kèm theo Công
ước về ĐTM xuyên biên giới (năm 2003) được ký kết bởi 37 nước tạo ra sự thay đổi lớn
về việc bao gồm các đánh giá môi trường trong quá trình ra quyết định ở tầm vĩ mô. Sau
đó, năm 2006 OECD/DAC đã xây dựng Hướng dẫn thực hành tốt về ĐMC trong hợp tác
phát triển và được các nhà tài trợ chủ chốt ở Việt Nam chấp thuận làm tiền đề cho quá
trình thực hiện ĐMC tại Việt Nam.
Khái niệm đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đã trở nên khá quen thuộc ở Việt
Nam, đặc biệt từ khi có Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 và được áp dụng được đối với
các dự án đầu tư và các cơ sở đang hoạt động cho thấy có những kết quả nhất định. Đây
là một cách tiếp cận đồng thời là một công cụ rất hữu hiệu trong công tác quản lý và bảo
vệ môi trường được thừa nhận trên toàn thế giới trong nhiều năm qua nhưng nó chủ yếu
được áp dụng cho việc xem xét, quyết định các dự án đầu tư. Ở Việt Nam, do nhiều nét
đặc thù và đặc biệt sau khi có luật Bảo vệ Môi trường năm 1993 thì ĐTM đã được coi
như một công cụ không chỉ áp dụng cho các dự án đầu tư mà còn cho cả các quy hoạch,
kế hoạch… Trên thực tế, các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch là một phạm trù rộng lớn
hơn nhiều và cũng có phạm vi bao trùm lớn hơn nhiều so với một dự án cụ thể nên đánh
giá tác động môi trường lại không thể áp dụng được mặc dù đây là lĩnh vực rất cần có các
đánh giá môi trường để góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững trong quá trình lập và
thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch ở các cấp độ khác nhau. Các nhà khoa
học, các nhà quản lí đều đã buộc phải thống nhất về điều này và cùng với sự phát triển
của khoa học và thực tiễn về quản lý và bảo vệ môi trường trong những năm gần đây trên
thế giới, rõ ràng cần phải tìm cách tiếp cận khác để xem xét các vấn đề về môi trường đối
với các loại hình dự án về CQK phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, khái niệm đánh
giá môi trường chiến lược đã ra đời và đang từng bước được áp dụng trong quá trình xây
dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch ở Việt Nam. Mặc dù còn có những ý kiến khác
nhau, nhưng tuyệt đại đa số các quốc gia, các tổ chức quốc tế cũng như các chuyên gia có
liên quan đến môi trường đều thống nhất về cách tiếp cận Đánh giá môi trường chiến
lược (ĐMC) là phù hợp đối với các loại hình dự án mang tính chất chiến lược này. Đây là
một cách tiếp cận mới mặc dù cho đến nay đã có nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế áp
dụng tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một thực tế là phương pháp luận và cách thức tiến
hành ĐMC vẫn còn đang tiếp tục được tổng kết và hoàn thiện. Đối với Việt Nam - là một
nước đang phát triển, công tác môi trường mới được quan tâm chưa lâu (Luật Bảo vệ môi
trường 1993, sửa đổi năm 2005) nên khái niệm này còn mới hơn (mặc dù đã được thể
hiện trong Luật) và hơn nữa việc áp dụng trên thực tế còn cần phải được xem xét, cân
nhắc và điều chỉnh kĩ hơn để đảm bảo việc áp dụng ĐMC có hiệu quả và phù hợp với các
đặc thù của quốc gia. Cho đến nay, có thể nói các hoạt động đánh giá môi trường chiến
lược mới hầu như chỉ được thực hiện trong khoảng 5 năm trở lại đây và chủ yếu cũng là
các hoạt động mang tính chất nghiên cứu hoặc thí điểm (được tài trợ) nhằm xây dựng cơ
sở khoa học, phương pháp luận áp dụng ĐMC ở Việt Nam là chính chứ các báo cáo đánh
giá môi trường chiến lược thực sự còn khá hiếm.
2. Khái niệm về đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC)
Hiện tại vẫn tồn tại nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về ĐMC tùy theo mục
đích, cách tiếp cận và hoàn cảnh khi xem xét vấn đề cả trên thế giới cũng như tại Việt
Nam. Cụ thể:
Theo các tác giả Sadler B. và Verheem R. người Hà Lan thì ĐMC là quá trình
đánh giá một cách có hệ thống các hậu quả về môi trường của các đề xuất về chính sách,
kế hoạch và chương trình nhằm bảo đảm rằng các hậu quả về môi trường này được đề
cập một cách đầy đủ và được giải quyết một cách thỏa đáng ngay từ giai đoạn thích hợp
sớm nhất có thể của quá trình ra quyết định về các chính sách, kế hoạch và chương trình
đó cùng với sự cân nhắc về các mặt kinh tế và xã hội. (Đánh giá môi trường chiến lược:
thực trạng, thách thức và phương hướng trong tương lai, 1996).
Các nguyên tắc CSIR - SEA của Nam Phi (2000) định nghĩa ĐMC như một “quá
trình lồng ghép khái niệm của tính bền vững vào việc ra quyết định chiến lược” cũng là
một trong những định nghĩa được nhắc đến khá nhiều trong các tài liệu quốc tế bàn về
vấn đề này.
Theo Luật BVMT 2005 của Việt Nam (Chương I, Điều 3, Khoản 19), đánh giá
môi trường chiến lược là việc phân tích và dự báo các tác động tiềm tàng của các dự án
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm đảm bảo sự phát
triển bền vững. Đây là khái niệm đang được sử dụng một cách chính thức (theo Luật) tại
Việt Nam. Như vậy ĐMC nhằm vào các Chiến lược, Quy hoạch và Kế hoạch (CQK) kể
cả các Chương trình phát triển như một thành phần của CQK trước khi chúng được phê
duyệt, mà không nhằm vào các dự án đầu tư cụ thể vốn là đối tượng của ĐTM.
Ngoài ra, theo Hướng dẫn kỹ thuật chung về ĐMC (Bộ Tài nguyên và Môi
trường, 2008), thì ĐMC còn có mục đích lồng ghép các vấn đề về môi trường vào quá
trình xây dựng CQK và tạo điều kiện để việc ra quyết định được minh bạch và có sự
tham gia của các bên liên quan.
3. Các nội dung cần thực hiện ĐMC ở Việt Nam
Điều 14 mục 1 chương 3 của Luật BVMT 2005 quy định rõ các CQK sau đây
phải lập báo cáo ĐMC:
- CQK phát triển kinh tế xã hội cấp Quốc gia
- CQK ngành/ lĩnh vực trên quy mô cả nước
- CQK phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh
- Quy hoạch sử dụng đất; bảo vệ và phát triển rừng; khai thác và bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên khác trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng
- Quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm
- Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông quy mô liên tỉnh
Như vậy, theo quy định của Luật BVMT 2005 là các CQK có phạm vi từ cấp tỉnh
(gồm tỉnh và thành phố trực thuộc TW) trở lên đều phải thực hiện ĐMC nhưng mặt khác
không phải tất cả CQK ở cấp này mà chỉ có duy nhất Quy hoạch phát triển KTXH của cả
tỉnh mới phải thực hiện ĐMC, các CQK khác ở cấp liên tỉnh hoặc cả nước mới cần phải
thực hiện ĐMC. Quy định này của Việt Nam cho thấy Luật đã đương nhiên bỏ qua các
CQK cấp huyện và CQK của các Sở/Ngành cấp tỉnh mặc dù trên thực tế lĩnh vực quản lí
của các cấp này là rất phức tạp và có ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sinh thái xung
quanh (trong phạm vi tỉnh cũng như đối với các địa phương liền kề hoặc ảnh hưởng của
thượng lưu đối với hạ lưu).
Trên thế giới, theo quy định hiện nay các CQK (các nước thường dùng khái niệm
PPP) dù ở bất cứ cấp nào cũng phải lập báo cáo ĐMC. Các nghiên cứu khoa học ở nước
ta về ĐMC cũng đang áp dụng cho các đối tượng rộng rãi đúng như quy định và thực tế
áp dụng ở các nước trên thế giới nhưng trong công tác quản lý nhà nước về môi trường
thì lại mới chỉ áp dụng cho các đối tượng như quy định tại điều 14 mục 1 chương 3 Luật
BVMT 2005 đã nêu ở trên. Đây là vấn đề bất cập của Luật BVMT 2005 và điều này cũng
đã được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và cả các nhà quản lí nhận biết và đưa ra
thảo luận trong thời gian gần đây và chắc chắn sẽ phải thay đổi trong thời gian tới cho
phù hợp với thực tế. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng những CQK cấp huyện hay chương
trình từ 2 dự án trở lên tuy chưa phải lạp báo cáo ĐMC nhưng nếu chính quyền cấp Tỉnh
hay các Bộ ngành thấy cần phải thực hiện ĐMC thì cũng không bị cấm. Ví dụ tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu đã tiến hành ĐMC cho quy hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện Côn Đảo do
tính quan trọng của quy hoạch này.
