Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.52 KB, 14 trang )

Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước
I. Định hướng và mục tiêu về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
1. Định hướng
Quá trình cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đang bước vào
những thời điểm gấp rút khi mà luật doanh nghiệp nhà nước 2005 sắp đến lúc hết
hiệu lực vào 1-7-2010. Thực chất của quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
sang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo nghị
định được ban hành mới nhất vào ngày 19-3 chỉ là một bước đệm nhằm đẩy mạnh
việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước khi thời hạn sắp hết. Còn đích đến cuối cùng
để thay đổi khối doanh nghiệp nhà nước được chính phủ xem xét đến là việc cổ phần
hóa. Do vậy với việc đưa ra yêu cầu về mốc thời gian, nhà nước vẫn cần giám sát việc
chuyển đổi chặt chẽ hơn, cùng với đó là việc chuẩn bị đánh giá, xác định giá trị của
doanh nghiệp với cái đích là cổ phần hóa. Những doanh nghiệp nhà nước thuộc diện
cổ phần hóa mà chưa tiến hành cổ phần hóa kịp trước 1-7-2010 được tiến tới giải
pháp chuyển sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên để kịp tiến
độ chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước. Sau đó tiếp tục quá trình tiến hành cổ
phần hóa theo như kế hoạch đã được chính phủ ban hành. Chính phủ đã có những
định hướng cho công tác chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa
trong thời gian tới:
- Tiếp tục bảo đảm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp thuộc mọi các thành phần kinh tế hoạt động và phát triển theo cơ chế
thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp có thời hạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và
cung ứng các sản phẩm thiết yếu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn; thu hẹp tối đa các lĩnh vực độc quyền kinh doanh của Nhà nước; xoá bỏ đặc
quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Hạn chế việc thành lập mới doanh nghiệp nhà
nước; chỉ thành lập mới doanh nghiệp nhà nước khi có đủ điều kiện và trong các lĩnh
vực sản xuất, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho phát triển kinh tế - xã
hội và doanh nghiệp được thành lập chủ yếu dưới hình thức công ty cổ phần.
- Tiếp tục thực hiện các đề án sắp xếp và phát triển doanh nghiệp nhà nước; tập
trung đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả


