Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ thời kì phong kiến độc lập (nhà lê, nhà mạc, nhà tây sơn, nhà nguyễn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.53 MB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA KINH TẾ

Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ
Thời kì phong kiến độc lập (Nhà Lê, Nhà Mạc, Nhà Tây Sơn, Nhà
Nguyễn)

Buôn Ma Thuột, ngày 13 tháng 11 năm 2021



Phần I: Nhà Mạc, Nhà Lê
I.

Nhà Mạc
1. Sơ lược về Nhà Mạc
Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê nên không được dân chúng ủng

hộ và bị nhiều phe phái núp dưới chiêu bài khơi phục triều đại chính thống trên cục
diện Nam – Bắc Triều xuất hiện.Nhà Mạc thống trị vùng Bắc Bộ gọi là Bắc Triều, họ
Trịnh và vua Lê nắm quyền hành vùng Thanh Hóa trở vào là Nam Triều. Để chứng tỏ
triều đại mình hiện diện, đơi bên đều có đúc tiền cho lưu hành vùng của mình. Tình
trạng nhiều loại tiền song song, tiền do đối phương đúc bị coi là tiền ngụy và khơng
được phép tiêu dùng. Luật thì như vậy những việc tiêu tiền trong nhân dân kể cả chính
quyền thống trị có hiện tượng rất dễ dãi. Người ta coi bất cứ một đồng tiền trịn lỗ
vng nào có in chữ trên đó là đồng tiền giá trị. Nếu có hiện tượng là vì có những
đồng tiền đúc xấu, gãy, vỡ hoặc đúc bằng kim loại chất lượng.
Chiến tranh ác liệt trong nhiều năm khiến việc đúc tiền phục vụ nền kinh tế thời
kỳ này bị hạn chế. Tiền trong nước của hai triều đại Mạc và Lê đúc ra đều thiếu, một
lượng lớn các đồng tiền ngoại nhập đã được đưa vào Đại Việt và được chấp nhận để bổ
sung cho sự thiếu hụt tiền tệ nhằm lưu thông được điều hịa.


2. Tiền tệ thời nhà Mạc:
a) Minh Đức thơng bảo:
Đây là các tiền kim loại do Mạc Thái Tổ phát hành. Minh Đức thơng bảo có hai
loạt. Loạt thứ nhất bằng đồng được bắt đầu đúc từ năm 1529. Mặt trước có bốn chữ
Minh Đức thơng bảo đúc nổi đọc chéo. Mặt sau có hai chữ Vạn Tuệ đúc nổi. Loạt này
có kích thước lớn, đường kính từ 23 đến 24,5 mm, dày dặn. Loạt thứ hai đúc
bằng kẽm. Kích thước vẫn như loạt trước. Mặt sau khơng cịn chữ vạn tuế mà thay vào
đó là một vành khuyết nổi ở bên phải và một chấm tròn ở bên trái.

3


b) Đại Chính thơng bảo:
Các sử liệu cũ của Việt Nam không đề cập đến việc Mạc Thái Tông phát hành tiền.
Tuy nhiên khảo cổ học đã phát hiện ra loại tiền kim loại bằng đồng mang niên hiệu
Đại Chính của ơng. Mặt trước tiền nổi bốn chữ Đại Chính thơng bảo đọc chéo. Mặt
sau để trơn, đường kính khoảng 22 mm.

c) Quảng Hịa thơng bảo:
Mạc Hiến Tơng làm vua từ năm 1541 đến năm 1546 và chỉ có một niên hiệu là
Quảng Hịa. Sử liệu khơng ghi vị vua nhà Mạc này có cho đúc tiền hay khơng, song
khảo cổ học phát hiện ra di vật tiền Quảng Hòa thơng bảo. Tiền này có hơn một loạt
nhưng đều đúc bằng đồng và bốn chữ Quảng Hịa thơng bảo đọc chéo ở mặt trước, mặt
sau để trơn. Có loạt thì các chữ này được viết chân phương. Có loạt thì những chữ này
lại được viết theo lối chữ triện.

d) Vĩnh Định thơng bảo, Vĩnh Định chí bảo
Vĩnh Đ nh làị niên hi u đầầu
ệ tên trong ba ni n ệhi u ệc a ủM c Tuyên


Tông, bắắt đầầu từ
nắm 1547. Kh o c ảh cổđãọtm thầắy têần Vĩnh Đ nhị thơng b oảđúc bắầng đơầng có


đ

ngườ
kính ch ng ừ
21,5 mm. M t trặ

cướ
có bơắn ch Vĩnh

Đ nhị thông b oả viêắt chéo.