4. Sự khác nhau giữa ĐMC và ĐTM
Sự khác nhau cơ bản ở chỗ ĐTM đề cập đến việc giải quyết sự tác động của phát
triển đến các điều kiện hiện hữu về môi trường và kinh tế - xã hội, trong khi đó, ĐMC đề
cập đến việc giải quyết sự tác động của các điều kiện về môi trường và kinh tế - xã hội
đến phát triển (CSIR, 1996).
Cách tiếp cận ĐTM hướng trọng tâm vào các tác động tích cực và tiêu cực của
một dự án phát triển cụ thể khi nó được thiết kế trong khi đó, ĐMC cho phép các nhà ra
quyết định chủ động xác định được loại hình phát triển thích hợp nhất đối với một vùng
cụ thể trước khi các đề xuất về phát triển đối với khu vực đó được hình thành. ĐTM được
sử dụng để đánh giá các tác động của sự phát triển đến môi trường và các điều kiện kinh
tế - xã hội, trong khi đó, ĐMC có thể được sử dụng để đánh giá những cơ hội và hạn chế
của môi trường và các điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự phát triển.
ĐMC về cơ bản có thể được tiến hành theo phần lớn các bước phân tích cơ bản
của ĐTM nhưng với phạm vi lớn hơn về thời gian, không gian và đối tượng. ĐMC phải
đưa ra được sự tổng quan về xu hướng biến đổi môi trường trong các trường hợp không
có CQK và có CQK đồng thời ĐMC có thể đưa ra các khuyến nghị về: những thay đổi
trong CQK được đề xuất, việc hoàn thiện trong cách thức điều phối giữa các cơ quan liên
quan hay những can thiệp mang tính liên ngành cần thiết. ĐMC cũng có thể đưa ra những
gợi ý đối với công tác ĐTM cho các dự án trong tương lai và cải thiện chất lượng của
công tác này.
Vấn đề ĐTM ĐMC
Các phương
án xem xét
Vị trí và công nghệ Các phương hướng phát triển (mục tiêu
và kịch bản) và hoạt động đa chiều để
đạt được chúng
Các tác động Các tác động cụ thể đến
tình trạng môi trường địa
phương - so sánh với chất
lượng môi trường địa
phương
Các xu hướng dài hạn - so sánh với các
mục tiêu lớn về môi trường/phát triển
bền vững
Các tác động cụ thể thường chỉ được
đánh giá nếu trong CQK có các đề xuất
dự án/chương trình cụ thể.
Việc đánh giá Định lượng hơn Định tính hơn (các phân tích và đánh giá
của chuyên gia)
Công chúng
quan tâm
Công chúng và các nhóm
có tổ chức bị tác động
Chủ yếu là công chúng có tổ chức - các
nhóm có sự quan tâm, nhóm chuyên gia
cố vấn
Phát triển
ĐTM
ĐMC
Các điều kiện
kinh tế, xã hội
và môi trường
Rà soát về
chất lượng
Chất lượng của báo cáo
ĐTM và quá trình quản lý
Chất lượng của các đánh giá, quá trình
tiến hành và chi phí tương ứng cho
ĐMC trong cả quá trình xây dựng CQK
Như vậy, ĐMC sẽ là một công cụ hỗ trợ cho quá trình ra quyết định nhằm mục
đích kết hợp các khía cạnh về môi trường trong các CQK. Hay nói cách khác, ĐMC sẽ
được sử dụng trong quá trình xem xét và xây dựng chính sách, quy hoạch và kế hoạch.
ĐMC là một quá trình phân tích và tổ chức tham vấn một cách có hệ thống và sâu rộng,
quá trình đó bao gồm việc đánh giá các khía cạnh về môi trường của một kế hoạch và các
phương án kế hoạch cũng như việc soạn thảo một bản báo cáo.
Mặt khác, ĐMC là một quá trình song hành với quá trình ra quyết định để cho các
khía cạnh về môi trường được cân nhắc lợi hại trước khi các quyết định thực hiện được
đưa ra từ đó sẽ làm tăng các cơ hội để tìm kiếm và đề xuất các giải pháp có lợi về mặt
môi trường trong quá trình phát triển. Có càng nhiều các phương án khả thi được lựa
chọn để giảm nhẹ các tác động tiêu cực thì các khía cạnh về môi trường sẽ càng được cân
nhắc sớm hơn trong quá trình ra quyết định. Thông qua quá trình tính toán và cân nhắc
các vấn đề về môi trường khi chuẩn bị các quyết định chiến lược, các khả năng mới sẽ
được mở ra và tác động đến việc lựa chọn các phương án và các định hướng tiến tới mục
tiêu phát triển bền vững hơn.
Ngoài các chức năng phân tích, ĐMC còn có vai trò trong quá trình xây dựng và
ban hành chính sách (cung cấp cơ sở khoa học cho quá trình chuẩn bị ra các quyết định).
Quá trình ĐMC phải tạo ra được các cơ hội trao đổi thông tin giữa các nhóm người khác
nhau có liên quan và có khả năng nâng cao tính hiệu quả và tính linh hoạt của quá trình ra
quyết định, ngoài ra, còn phải đề cập để giải quyết được các khía cạnh môi trường của
bản quy hoạch, kế hoạch. Vì vậy sự tham gia của công chúng là một phần rất quan trọng
của ĐMC và sẽ được tổ chức tuỳ theo từng quá trình ra quyết định.
5. Lợi ích của Đánh giá môi trường chiến lược
Vai trò của ĐMC được xác định bởi vị trí của nó trong quá trình ra quyết định.
ĐMC có thể được sử dụng để đánh giá một đề xuất về CQK đã được xây dựng hoặc có
thể được sử dụng làm cơ sở để xây dựng, đánh giá hoặc sửa đổi một CQK trong quá trình
hình thành. Sự phân biệt ở đây là tùy thuộc vào giai đoạn cụ thể của quá trình ra quyết
định mà ở đó ĐMC được tiến hành. ĐMC cũng có thể có cả hai vai trò trong đó vai trò
đầu tiên là phải đề cập được toàn bộ các vấn đề về môi trường và tiếp theo là phải hòa
nhập được các vấn đề về môi trường, xã hội và kinh tế trong quá trình xây dựng CQK.
Thông qua việc hòa nhập các mục tiêu về môi trường, xã hội và kinh tế vào quá trình xây
dựng chính sách và lập kế hoạch, ĐMC có khả năng trợ giúp để thực hiện được ý tưởng
của sự phát triển bền vững.
Các lợi ích của ĐMC có thể được liệt kê như sau:
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cho ĐTM bằng cách: Đề cập đến hàng loạt các
phương án; đến các tác động tích lũy thông qua việc xác định các giới hạn biến
đổi có thể chấp nhận được đối với một vùng hoặc một lĩnh vực cụ thể; Tạo thuận
lợi cho việc duy trì và củng cố mức chất lượng môi trường đã lựa chọn đáp ứng
yêu cầu cho việc xác định phạm vi tiến hành ĐTM;
- Đề cập đến các nguyên nhân gây ra các tác động môi trường nhiều hơn là đề cập
đến việc xử lý đơn thuần các tác nhân gây huỷ hoại môi trường;
- Giúp hòa nhập ý tưởng phát triển bền vững vào quá trình ra quyết định đối với các
vấn đề chính sách ở tầm vĩ mô hoặc mang tính chiến lược. Ví dụ, việc xác định
các giới hạn có thể chấp nhận được và việc xác định các mục tiêu cũng như các
chỉ thị của tính bền vững bảo đảm rằng sự phát triển nằm trong các giới hạn bền
vững;
- Bảo đảm cho sự cân đối một cách có hệ thống giữa các điều kiện về môi trường
và kinh tế - xã hội trong quá trình ra quyết định để đảm bảo có thể tiến tới mục
tiêu phát triển bền vững;
- Sự tham gia của người dân, các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan khác được
huy động ngay từ giai đoạn rất sớm. Sự kết hợp tất cả các bên liên quan này sẽ tạo
thuận lợi để làm gia tăng sự chấp nhận của công chúng đối với các CQK khi được
ban hành.
Nhìn chung, lợi ích của ĐMC là: (i) Tiết kiệm được thời gian và tiền của cho quá
trình ra quyết định chiến lược; (ii) Làm gia tăng sự ủng hộ của công chúng đối với các
nhà hoạch định CQK và những người ra quyết định; và (iii) Nâng cao được chất lượng
của việc ra quyết định chiến lược.