các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn với sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối;
đồng thời, mở rộng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác nhằm nâng cao hiệu quả
và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thành chuyển đổi tất
cả các công ty thuộc diện nhà nước cần sở hữu 100% vốn sang hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần. Thành lập và phát triển
một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế trong quá trình mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế,
phù hợp với điều kiện trong nước và các cam kết quốc tế.
- Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tài chính, tạo ra
hành lang pháp lý cần thiết để các tập đoàn kinh tế có thể nâng cao sức cạnh tranh,
hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các cam
kết quốc tế.
- Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã nhằm tạo môi trường pháp lý đồng bộ
và thuận lợi cho các hợp tác xã hình thành và phát triển. Ban hành và tổ chức thực
hiện các chính sách hỗ trợ các loại hình kinh tế hợp tác phát triển theo hướng đa sở
hữu.
- Xây dựng môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; thực hiện và áp dụng thống
nhất các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư,
kinh doanh theo hướng bình đẳng; thực hiện các chính sách khuyến khích và hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là các chính sách về xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương
mại và chuyển giao công nghệ.
Thực hiện tích cực các giải pháp nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính; khắc
phục tình trạng hình sự hóa trong xử lý vi phạm về kinh tế.
2. Mục tiêu
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự tồn tại hàng loạt các doanh nghiệp
Nhà nước hoạt động kém hiệu quả đặc biệt đem lại gánh nặng lớn cho Ngân sách
Nhà nước và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, do vậy quá trình Cổ phần hoá và
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước hướng tới những mục tiêu sau:
- Phải xây dựng khối doanh nghiệp đủ mạnh thông qua các hình thức chuyển đổi, cổ
phần hóa góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước theo cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả
và sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn trong những ngành và lĩnh vực kinh
tế then chốt để nhà nước chi phối, điều khiển được nền kinh tế, đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế.
- Làm nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và xây dựng công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, tạo nền
tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
- Đảm bảo được các sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và nhu cầu cần
thiết cho quốc phòng và an ninh.
- Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp , cơ cấu lại và đổi mới hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước hiện có trên cơ sở phân định rõ, doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn,
doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiêp nhà nước thực hiện đa
dạng hóa sở hữu...
- Giải quyết cơ bản nợ tồn đọng không có khả năng thanh toán; lao động dôi dư mà
những nhiệm vụ xã hội mà doanh nghiệp nhà nước không phải làm.
- Đổi mới và hiện đại hóa một bước quan trọng công nghệ và quản lý của đại bộ phân
doanh nghiệp nhà nước sau khi tiến hành chuyển đổi, cổ phần hóa nhất là trong điều
kiện Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nhằm nâng cao sức
cạnh tranh cũng như đáp ứng được những nhu cầu căn bản của WTO.
- Bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách, hình thành khung pháp lý đồng bộ, tạo lập môi
trường kinh doanh bình đẳng trong cơ chế thị trường cho mọi thành phần kinh tế,
trong đó khối doanh nghiệp sau chuyển đổi phát huy được đầy đủ quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, xóa bỏ bao cấp và có động lực mạnh mẽ trong sản xuất, kinh
doanh.
- Thực hiện việc chuyển đổi toàn diện đối với khối doanh nghiệp nhà nước theo mô
hình công ty hiện đại, hoàn thành cơ bản cổ phần hóa đối với những doanh nghiệp
nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, đặc biệt đẩy mạnh việc cổ phần hóa và đổi
mới cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa những tập đoàn
kinh tế, các tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm… tiếp