M tặsau đ ểtr ơn, nh ưng g ờmép và g ờlơỗ có viêần nổi .
Ngồi ra cịn có tiền Vĩnh Định chí bảo có kiểu dáng như Vĩnh Định thơng bảo,
khác ở chỗ chữ chí viết theo lối chữ thảo và mặt sau khơng có viền gờ mép và lỗ.
e) Càn Thống ngun bảo:

Đây là tiền kim loại do Mạc Kính Cung phát hành. Mạc Kính Cung tuy làm vua
nhưng đóng ở vùng miền núi Đông Bắc. Khảo cổ học đã phát hiện ra loại tiền này.

f) An Pháp nguyên bảo
Là tiền kim loại kích thước nhỏ mà khảo cổ học tìm thấy nhiều trong hố khai quật
di chỉ gốm Hợp Lễ (Hải Dương). Lê Quý Đôn qua Phủ biên tạp lục cho biết đây là tiền
do nhà Mạc phát hành, nhưng không nói cụ thể bởi vị vua nào của nhà Mạc. Tiền An
pháp nguyên bảo được thuyền chở vào lưu hành vào tới tận Thuận Hóa.

5



II.

Nhà Lê
1. Nhà Lê trung hưng

Nhà Lê trung hưng là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong lịch sử
Việt Nam. Nhà Lê trung hưng được thành lập khi Lê Trang Tơng với sự phị tá của cựu
thần nhà Lê sơ là Nguyễn Kim được đưa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với
các triều đại Việt Nam với 256 năm.
2.Tiền tệ thời Nhà Lê trung hưng
Tiền nhà Lê trung hưng được lưu hành trong vùng nhà Lê quản lý từ Thanh Hóa trở
vào.
*Ngun Hịa thơng bảo
Đây là tiền bằng đồng mang niên hiệu Ngun Hịa(1533-1548) của Lê Trang
Tơng, vị vua đầu tiên của thời Lê trung hưng. Tiền này có kích thước nhỏ, được đúc
cẩn thận. Mặt trước có chữ Ngun Hịa thơng bảo đọc chéo. Mặt sau có viền gờ mép
và lỗ, song khơng có chữ hay hình gì. Ngun Hịa thơng bảo có nhiều loại, trong đó
có loại chỉ có hai chữ Nguyên Hòa viết theo lối chữ triện và có loại thì lại có ba chữ
Ngun Hịa và bảo viết theo lối chữ triện.
Phần II: Nhà Tây Sơn
1.Sơ Lược Về Nhà Tây Sơn
Nhà Tây Sơn là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778
đến năm 1802, được thành lập trong bối cảnh tranh chấp quyền lực dưới thời Lê Trung
Hưng( 1533- 1789). Tiền tệ Đại Việt thời Tây Sơn phản ánh những vấn đề liên quan
tới tiền tệ lưu thông và thời nhà Tây Sơn.
2.Các đồng tiền thời Tây Sơn
a) Tiền thông thường
 Thái đức thông bảo

Tiền “ Thái Đức thông bảo” do vua Thái Đức Nguyễn Nhạc phát hành và lưu thông
trong các vùng lãnh thổ do nhà Tây Sơn kiểm sốt. Tiền này được đúc từ đồng. Tiền
khơng dày, nhưng đúc cẩn thận, chữ và dấu hiệu dễ đọc. Đường kính tiền tùy loại từ


22,5 mm đến 24 mm. Mặt trước có bốn chữ Thái Đức thơng bảo đọc chéo. Mặt sau thì
mỗi loạt một khác, thường thì có các ký hiệu như chấm nổi trịn, hình Mặt Trăng lưỡi
liềm. Có một loạt ở mặt sau có hai chữ Vạn Tuế.

Hình ảnh minh họa tiền Thái Đức thông bảo
 Minh Đức thông bảo
Tiền do Nguyễn Nhạc đúc năm 1787 sau khi ra Thăng Long trở về Quy Nhơn. Ơng
tự xưng là Trung ương hồng đế, hiệu là Minh Đức hoàng đế, niên hiệu vẫn là Thái
Đức. Đó là năm Thái Đức thứ 10 nên đồng tiền gọi là Minh Đức thông bảo hay Thái
Đức thập niên. Hai chữ Vạn tuế viết như ở tiền Thái Đức thông bảo, một loại chữ Tuế
viết theo cách khác.

Hình ảnh minh họa tiền Minh Đức thơng bảo
 Quang Trung thông bảo, Quang Trung đại bảo
Quang Trung thông bảo được đúc nhiều đợt và kỹ thuật của thời đó đã khiến cho
mỗi đợt đúc tiền lại có một chút khác nhau. Tiền này được đúc từ đồng, có kích thước
từ 23 đến 26 mm. Mặt trước tiền có bốn chữ Quang Trung thơng bảo đọc chéo. Có một
loạt chữ bảo lại viết theo lối giản thể. Mặt sau thì có thể để trống hoặc có một trong
các chữ nhất, nhị, cơng, chính, sơn nam hoặc các ký hiệu như dấu chấm, trăng lưỡi
liềm, v.v... Viền gờ mép và lỗ rõ ràng.
7


Quang Trung đại bảo có chữ bảo viết theo lối giản thể. Mặt sau để trống. Ngoài
những đồng tiền lưu hành thơng thường, cịn có một số tiền Quang Trung thơng bảo –


mặt lưng có hai chữ An Nam. Đây là loại tiền dùng trong ngoại giao của nhà Tây Sơn.