6. Nguyên tắc của Đánh giá môi trường chiến lược
Tùy theo từng điều kiện cụ thể, các quốc gia khác nhau cũng có những nguyên tắc
tương đối khác nhau về ĐMC. Hiện tại, Việt Nam đang được đánh giá là nước dẫn đầu
khu vực Đông Nam Á về cải tiến ĐMC với cơ sở pháp lý vững mạnh cho ĐMC đối với
CQK đồng thời giao trách nhiệm ĐMC cho các “chủ” xây dựng CQK. Ngoài các tác
động về môi trường, ĐMC ở Việt Nam có thể bao gồm cả các tác động về xã hội và kinh
tế, tùy thuộc vào sự lựa chọn cách tiếp cận ĐMC cụ thể
Hiện tại, Việt Nam đã có bộ Hướng dẫn kĩ thuật chung về ĐMC do Bộ Tài
nguyên và Môi trường xây dựng và ban hành được áp dụng chung cho tất cả các ĐMC
được thực hiện. Hướng dẫn kĩ thuật này được xây dựng dựa trên cơ sở tổng hợp các bài
học từ các ĐMC thử nghiệm ở Việt Nam cũng như các kinh nghiệm của Châu Âu đồng
thời xác định các bước đánh giá chính và mối liên kết giữa chúng với quá trình xây dựng
CQK và trên cơ sở đó đề xuất việc huy động sự tham gia của công chúng. Trên thực tế,
Hướng dẫn kĩ thuật chung này là một bản mô tả khái quát những phương pháp cơ bản để
thực hiện ĐMC ở Việt Nam.
7. Các khuyến nghị chung
Việc thực hiện ĐMC ở Việt Nam còn tương đối mới mẻ trong lĩnh vực đánh giá
môi trường, các cách tiếp cận của ĐMC còn đang ở trong quá trình thử nghiệm, sàng lọc
và đánh giá. Để góp phần phát triển cách thực hiện ĐMC tốt nhất, cần chú ý những
khuyến nghị sau đây:
- Trong quá trình thực hiện ĐMC nên hòa nhập các mục tiêu của tính bền vững vào
quá trình hình thành các chiến lược và các khuôn khổ (khung) cho quá trình ra
quyết định trong tương lai. Không cần tập trung vào việc đánh giá ở một thời
điểm (mặc dù điều đó có thể cần thiết trong những bối cảnh nhất định) mà tập
trung vào việc mở rộng các thông tin cơ bản cho quá trình ra quyết định trong
tương lai của cả một thời kỳ để có thể liên hệ đến tính bền vững.
- Cần tập trung vào việc tăng cường các quá trình hiện có thông qua việc hòa nhập
các nguyên lý và các yếu tố cơ bản của ĐMC vào các quá trình này. Sự hòa nhập
này là vô cùng quan trọng để bảo đảm rằng sẽ tránh được sự trùng lặp, và từ đó
làm tăng được hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực.
Trong một số trường hợp, có thể sẽ thích hợp khi tiến hành một quá trình ĐMC
riêng biệt, tuy nhiên, trong mọi trường hợp thì quá trình ĐMC phải gắn bó thật
chặt chẽ với quá trình hình thành CQK và với việc ra quyết định cuối cùng. Nên
tập trung vào việc thiết kế và thực hiện một trình tự với phạm vi cụ thể thích hợp
nhằm hòa nhập các mục tiêu của tính bền vững vào quá trình ra quyết định chiến
lược.
- Càng sớm bắt đầu tiến hành ĐMC trong quá trình hình thành CQK thì hiệu quả sẽ
càng cao hơn.
- Sự xem xét tổng thể trong suốt giai đoạn khởi đầu của quá trình ĐMC sẽ bảo đảm
tìm ra được cách thức hữu ích để xác định mục đích chung của ĐMC giữa các bên
có liên quan. Điều đó sẽ làm cho các bên tham gia tập trung vào sự mong muốn
trong tương lai hơn là vào những vấn đề hiện tại.
- Phải xác định rõ mục đích và phạm vi của ĐMC. Cũng cần phải nêu rõ những vấn
đề sẽ không được đề cập giải quyết. Để giúp cho việc thảo luận được tập trung
trong suốt quá trình thực hiện, cần phải đạt được sự thoả thuận về những kết quả
mong muốn của mỗi cuộc thảo luận trước khi nó bắt đầu.
- Quá trình ĐMC phải bao gồm các khuyến nghị có tính thực tế và các hướng dẫn
chứa đựng trong báo cáo. Cần phải làm rõ mối liên kết giữa các mục tiêu và các
chiến lược, các vấn đề về thể chế, các dự án và các hành động. Điều này sẽ trợ
giúp cho việc theo dõi tiến trình thực hiện các khuyến nghị liên quan đến quá
trình thực hiện ĐMC.
- Không nên tập trung quá trình ĐMC vào việc soạn thảo báo cáo mà phải tập trung
vào việc triển khai các vấn đề về thể chế, các hệ thống trợ giúp ra quyết định, các
công cụ và trình tự về quản lý môi trường, cũng như việc xây dựng năng lực và
các chương trình đào tạo cần thiết để hòa nhập các mục tiêu của tính bền vững
vào quá trình ra quyết định chiến lược.
- Thực tế là công tác ĐMC còn tương đối mới mẻ, do vậy trong nhiều trường hợp
việc xây dựng năng lực cho các bên khác nhau liên quan đến quá trình ĐMC có
thể được yêu cầu như là một phần của quá trình ĐMC. Các chuyên gia đóng góp
vào quá trình ĐMC có thể yêu cầu sự trợ giúp bổ sung để tránh tình trạng thiên
lệch về việc đánh giá tác động của đề xuất phát triển đến các điều kiện về môi
trường vŕ kinh tế - xã hội (giống như ĐTM) và chuyển sang việc xác định các cơ
hội và các hạn chế của các điều kiện về môi trường và kinh tế - xã hội đối với sự
phát triển trong tương lai. Cũng cần phải có sự đào tạo và xây dựng năng lực để
thực hiện các khuyến nghị liên quan đến quá trình tiến hành ĐMC.
II. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH VỀ ĐMC
Ở VIỆT NAM
Các nghiên cứu điển hình về ĐMC ở Việt Nam chủ yếu là các nghiên cứu khoa
học thí điểm thực hiện ĐMC đối với một số địa phương. Các nghiên cứu này thường là
các nghiên cứu được sự tài trợ của một số dự án, đặc biệt là Chương trình SEMLA thuộc
Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trên thực tế cũng có một số nghiên cứu tiến hành ĐMC
nhưng chất lượng chưa thực sự được đánh giá cao do nhiều nguyên nhân trong đó có một
nguyên nhân là do kinh phí thực hiện quá ít (theo quy định, mức chi phí cho ĐMC hiện
nay chỉ tương đương 3% so với kinh phí lập CQK). Đối với ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn, các ĐMC còn it hơn nữa - chủ yếu là một số các nghiên cứu điển hình
dưới dạng dự án tài trợ (ask a Hưng-Vụ KHCN)
1. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện An Nhơn, Bình Định
Mục tiêu chung: Nghiên cứu nhằm kết hợp các mục tiêu về môi trường trong quy hoạch
sử dụng đất, 2007-2010 tại khu vực nghiên cứu.
Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá hiện trạng môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội tại khu vực dự án.
- Đánh giá và dự báo những tác động môi trường do hoạt động của dự án trong
từng giai đoạn cụ thể.
- Đề xuất biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực và chương trình giám sát môi
trường trong từng giai đoạn cụ thể.
- Phân tích những tiềm năng cải thiện môi trường thông qua những thay đổi trong
việc sử dụng đất.
Phương pháp: Xây dựng báo cáo ĐMC độc lập với quá trình xây dựng quy hoạch sử
dụng đất. Cụ thể
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: phỏng vấn trực tiếp người dân và chính quyền
địa phương liên quan.
- Phương pháp khảo sát hiện trường: tiến hành khảo sát, đo đạc hiện trạng môi
trường tại khu vực dự án.
- Phương pháp thống kê: xử lý số liệu bằng các thuật toán xác suất thống kê.
- Phương pháp nhận dạng: mô tả hệ thống môi trường, xác định các thành phần của
dự án ảnh hưởng đến môi trường.
- Phương pháp đánh giá nhanh: dựa trên phương pháp đánh giá tác động môi
trường của Tổ chức Y tế Thế giới để tính toán tải lượng ô nhiễm và đánh giá tác
động của các nguồn ô nhiễm.
- Phương pháp ma trận: nhận diện và sử dụng ma trận đánh giá tác động nhanh để
đánh giá các tác động của dự án đến môi trường vật lý, môi trường sinh học và
môi trường văn hóa - xã hội.
- Phương pháp chuyên gia: dựa vào hiểu biết và kinh nghiệm về khoa học môi
trường của nhóm đánh giá.