tục cổ phần hóa những công ty nhà nước đang thuộc diện phải cổ phần xong đã
chuyển sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo nghị định
ngày 19-3. Hoàn tất việc sáp nhập, cho thuê hoặc giao, bán giải thể, phá sản đối với
những doanh nghiệp nhỏ, không cổ phần hóa được và nhà nước không cần nắm giữ.
II. Các giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
1. Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa
1.1. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp và giải quyết những tồn đọng về
mặt tài chính
Xác định giá trị của doanh nghiệp là một khâu hết sức quan trọng trong quá
trình tiến hành CPH doanh nghiệp. Để làm tốt công việc này không phải là một điều
dễ dàng và nhanh chóng. Xác định giá trị doanh nghiệp không phải là công việc mang
tính kỹ thuật nghiệp vụ thuần tuý mà nó còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội trọng yếu vì
nó liên quan đến việc bảo toàn vốn của Nhà nước, đến quyền lợi của người lao động
trong doanh nghiệp và đến khả năng đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh
doanh của công ty cổ phần trong tương lai.
Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp cần bảo đảm: không gây nên
những thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước; tạo tiền đề tài chính thuận lợi cho
doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Trên thực tế trong việc xác định giá trị doanh nghiệp cần chú ý thêm một số
vấn đề sau:
Thứ nhất: Tiến hành phân loại các tài sản mà trước đây Nhà nước đầu tư cho
doanh nghiệp để có biện pháp sử lý hợp lý, theo đó:
- Những tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp phù hợp với phương án kinh doanh
mới của công ty cổ phần sẽ chuyển giao lại cho công ty cổ phần theo giá thị trường
tại thời điểm tiến hành cổ phần hoá.
- Những tài sản của Nhà nước không phù hợp sẽ được chuyển giao lại cho Nhà nước
để điều chuyển cho doanh nghiệp khác hoặc thanh lý, chứ không ép buộc công ty cổ
phần mới phải nhận.
- Những tài sản đã hết thời hạn khấu hao sẽ được chuyển giao lại cho công ty cổ
phần mà không tính vào giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Thứ hai: Với những tài sản trước đây doanh nghiệp vay vốn để đầu tư, nay đã
hoàn lại đủ vốn cho người cho vay, nên được chia làm 2 phần:
- Một phần thuộc sở hữu Nhà nước theo tinh thần doanh nghiệp của Nhà nước đầu
tư, phần vốn tăng thêm thuộc sở hữu Nhà nước.
- Một phần tính cho người lao động trong doanh nghiệp, coi đó là sự ưu đãi khuyến
khích tính tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao dộng trong doanh
nghiệp.
Thứ ba: Xác định hợp lý những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể
kế thừa từ doanh nghiệp Nhà nước. Có thể xoá bỏ cho doanh nghiệp những khoản
nợ khó đòi, khoản lỗ phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do
những nguyên nhân khách quan.
Thứ tư: Đổi mới việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp:
- Mời các chuyên gia kinh tế - kỹ thuật ở các cơ quan khoa học vào việc đánh giá tài
sản, tôn trọng ý kiến của họ trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản.
- Đề cao vai trò của Đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp
- Mở rộng sự phân cấp trong việc quyết định giá trị doanh nghiệp. Với các doanh
nghiệp có giá trị trên 10 tỷ đồng, thay vì Bộ Tài chính thẩm định và Thủ tướng Chính
phủ quyết định, nên quy định là " cấp nào ra quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ
có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần".
Điều này sẽ góp phần rút ngắn thời gian cổ phần hoá.
1.2. Hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ
phần hoá
Nghị định 44/CP ra đời đã tăng cường ưu đãi, tạo điều kiện cho người lao
động được sở hữu cổ phần và thực hiện quyền làm chủ của mình đối với doanh
nghiệp. Tuy nhiên việc thực hiện các quy định này trong thực tế lại nảy sinh thêm
những vấn đề mới cần phải bổ sung và điều chỉnh. Dưới đây là một số vấn đề liên
quan đến chính sách ưu đãi đối với người lao động.
Tăng cường mức độ ưu đãi cho người lao động làm việc trong các doanh
nghiệp Nhà nước theo thâm niên công tác và mức độ đóng góp của họ với doanh
nghiệp. Mức độ ưu đãi này thể hiện ở chỗ Nhà nước sẽ cho người lao động làm ở

doanh nghiệp một số cổ phần. Nên có điều này bởi lẽ người lao động đã cống hiến
cho doanh nghiệp thì khi doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu người chủ sở hữu nên
trích một phần vốn cho họ. Mặt khác, việc điều chỉnh này còn bảo đảm cho người lao
động có khả năng trở thành người chủ thực sự của công ty cổ phần khi năng lực tài
chính của bản thân họ không đủ để mua cổ phần theo giá mà Nhà nước bán ưu đãi
cho họ.
Tiến hành điều chỉnh sự ưu đãi đối với người lao động tương ứng với ngành
nghề và lĩnh vực hoạt động, thay vì quy định sự ưu đãi cho người lao động của tất cả
các loại doanh nghiệp thuộc các ngành nghề và lĩnh vực hoạt động. Sự điều chỉnh này
nhằm hướng tới sự bình đẳng, tránh sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến
quyền lợi của người lao động. Như vậy, mức ưu đãi cho người lao động trong các
doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, xây dựng, giao
thông vận tải, thương mại, du lịch, khách sạn…. sẽ khác nhau.
Chế độ ưu đãi đối với người lao động nghèo được mua chịu cổ phần và trả
chậm cho Nhà nước trong thời hạn 10 năm cũng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp
với thực tế. Việc xác dịnh một chuẩn mực chung về lao động nghèo cho tất cả các
vùng rõ ràng là không hợp lý do mức giá sinh hoạt và mức sống của các vùng là rất
khác nhau. Vì vậy, Chính phủ cần phải xem xét lại chuẩn mực nghèo theo vùng trên

×