- Phương pháp GIS: sử dụng các công cụ và phần mềm như GPS, Mapinfo,
- Arcview…
- Phương pháp mô hình toán: sử dụng mô hình toán để đánh giá và dự báo lan
truyền ô nhiễm đến môi trường.
Điểm mạnh:
Một báo cáo ĐMC có chất lượng cao được xây dựng với các thông tin tuơng đối chi tiết
về hiện trạng môi trường tại huyện An Nhơn. Chính các báo cáo về hiện trạng môi trường
này đã tạo ra được một cơ sở khoa học về môi trường cho quá trình ra quyết định quy
hoạch của chính quyền địa phương. Đồng thời, báo cáo cũng đánh giá và đưa ra các dự
báo tác động về môi trường do quy hoạch sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu. Các tác
động này bao gồm chủ yếu từ quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa được tóm tắt như
sau:
Các tác động tích lũy được đánh giá, phân tích khá kĩ trong báo cáo ĐMC liên quan đến
các vấn đề về ô nhiễm trực tiếp nguồn nước mặt trên địa bàn huyện; ô nhiễm nước ngầm
tầng nông một số khu vực do nhiễm bẩn nước thải; khả năng cạn kiện nguồn nước ngầm
do khai thác sử dụng quá mức; ô nhiễm môi trường đất; ô nhiễm không khí do khí thải
của các KCN/CCN; ô nhiễm do mật độ giao thông tăng do ĐTH, CNH trong toàn vùng.
PHÁT
TRIỂN
CÔNG
NGHIỆP
PHÁT
TRIỂN
ĐÔ THị
Hình thành
nhiều KCN,
cụm CN trong
khu vực
Phát triển hệ
thống giao
thông trong khu
vực và liên
vùng
Xây dựng các
hệ thống cấp
thoát nước
Hình thành
nhiều khu dân
cư mới trong
khu vực
Gia tăng khí thải,
nước thải, chất thải
công nghiệp
Gia tăng khí thải,
nước thải, chất thải
công nghiệp
Cản trở hệ thống
thoát nước
Tăng mật độ giao
thông
Giảm lượng nước
ngầm
Tăng dòng chảy
mưa
Gia tăng khai thác
nước ngầm
Giảm diện tích
không gian mở
Ô nhiễm không
khí
Ô nhiễm nguồn
nước mặt
Gây ngập úng và
ảnh hưởng đến
VSMT đô thị
Cạn kiệt nguồn tài
nguyên nước ngầm
Ô nhiễm môi
trường đất
Đã có 3 kịch bản quy hoạch sử dụng đất đã được đề xuất và mỗi quy hoạch này đều đã
được đánh giá về khía cạnh môi trường với các đề xuất về bảo vệ môi trường được xây
dựng cho các lựa chọn khác nhau. Đây là một hướng đi đúng để có thể làm cơ sở khoa
học cho người có trách nhiệm ra quyết định lựa chọn 1 kế hoạch hành động về môi
trường tốt cho huyện dựa trên những yêu cầu cụ thể cũng như các điều kiện sẵn có của
địa phương.
Nhược điểm: có 2 nhược điểm lớn của báo cáo ĐMC này được thể hiện khá rõ đồng thời
đây cũng là 2 bài học kinh nghiệm có thể rút ra cho quá trình xây dựng các báo cáo ĐMC
khác trong tương lai.
- Thứ nhất, báo cáo ĐMC chưa hoàn toàn gắn với quy hoạch sử dụng đất và còn
quá chung chung – các đánh giá tác động chưa làm nổi bật được sự khác biệt và
làm cho nguời đọc nhận rõ được đây là các tác động môi trường do quy hoạch sử
dụng đất gây ra. Đây là hậu quả của việc dự án này do 2 công ty (nhóm) thực
hiện: việc xây dựng báo cáo ĐMC và xây dựng quy hoạch hoàn toàn tách biệt và
không có sự thống nhất. Đây cũng là điểm cần lưu ý nhất và là bài học đắt giá
nhất có thể rút ra cho các hoạt động xây dựng báo cáo ĐMC sẽ có trong tương lai:
nên tiến hành theo kiểu lồng ghép.
- Thứ hai, do báo cáo ĐMC được sử dụng chỉ như 1 công cụ phục vụ cho quá trình
xây dựng quy hoạch sử dụng đất nên đã hạn chế các tác dụng của các kết quả có
được từ báo cáo này. Trong tương lai, các kết quả của ĐMC cần được sử dụng
như các kết quả của một báo cáo quy hoạch môi trường chung để tận dụng đuợc
các kết quả này cho quá trình xây dựng quy hoạch.
Kinh nghiệm và bài học:
- QHSDĐ cần gắn yếu tố môi trường có sự tham gia của người dân để có được sự
đồng thuận cao và tích cực góp ý kiến quan trọng cho Nhà nước, đặc biệt là tính
khả thi trong QHSDĐ. Nói cách khác, quá trình lập quy hoạch cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa tất cả các bên liên quan đến quy hoạch;
- Hạn chế thấp nhất sự ô nhiễm môi trường, sử dụng tài nguyên đất đai hợp lý phục
vụ phát triển KT-XH bền vững;
- Việc lập QHSDĐ lồng ghép với yếu tố môi trường là một vấn đề mới và phức tạp,
chưa được Bộ TNMT hướng dẫn nên trong quy trình nội dung cũng còn nhiều
lúng túng, nhất là việc đánh giá tác động môi trường lồng ghép QHSDĐ;
- Việc lấy ý kiến đóng góp của người dân cần công khai minh bạch nhưng tren thực
tế còn gặp nhiều khó khăn;
- Đội ngũ cán bộ tham gia QHSDĐ có lồng ghép với yếu tố môi trường chưa có
kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Hơn nữa, việc chưa có đội ngũ chuyên gia
chuyên nghiệp cộng với lực lượng tham gia trực tiếp quá mỏng, lại chưa hoàn
toàn có được sự phối hợp đắc lực của cán bộ địa chính cấp huyện, xã cũng ảnh
hưởng lớn đến chất lượng của quá trình xây dựng báo cáo;
- Trình độ dân trí chưa cao, ý thức hiểu biết về QHSDĐ lồng ghép với yếu tố môi
trường còn hạn chế.
2. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện Vị Xuyên, Hà Giang
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm kết hợp các mục tiêu về môi trường trong quy hoạch sử
dụng đất, 2007-2010 tại khu vực nghiên cứu.
Phương pháp: xây dựng báo cáo ĐMC mang tính lồng ghép các yếu tố môi trường (tác
động môi trường) trong quá trình xây dựng quy hoạch.
Với các đặt vấn đề như vậy, việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho vùng nghiên cứu
và các hoạt động đánh giá tác động môi trường được thực hiện bởi cùng một đơn vị là
Viện Thiết kế và Quy hoạch Nông nghiệp nhằm đảm bảo tính lồng ghép giữa 2 hoạt động
và đảm bảo các phân tích, đánh giá về môi trường có thể làm cơ sở để các nhà ra quyết
định cân nhắc trước khi quyết định phê duyệt quy hoạch sử dụng đất.
Một cách tổng thể, các kết quả phân tích và đánh giá tác đông môi trường được lồng ghép
trong suốt quá trình xây dựng quy hoạch và như đã nói trên, cần nhấn mạnh thêm rằng 2
quá trình này được tiến hành bởi cùng một đơn vị thực hiện. Việc này bắt đầu bằng công
đoạn khảo sát đối với các cộng đồng về hiện trạng môi trường và sau đó là các khảo sát
nhằm tìm hiểu về hiện trạng sử dụng đất (tập trung vào vấn đề ứng phó với các rủi ro về
xói mòn và sụt lở đất). Cuối cùng, quy trình này sẽ đưa ra được các kết quả đánh giá và
so sánh về kết quả (các tác động về môi trường) của 2 kịch bản quy hoạch sử dụng đất đề
xuất để các nhà ra quyết định có thể xem xét và lựa chọn để xác định phương án quy
hoạch phù hợp nhất với các điều kiện và yêu cầu cụ thể của vùng quy hoạch.
Điểm mạnh:
Bản quy hoạch sử dụng đất này đã được xây dựng lồng ghép với một cơ sở khoa học về
các vấn đề môi trường tương đối tốt, các xu hướng về sử dụng đất và môi trường cũng
như các khuyến nghị về các giải pháp bảo vệ môi trường (ví dụ, để chống lại quá trình
xói mòn đất cũng như quản lí chất thải) trong kịch bản quy hoạch đề xuất. Đây cũng là
điểm mạnh của báo cáo khi đưa ra được các cơ sở để so sánh giữa các kịch bản phát triển
khác nhau.
Điểm yếu:
Nghiên cứu này ngoài những ưu điểm rất đáng ghi nhận cũng có một số điểm cần cân
nhắc thêm trong đó đặc biệt là vấn đề về việc huy động các bên liên quan, nhất là các bên
liên quan của địa phương trong quá trình xây dựng báo cáo.
Do nghiên cứu này hoàn toàn do một đơn vị bên ngoài (không có liên quan gì đến địa
phương) thực hiện bao gồm cả việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất và ĐMC của quy
hoạch này đối với môi trường địa phương nên hầu như sự tham gia của các cộng đồng địa
phương trong quá trình xây dựng là rất ít. Trên thực tế, sự tham gia của các bên liên quan
cấp địa phương là rất quan trọng trong quá trình xây dựng quy hoạch do họ chính là
những người trực tiếp sử dụng nguồn lợi, vừa được hưởng lợi từ các quy hoạch cũng vừa
bị ảnh hưởng từ chính các quy hoạch nên họ sẽ có những ý kiến tương đối xác đáng đóng
góp cho quá trình xây dựng quy hoạch. Mặt khác, đối với phía các nhà làm quy hoạch
nếu không có sự tham gia của cộng đồng cũng như các bên liên quan ở địa phương cũng
sẽ rất khó thu thập đủ thông tin phục vụ cho quy hoạch, kẻ cả các thông tin cơ bản chứ
chưa nói đến các thông tin liên quan đến các vấn đề nhạy cảm trong khi các yếu tố này rất
có thể tác động tương đối lớn đến kết quả của quy hoạch.
Bài học/kinh nghiệm:
- Việc phổ biến rộng rãi các kết quả nghiên cứu đến cộng đồng dân cư địa phương
và sau đó nhận lại và cân nhắc các phản hồi từ phía địa phương là rất quan trọng
trong việc tìm và lựa chọn phương án qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất tối ưu. Nói
cách khác, quá trình xây dựng quy hoạch có sự tương tác đa chiều là rất quan
trọng không chỉ với vấn đề môi trường mà cả các vấn đề khác về kinh tế và xã
hội. Một cách tổng quát, năng lực huy động sự tham gia của các bên liên quan,
trong đó có cả các chuyên gia cũng là cực kì quan trọng, giúp cho sản phẩm có
chất lượng hơn;
- Sự khác nhau giữa số liệu trong niên giám thông kê và số liệu thu thập là một vấn
đề lớn - đã gây ra những khó khăn trong xử lý và tổng hợp số liệu. Đây không chỉ
là vấn đề của riêng nghiên cứu này và cần được quan tâm giải quyết sớm trên
phạm vi toàn quốc để tránh lãng phí nguồn lực cũng như khả năng có thể đưa ra
các đánh giá sai lầm;
- Năng lực cán bộ cấp xã và huyện về QHSDĐ còn yếu, do đó sự phối hợp giữa địa
phương, đơn vị tư vấn và Sở TNMT còn gặp khó khăn làm giảm tính hiệu quả của
quy hoạch cũng như quá trình ĐMC;
3. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất Thị trấn Long Hải, BRVT,
2006-2010
Mục tiêu:
Nghiên cứu nhằm kết hợp các mục tiêu về môi trường trong quy hoạch sử dụng đất,
2007-2010 tại khu vực nghiên cứu đồng thời giúp Bà Rịa - Vũng Tàu nhân rộng mô hình,
thực hiện tốt công tác lập quy họach, kế họach sử dụng đất nói riêng và lập quy họach, kế
họach cho các ngành nói chung trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Mục tiêu cụ thể:
- Thí điểm Công tác lồng ghép môi trường trong quá trình lập qui hoạch, kế hoạch
sử dụng đất
- Tạo mô hình cho công tác lập qui hoạch, kế hoạch khác trên địa bàn tỉnh có tính
đến yếu tố môi trường.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý MT, cán bộ lập kế hoạch, qui
hoạch
- Chia sẻ bài bài học kinh nghiệm với hợp phần quốc gia và hợp phần các tỉnh
SEMLA
Phương pháp:
Đây là một cách thức thực hiện tương đối khác so với các ĐMC khác - Báo cáo dự thảo
quy hoạch sử dụng đất đã được đưa ra từ giưa năm 2006, khi đó chương trình SEMLA
mới bắt đầu làm việc với trường hợp nghiên cứu này.
Phương pháp lồng ghép đã được Sở Tài nguyên và Môi trường rà soát với sự tư vấn của
chương trình SEMLA (các chuyên gia tư vấn) cùng với kết quả khảo sát từ các cuộc điều
tra cũng như các thông tin từ các cuộc tham vấn cộng đồng địa phương.
Điểm mạnh:
Sau khi đã rà soát và điều chỉnh bản dự thảo, quy hoạch sử dụng đất đã bao gồm được
các yếu tố về môi trường cũng như cả các đánh giá có liên quan về mặt xã hội như nhu
cầu về diện tích cây xanh, hoặc cơ sở hạ tầng về môi trường… Sự tích hợp này tạo nên
một diện mạo mới, toàn diện hơn cho bản quy hoạch và đồng thời nó cũng tạo ra sức
thuyết phục lớn hơn cho bản quy hoạch được thuyết minh theo hướng tiến tới mục tiêu
dử dụng bền vững nguồn lợi tự nhiên.
Sau đó, chính quyền địa phương - các nhà ra quyết định phê duyệt quy hoạch đã tổ chức
đuợc một cuộc triển lãm nhằm lấy ý kiến rộng rãi của các bên liên quan về dự thảo quy
hoạch được trình diễn và đây cũng được coi là một điểm mạnh nữa trong quá trình xây
dựng quy hoạch này khi huy động được nhiều ý kiến từ các bên liên quan.
Điểm yếu:
Điểm yếu lớn nhất của báo cáo ĐMC này đó là được xây dựng khá muộn hơn so với quá
trình xây dựng quy hoạch. Chính vì vậy, các yếu tố liên quan đến môi trường được đưa
vào phân tích, đánh giá không nhiều và không bao trùm được hết các vấn đề so với yêu
cầu thực tiễn đặt ra. Trên thực tế, hầu như chỉ có các yếu tố về cơ sở hạ tầng môi trường
được đưa vào đánh giá và được các nhà ra quyết định cân nhắc trong quá trình điều chỉnh
quy hoạch.
Bài học/kinh nghiệm:
- Việc quy hoạch sử dụng đất bắt buộc phải tính đến các yếu tố môi trường ngay từ
khi có các ý tưởng về lập qui hoạch SDĐ
- Phải tiến hành lồng ghép môi trường đồng thời với quá trình xây dựng quy hoạch.
- Tổ chức tham vấn cộng đồng trong việc phối hợp với kinh nghiệm của tư vấn
quốc tế và UBND thị trấn với sự tham gia của người dân cấp cơ sở
4. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện Yên Thành, Nghệ An
Mục tiêu:
Nghiên cứu nhằm kết hợp các mục tiêu về môi trường trong quy hoạch sử dụng đất,
2006-2010 tại khu vực nghiên cứu.
Mục tiêu cụ thể:
- Về kinh tế: Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân và tổng giá trị gia tăng
đến năm 2010. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ - nhất là dịch vụ du lịch, phấn đấu đến năm 2010 thu nhập bình quân đầu
người đạt 850 USD/năm. Ngoài ra, phấn đấu tăng nhanh giá trị kinh tế trên một
đơn vị diện tích canh tác, tăng độ che phủ của rừng, phát triển cây nguyên liệu
giấy cung cấp cho các nhà máy chế biến bột giấy của tỉnh.
- Về xã hội: giảm và duy trì mức độ phát triển dân số bình quân thấp (đến năm
2010 là 0,7 %). Xóa hẳn số hộ đói giảm hộ nghèo, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ đói
nghèo từ 8% năm 2005 xuống 4% ở năm 2010. Cải thiện mạnh mẽ cơ sở hạ tầng
nông thôn (cơ bản hoàn thành việc xây dựng giao thông liên thôn, các tuyến đến
trung tâm xã được rải nhựa hoặc cấp phối). Tăng tổng đầu tư toàn xã hội, tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sản xuất
kinh doanh mà pháp luật cho phép. Tạo thêm nhiều việc làm ho lao động địa
phương đồng thời khích lệ nhân dân làm giàu chính đáng bằng sức lao động, tài
năng và sáng tạo của mình.
- Về môi trường: duy trì, bảo vệ nghiêm ngặt trạng thái rừng hiện có. Khoanh nuôi
trồng rừng kết hợp trồng cây lâu năm để đạt tỷ lệ tán che cao nhất. Phát triển lâm
nghiệp theo hướng xã hội hóa nghề rừng, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái bền
vững, chăm sóc phát triển rừng nghèo thành rừng giàu. Chuyển đổi diện tích rừng
phòng hộ ít xung yếu thành rừng kinh tế. Gắn khai thác sử dụng với nhiệm vụ tái
tạo làm tăng độ phì cho đất, chống suy thoái đất, gắn lợi ích kinh tế với bảo vệ
môi trường đảm bảo sử dụng đất bền vững lâu dài. Đảm bảo môi trường trong
lành cho hiện tại và thế hệ tương lai, 100% cơ sở đạt tiêu chuẩn môi trường, 80%
rác thải được thu gom, xử lý trong giai đoạn đến năm 2010 và sẽ nâng tỷ lệ này
lên 95-100% vào các năm tiếp theo.
Phương pháp:
Quá trình xây dựng báo cáo ĐMC được thiết lập tách biệt khỏi quá trình xây dựng quy
hoạch sử dụng đất. Hai nhóm chuyên gia khác nhau cũng đã được thành lập để tiến hành
song song hai nhiệm vụ này: nhóm chuyên gia của Sở Tài nguyên và Môi trường thực
hiện ĐMC và nhóm chuyên gia của một Trung tâm Kĩ thuật Tài nguyên và Môi trường
thực hiện việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất. Hai đơn vị này đã phối kết hợp với nhau
khá tốt để lựa chọn phương án quy hoạch sử dụng đất tối ưu liên quan đến phát triển kinh
tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Báo cáo đã được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường và sức khoẻ
cộng đồng trong thực hiện quy hoạch sử dụng đất để áp dụng vào việc quy hoạch và lựa
chọn phương án quy hoạch sử dụng đất huyện Yên Thành. Các khu vực được đưa ra cân
nhắc bao gồm khu công nghiệp, cụm công nghiệp, lò mổ, bãi rác, nghĩa trang, trại chăn
nuôi, chợ, trạm y tế… đồng thời các vấn đề có liên quan như quy hoạch giao thông cũng
được đưa vào để cân nhắc và lựa chọn phương án tối ưu.
Điểm mạnh:
Một báo cáo ĐMC có chất lượng cao được xây dựng với các thông tin rất chi tiết với các
đánh giá có chất lượng chuyên môn cao về hiện trạng môi trường tại huyện Yên Thành,
Nghệ An. Các báo cáo về hiện trạng môi trường này đã góp phần tạo nên cơ sở khoa học
cho quá trình ra quyết định quy hoạch của chính quyền địa phương.
Đồng thời, quá trình thực hiện ĐMC này cũng đã xây dựng được một cơ sở dữ liệu gốc
về hiện trạng môi trường trong khu vực nghiên cứu và cơ sở dữ liệu này sẽ rất hữu ích
cho công tác quy hoạch môi trường cho Huyện trong tương lai.
Điểm yếu:
Cũng tương tự như một số các dự án đánh giá môi trường chiến lược khác, báo cáo này
còn quá tập trung vào các vấn đề kĩ thuật môi trường chung mà quên mất việc gắn kết
giữa các kết luận đánh giá tác động môi trường này với việc xác lập CQK - ở đây là quy
hoạch sử dụng đất. Đây chính là điểm làm cho báo cáo này giảm mất khá nhiều giá trị
đặc biệt là trong việc góp ý điều chỉnh quy hoạch.
Chính vì điểm yếu này dẫn đến điểm yếu thứ hai của báo cáo đó là các kết luận và kiến
nghị còn quá chung chung, ít trọng lượng để nhà ra quyết định có đủ cơ sở đưa ra các
quyết định điều chỉnh hợp lí trong quá trình xây dựng quy hoạch. Đây cũng là điểm yếu
lớn thứ 2 làm giảm giá trị của báo cáo mặc dù báo cáo đã xây dựng được một nghiên cứu
về hiện trạng môi trường tương đối tốt nhưng cần luôn ghi nhớ rằng tất cả các đánh giá
tác động môi trường ở đây đều nhằm phục vụ việc ra quyết định trong quá trình xây dựng
quy hoạch.
5. ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Báo cáo này hiện đang được coi là một trong những hình mẫu chuẩn nhất đối với việc
xây dựng ĐMC tại Việt Nam.
Mục tiêu:
Mục đích, yêu cầu của quy hoạch sử dụng đất là mang tính chất dự báo và thể hiện những
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng, các ngành, các lĩnh vực trên
từng địa bàn cụ thể theo các mục đích sử dụng đất đai hợp lý và có hiệu quả. Do đó quy
hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng sử dụng đất đến năm 2020 VKTTĐ Bắc
bộ phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của cả nước,
của cả vùng; cụ thể hoá một bước quy hoạch sử dụng đất cả nước đến năm 2010 và làm
cơ sở cho xây dựng quy hoạch sử dụng đất của cả nước thời kỳ 2011 – 2020. Sau khi
được phê duyệt, quy hoạch sử dụng đất sẽ trở thành công cụ quản lý Nhà nước về đất đai
phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn; xử lý các vấn đề còn bất cập và các vi phạm
pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai.
Quy mô quy hoạch:
VKTTĐ Bắc Bộ có vị trí nằm trọn trong vùng đồng bằng sông Hồng và phần lớn vùng
Thủ đô Hà Nội, gồm 2 thành phố trực thuộc Trung ương là TP. Hà Nội và TP. Hải Phòng
và 6 tỉnh: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh. Vùng có
diện tích tự nhiên là 15.488 km2, chiếm 4,7% diện tích tự nhiên của cả nước, dân số
khoảng 13.555 nghìn người, chiếm 16,31% dân số cả nước, mật độ dân số trung bình là
875 người/km
2
.
Phương pháp áp dụng trong quá trình ĐMC
4.2.1. Danh mục các phương pháp sử dụng
- Các phương pháp ĐTM truyền thống: thống kê, ma trận, mạng lưới, so sánh
tương tự, phân tích kịch bản và chồng chập.
- Các phương pháp đánh giá chính sách và quy hoạch: phân tích xu hướng và ngoại
suy, phân tích đa tiêu chí.
- Các phương pháp đặc biệt: kết hợp kiến thức chuyên gia và kinh nghiệm thực tế
từ các lĩnh vực khác nhau (chính sách, xã hội, kinh tế, môi trường,…)
4.2.2. Đánh giá mức độ tin cậy của các phương pháp
Trong quá trình thực hiện ĐMC quy hoạch sử dụng đất VKTTĐ Bắc bộ, các phương
pháp ĐTM truyền thống đều đã được áp dụng. Các dự án thông thường (không phải là
quy hoạch, chiến lược, chương trình, kế hoạch) đều cung cấp các số liệu cụ thể về nguyên
liệu, sản phẩm, công nghệ và dòng thải, vì vậy áp dụng các phương pháp truyền thống
thường cho kết quả dự báo định lượng và có độ tin cậy cao. Trong khi đó, do tính chất
của các quy hoạch, chiến lược, chương trình, kế hoạch ở tầm vĩ mô, các số liệu đưa ra
không đủ cụ thể và chi tiết, việc áp dụng các phương pháp truyền thống thường chỉ cho
kết quả định tính. Để đánh giá được cả những tác động gián tiếp, tác động tích luỹ và tác
động tương hỗ (còn gọi là tác động khu vực) cần phải áp dụng các phương pháp đánh giá
đặc thù áp dụng đối với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (còn gọi là phương pháp
đánh giá chiến lược).
- Phương pháp liệt kê:các bảng liệt kê được sử dụng dựa trên việc xác định các hoạt
động và nguồn nhạy cảm môi trường để xác định các tác động trực tiếp, và một số
tác động gián tiếp và tác động tích lũy. Phương pháp này giúp bao quát được hết
các tác động có thể xảy ra, nhưng không đủ dữ liệu để so sánh tầm quan trọng của
từng tác động;
- Phương pháp ma trận: tương tự như các bảng liệt kê, ma trận được sử dụng để
ước tính ở mức độ nào đó các tác động từ các hoạt động của một dự án lên một
nguồn, tuy nhiên cũng chỉ mang tính ước tính chủ quan và định tính;
- Phương pháp phân tích mạng lưới: dựa vào khái niệm về các tác động có tính liên
kết và tác động tương hỗ với các yếu tố môi trường riêng biệt. Phương pháp này
có thể áp dụng tốt để xem xét các tác động gián tiếp và tác động tương hỗ, tuy
nhiên chỉ mang tính định tính, không xác định được quy mô tác động hay mối
tương quan của chúng.
- Phân tích xu hướng và ngoại suy: xác định nguyên nhân và các hậu quả trong quá
khứ để dự báo các tác động từ các hoạt động trong tương lai. Phương pháp này
còn được gọi là “hồi cứu quá khứ - dự báo tương lai”, có nghĩa là hồi cứu các số
liệu về trạng thái và xu thế diễn biến môi trường quá khứ trên cơ sở dữ liệu của hệ
thống quan trắc môi trường để dự báo trạng thái môi trường trong tương lai Tuy
nhiên, phương pháp này đòi hỏi phải có dữ liệu quá khứ với thời gian đủ dài. Ở
nước ta cơ sở dữ liệu của hệ thống monitoring mới được tích luỹ trong những năm
gần đây và chủ yếu là dữ liệu về trạng thái môi trường đô thị và khu công nghiệp.
Vì vậy, khi áp dụng đối với dự án quy hoạch sử dụng đất VKTTĐ Bắc Bộ các dự
báo đưa ra chỉ có tính định tính.vì số liệu và thông tin trong quá khưa không đầy
đủ và không phù hợp với mục tiêu đánh giá tác động của việc sử dụng đất;
- Phương pháp “so sánh tương tự”: dự báo trạng thái môi trường bằng cách so sánh
tương tự là phương pháp đơn giản nhất và vì vậy kết quả dự báo theo phương
pháp này được cho là có độ tin cậy thấp. Phương pháp này dựa trên các kết quả
ĐMC các quy hoạch sử dụng đất ở nước ngoài để so sánh và áp dụng dự báo đối
với quy hoạch sử dụng đất VKTTĐ Bắc bộ. Trong hoàn cảnh ĐMC mới bắt đầu
được áp dụng ở nước ta và chưa có một ĐMC nào được thực hiện đối với quy
hoạch sử dụng đất, phương pháp đóng vai trò quan trọng khi kết hợp với các
phương pháp đánh giá chính sách và quy hoạch khác;
- Phân tích đa tiêu chí: đánh giá các phương án thay thế dựa trên một số tiêu chí và
kết hợp các đánh giá riêng rẽ vào trong một đánh giá tổng thể, được sử dụng để
nhận dạng, lựa chọn một phương án tối ưu nhất trong các phương án đề xuất. Tuy
nhiên phương pháp này có nhược điểm là việc cho điểm số đánh giá còn mang
tính chủ quan (ảnh hưởng bởi nhận thức của người thực hiện phương pháp), vì thế
có thể không chính xác;
- Đánh giá của tập thể chuyên gia: trong điều kiện ở nước ta hiện nay, phương pháp
kết hợp kiến thức chuyên gi có kinh nghiệm thực tế từ các lĩnh vực khác nhau
(chính sách, xã hội, kinh tế, môi trường…) được sử dụng chủ yếu trong việc xây
dựng quy hoạch, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát
triển ngành. Vì vậy, đây cũng là phương pháp chủ yếu được áp dụng trong quá
trình ĐMC quy hoạch sử đất VKTTĐ Bắc Bộ.
Đặc điểm của dự án có liên quan đến môi trường:
Khi triển khai Quy hoạch sử dụng đất VKTTĐ Bắc Bộ, các yếu tố môi trường sau đây sẽ
bị ảnh hưởng:
- Chế độ thủy văn: việc thay đổi phương thức sử dụng đất thường kéo theo thay đổi
chế độ thuỷ văn, bao gồm chế độ dòng chảy và xâm nhập mặn.
- Tính chất bức xạ và nhiệt: thay đổi bề mặt quả đất có thể kéo theo thay đổi chế độ
hấp thụ và bức xạ năng lượng mặt trời, dẫn tới thay đổi chế độ nhiệt toàn vùng.
- Vòng tuần hoàn sinh-địa-hoá: thay đổi tính chất hấp thụ và thải các bon từ thảm
thực vật và đất sẽ kéo theo thay đổi vòng tuần hoàn N và P.
- Chất lượng không khí: Quy hoạch sử dụng đất có ảnh hưởng đến chất lượng
không khí. Ô nhiễm không khí xảy ra từ tác động của các dự án như xây dựng dự
án mới có thải chất ô nhiễm không khí hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông.
- Chất lượng nước: sử dụng đất và tài nguyên nước có mối quan hệ mật thiết. Dù
cho nguồn tác động là từ tự nhiên hay là từ các hoạt động của con người thì ảnh
hưởng của việc sử dụng đất đến chất lượng và lưu lượng tài nguyên nước đều rất
lớn. Cần lưu ý rằng đây là ảnh hưởng 2 chiều: hoạt động sử dụng đất có tác dụng
trực tiếp đến tài nguyên nước, đồng thời chất lượng và lưu lượng nước lại ảnh
hưởng lớn đến quy hoạch sử dụng đất. Đặc biệt, quy hoạch sử dụng đất cho hoạt
động công nghiệp và nông nghiệp có ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng
nước. Đất nông nghiệp thường được sử dụng một lượng lớn phân bón và thuốc
bảo vệ thực vật, cũng như trên đất công nghiệp thường sử dụng và thải bỏ một các
hoá chất độc hại, đều làm tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước mặt và nước
ngầm.Trong khi đó, các hoạt động sử dụng đất luôn gắn liền với nhu cầu sử dụng
nước.
- Chất lượng đất: thực trạng quản lý đất, lịch sử sử dụng đất và điều kiện địa lý-địa
chất ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa sử dụng đất và tính chất đất, đồng thời các
hoạt động sử dụng đất cũng có ảnh hưởng rõ rệt đến tính chất của đất. Hậu quả
của việc tác động tự nhiên và hoạt động của con người đến chất lượng đất là làm
cho đất bị xói mòn, đất bị thoái hoá và đất bị hoang hoá.
- Đa dạng sinh học: các hoạt động sử dụng đất và các thay đổi xảy ra do khai thác
đất quá mức đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái, đặc biệt là mất nơi cư
trú và thay đổi cân bằng sinh thái (kể cả thay đổi cân bằng giữ các loài tự nhiên và
ngoại lai).
- Cảnh quan: hoạt động sử dụng đất luôn kéo theo sự thay đổi mạnh mẽ cảnh quan.
- Các yếu tố kinh tế-xã hội khác: thay đổi phương thức sử dụng đất thường đi kèm
với thay đổi về mật độ dân số và thay đổi cấu trúc nền kinh tế. Điều đó tất yếu sẽ
làm thay đổi mạnh mẽ đến trình độ văn hoá, giáo dục, việc làm và các vấn đề liên
quan (tệ nạn xã hội, bệnh tật…)
Điểm mạnh:
- Báo cáo đã sử dụng được kết hợp khá nhiều các phương pháp nghiên cứu để tăng
độ tin cậy. Các phương pháp này đều được mô tả chi tiết và đánh giá về độ tin cậy
trong báo cáo;
- Báo cáo đã xây dựng được một hiện trạng về môi trường liên quan đến quy hoạch
sử dụng đất trong khu vực nghiên cứu có giá trị cho các cân nhắc lựa chọn
phương án sau này;
- Báo cáo cũng đã xây dựng được một bức tranh dự báo về các tác động xấu có thể
xảy ra đối với môi trường khi thực hiện quy hoạch sử dụng đất vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ. Dự báo này được thực hiện khá khoa học trên cơ sở xác định được
các nguồn có khả năng gây tác động đối với môi trường (ví dụ, phát triển khu
công nghiệp, làng nghề hay chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khai thác tài
nguyên và kể cả các tác động tích luỹ ); đồng thời, dự báo cũng mô tả được các
đối tượng và quy mô chịu tác động môi trường (tích cực và tiêu cực) từ quy hoạch
sử dụng đất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm cả các yếu tố về môi
trường, kinh tế và xã hội.
- Báo cáo đã xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá môi trường có một ý nghĩa quan
trọng, đặc biệt trong ĐMC, khi dự án là một chương trình/kế hoạch/quy hoạch
bao gồm nhiều hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau, xảy ra trong một không
gian rộng lớn và trong một thời gian dài. Đây là một trong những điểm mạnh của
báo cáo ĐMC này khi xây dựng được bộ tiêu chí tương đối chi tiết và gắn với quy
hoạch đang được xây dựng. Các tiêu chí đánh giá tác động môi trường sẽ giúp
cung cấp các câu trả lời cho câu hỏi về những thay đổi môi trường sẽ xảy ra và
tính bền vững của dự án; đồng thời sẽ giúp giải thích về những quyết định nào và
hậu quả của các quyết định này. Việc xác định đúng các tiêu chí đánh giá tác động
môi trường sẽ giúp thực hiện thành công ĐMC và giúp đề xuất được những
khuyến nghị có ích cho việc ra quyết định. Đồng thời những tiêu chí này cũng sẽ
được sử dụng trong chương trình quan trắc và giám sát môi trường khi thực hiện
quy hoạch. Bộ tiêu chí được trình bày như sau:
TT Tiêu chí Chỉ số
1 Thay đổi kết cấu đất Xói mòn, lở đất, hoang hoá (suy kiệt các chất hữu cơ và
tổng N)
2 Ô nhiễm đất Nhiễm dầu mỡ; tích luỹ kim loại nặng, thuốc BVTV và
các chất hữu cơ khó phân huỷ; nhiễm phèn và nhiễm
mặn
3 Suy giảm nguồn nước
mặt và thay đổi chế độ
thuỷ văn
- pH, COD, BOD, SS
- Phì dưỡng
- Suy kiệt nguồn nước, nhiễm mặn
4 Suy giảm nguồn nước
ngầm
- Nitrate, các chất hữu cơ khó phân huỷ, coliform
- As và các kim loại khác
- Nhiễm mặn
- Sụt giảm trữ lượng
5 Ô nhiễm không khí - Bụi, mùi, PM10, SO2, NOx,CO
- Độ ồn, rung
- Bức xạ nhiệt
6 Suy giảm đa dạng sinh
học
- Mất thảm thực vật
- Giảm số loài và số lượng sinh vật
- Xuất hiện sinh vật ngoại lai
7 Ô nhiễm môi trường
biển
- Trầm tích cửa sông
- Chất lượng nước biển ven bờ và hiện tượng “thuỷ
triều đỏ
8 Biến đổi khí hậu - Tích luỹ khí thải nhà kính
- Tăng tần suất lũ lụt, hạn hán
9 Sức khoẻ cộng đồng - Thay đổi cơ cấu bệnh tật
- Xuất hiện dịch bệnh
10 Phát triển kinh tế-xã hội - Chỉ số GDP, chỉ số nghèo đói
- Chỉ số thất nghiệp (an ninh việc làm, sự đa dạng công
việc)
- Chỉ số phát triển giáo dục
- Chỉ số phát triển con người (nhà ở, sinh kế, chất lượng
cuộc sống)
- Chỉ số rủi ro (an toàn VSTP, an toàn GT, an ninh XH)
- Việc phân tích tác động môi trường của các phương án lựa chọn của báo cáo này
cũng được thực hiện khá bài bản với các phân tích đánh giá với 03 phương án đề
xuất bao gồm cả phương án "không" bằng cách cho điểm theo các tiêu chí đã xác
định ở trên.
- Báo cáo cũng đã tích hợp được xu thế biến đổi chung của các điều kiện tự nhiên,
môi trường và kinh tế-xã hội VKTTĐ Bắc bộ khi thực hiện quy hoạch sử dụng đất
để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
- Phần kiến nghị và giải pháp của báo cáo đã được xây dựng tương đối chi tiết với
các giải pháp ở cấp vĩ mô cũng như vi mô khá hoàn chỉnh.
Điểm yếu:
- Như trên đã nói, do tính chất vĩ mô của quy hoạch và do hiện tại nước ta còn thiếu
các dữ liệu cơ sở, các kết quả đánh giá tác động môi trường đối với quy hoạch sử
dụng đất VKTTĐ Bắc bộ chủ yếu là định tính.
- Chính vì lí do này mà việc phân tích và đánh giá còn phải dựa phần lớn vào năng
lực chuyên gia có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu và quản lý trong lĩnh vực môi
trường và sử dụng đất để đảm bảo độ tin cậy. Mặc dù đây không phải là sai lầm
tuy nhiên nếu hoàn toàn dựa vào năng lực chuyên gia trong nghiên cứu, phân tích
và đánh giá hiện trạng sẽ khó tránh khỏi các trường hợp thiên lệch hoặc định kiến.
- Cũng với nguyên nhân này, việc huy động các bên liên quan trong quá trình xây
dựng báo cáo ĐMC chưa thực sự được coi trọng và đây cũng là điểm góp phầm
làm cho báo cáo thiếu các cơ sở dữ liệu ở cấp địa phương phục vụ cho quá trình
xây dựng báo cáo.
- Các yếu tố khác ngoài môi trường (kinh tế, xã hội) cũng chưa được thực sự chú
trọng như đối với vấn đề môi trường đã làm cho báo cáo trở nên chưa toàn diện,
đồng thời giảm bớt tính thuyết phục khi mục tiêu chung được đặt ra là nhằm xây
dựng và áp dụng quy hoạch sử dụng đất mang tính bền vững.
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Việc lồng ghép đánh giá môi trường trong quá trình xây dựng CQK còn khá mới
mẻ ở Việt Nam nên cần được tiếp tục phát triển cả về khía cạnh nhận thức và hiểu
biết đối với phạm trù này. Ngoài ra, việc xây dựng và tăng cường năng lực cho
đội ngũ chuyên gia có kĩ năng, kinh nghiệm thực hiện ĐMC ở Việt Nam là hết
sức cấp thiết để đảm bảo các CQK được xây dựng lồng ghép một cách hiệu quả
và toàn diện với ĐMC đảm bảo góp phần tiến tới mục tiêu phát triển bền vững;
Trong thời gian tới, cần nhanh chóng xây dựng bản hướng dẫn cụ thể về quá trình
thực hiện ĐMC đặc biệt là cho các lĩnh vực chuyên môn theo ngành dọc đảm bảo
lồng ghép một cách phù hợp với các CQK của từng ngành. Trong quá trình xây
dựng hướng dẫn cần hết sức chú ý đến các yếu tố thực tiễn (các trường hợp
nghiên cứu điển hình) để tạo nên tính khả thi cho các hướng dẫn;
Quá trình xây dựng ĐMC cần được thực hiện theo phương pháp lồng ghép hoàn
toàn (song song) với quá trình xây dựng CQK để đảm bảo tính hiệu quả của ĐMC
- đảm bảo các khuyến nghị từ ĐMC được xem xét và cân nhắc kĩ lưỡng trong suốt
quá trình xây dựng CQK. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng đây không phải là nhiệm
vụ dễ dàng và có thể thực hiện nhanh chóng nhất là trong bối cảnh của Việt Nam
với lực lượng chuyên gia mỏng, chất lượng chưa cao, kinh phí quá hạn chế và hệ
thống cơ sở dữ liệu gần như không giúp ích gì được cho nghiên cứu;
Chính vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn cả về
CQK cũng như ĐMC là nhiệm vụ rất cần thiết trước mắt. Đồng thời, việc xây
dựng và cập nhật liên tục một hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ quá trình xây dựng
các CQK cũng là nhiệm vụ không thể để chậm trễ nhằm đảm bảo tính thực tiễn,
chính xác và khả thi của các CQK khi ban hành;
Việc xây dựng và tăng cường năng lực cho các bên liên quan, đặc biệt là các cộng
đồng để huy động trong quá trình xây dựng CQK cũng như ĐMC cũng đã và
đang được quan tâm nhưng cần được đẩy mạnh hơn nữa để đảm bảo tính thực tiễn
của các kết luận đồng thời cũng đảm bảo tính khả thi của các kết luận đó;
Các CQK cũng như các ĐMC nên xây dựng các kịch bản khác nhau để có thể so
sánh và tìm ra phương án tốt nhất. Quá trình này cần có các tiêu chí đánh giá một
cách toàn diện để đảm bảo tính chính xác.
Đối với ĐMC, trong quá trình thực hiện cũng cần cân nhắc cả các vấn đề về kinh
tế xã hội để đảm bảo tính cân đối trong các kết luận đưa ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chiến lược bảo vệ Môi trường Quốc gia 2001-2010
2. Luật bảo vệ môi trường, 2005
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hướng dẫn kĩ thuật chung về Đánh giá môi
trường chiến lược, 2008
4. Bộ Thuỷ sản, Hướng dẫn đánh giá tác động môi trường cho nuôi trồng thuỷ
sản ven biển, 2007
5. MONRE-SEMLA, Hiện trạng thực hiện các dự án thí điểm và quĩ mở rộng
mang tính chiến lược đến cuối tháng 8 năm 2007
6. MONRE - SEMLA, Evaluation report for the first cycle of evaluation data
collection from 01/07/2006 up to 31/06/2007
7. MONRE - SEMLA, Mid-Term report Covering period from 1st July 2006 to
30th June 2007
8. Báo cáo ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện An Nhơn, Bình Định
9. Báo cáo ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện Vị Xuyên, Hà Giang
10. Báo cáo ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất Thị trấn Long Hải, BRVT, giai
đoạn 2006-2010
11. Báo cáo ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất huyện Yên Thành, Nghệ An
12. Báo cáo ĐMC cho quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
13. Mekong River Commission, Đánh giá môi trường chiến lược, 2001
14. IPSARD, Báo cáo tổng hợp khoá tập huấn đánh giá môi trường chiến lược tại
Yên Bái của Bộ Tài nguyên và Môi trường, chương trình SEMLA
15. IPSARD-DoSaP, Báo cáo kết quả tập huấn ĐMC ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Đồ Sơn, 13 - 17 tháng 11 năm 2008
16. Country case study, 3
rd
High Level Forum on Aid Effectiveness
17. Key Findings and Recommendations of ARDSPS Central Component Field
Trip to NW Region 17-24 July 2008
18. TC Xây dựng số 11 - 2007, Một số vấn đề về đánh giá môi trường chiến lược
trong đồ án quy hoạch xây dựng
19.
20.
21.
22.