Hình ảnh tiền Quang Trung thơng bảo

Hình ảnh tiền Quang Trung đại bảo
 Cảnh Thịnh thông bảo
Cảnh Thịnh thông bảo có loại nhỏ và loại lớn. Đây là tiền mang niên hiệu đầu tiên
của Nguyễn Quang Toản. Về kiểu dáng và thiết kế thì Cảnh Thịnh thơng bảo loại nhỏ
khơng khác gì tiền Quang Trung thơng bảo, nhưng chất lượng đúc có phần tốt hơn.
Cảnh Thịnh thơng bảo cũng có loạt mặt sau giống mặt trước như một loại của Quang
Trung thơng bảo. Ngồi ra lại cịn có một loạt tiền mà một mặt là Cảnh Thịnh thông
bảo và một mặt là Quang Trung thông bảo.
Cảnh Thịnh thông bảo loại lớn được đúc cẩn thận, thiết kế cầu kỳ, đường kính tới
48 mm, dày tới 5 mm. Viền gờ mép ở hai mặt là một vành văn triện hình chữ T, viền
gờ lỗ ở hai mặt là hai hình vng lồng vào nhau. Mặt trước tiền có bốn chữ Cảnh
Thịnh thơng bảo đọc chéo. Mặt sau có hình rồng, mây ở phía trên lỗ, lại có hình cá
chép và hình sóng nước ở phía dưới lỗ. Đỗ Văn Ninh cho rằng tiền này hoa văn giống
với tiền Cảnh Hưng nên có thể là theo mẫu tiền Cảnh Hưng mà làm.


Hình ảnh tiền Cảnh Thịnh thơng bảo

 Cảnh Thịnh đại bảo
Dạng chính rộng 23 mm, mặt lưng khơng có chữ. Loại tiền Cảnh Thịnh đại bảo loại
nhỏ đường kính 21 mm, cả hai mặt đều có trùng luân.
 Bảo Hưng thông bảo
Đồng tiền cuối cùng của nhà Tây Sơn, đường kính 22 mm, cũng mỏng như tiền
Quang Trung, mặt lưng khơng ghi chữ gì.
b) Những đồng tiền lạ: Có bốn loại tiền lạ thời Tây Sơn là:

 Quang Trung thông bảo 2 mặt giống nhau
 Quang Trung thông bảo, mặt kia là Quang Trung đại bảo
 Cảnh Thịnh thông bảo 2 mặt giống nhau
 Cảnh Thịnh thông bảo mặt kia Quang Trung thông bảo
Phần III: Nhà Nguyễn
1. Sơ lược về nhà Nguyễn
Triều Nguyễn, triều đai Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt hơn
143 năm( 1802-1945) với 13 vị vua Nguyễn. Nhưng trong đó chỉ có 10 vị vua là phát
hành tiền tệ.
Tiền tệ nhà Nguyễn phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền lưu thông thời nhà
Nguyễn độc lập( 1802-1884) và những đồng tiền do nhà Nguyễn phát hành trong thời
kì Pháp thuộc trong lịch sử Việt Nam.
9


2. Thời Nguyễn ở Việt Nam có những đồng tiền sau
a) Gia Long thông bảo
Năm 1802,Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Long. Gia Long cho đúc tiền
Gia Long thông bảo bằng đồng. Khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều di chỉ tiền này. Tiền
được đúc nhiều lần và ở nhiều nơi. Lớn nhất coa đường kính chừng 26 mm, nhỏ nhất
chừng 20 mm. Mặt trước bốn chữ Gia Long thông bảo đọc chéo. Mặt sau để trơn.

Năm 1813, vua Gia Long cho đúc tiền Gia Long thơng bảo thất phân. Theo Đại
Nam thực lục chính biên thì tiền này bằng kẽm, song khảo cổ phát hiện ra cả tiền
đồng. Gia Long thơng bảo thất phân có đường kính trung bình 22 mm và trong thực tế
có nhiều kích cỡ. Mặt trước giống Gia Long thơn bảo, nhưng mặt sau thì có hai chữ
thất phân ở hai bên lỗ tiền.

Năm 1814, vua Gia Long lại cho đúc tiền Gia Long thông bảo lục phân nặng sáu
phân. Thư tịch cho biết rõ hợp kim đúc tiền này có các thành phần đồng đỏ, kẽm, chì,

thiếc ( tỉ lệ là 500:415:65:20). Tiền được đúc nhiều lần và có đường kính xê xích
khoảng 21.5 mm đến 22,5 mm. Mặt trước giống Gia Long thơng bảo, nhưng mặt sau
thì có hai chữ lục phân ở hai bên lỗ tiền.

b. Minh Mạng thông bảo
Minh Mạng thông bảo là tiền do vua Minh Mạng phát hành. Mặt trước có bốn chữ
Minh Mạng thơng bảo, mặt sau để trống.
Tiền này có nhiều loạt:
 Loạt đúc sớm nhất vào năm 1820 theo quy định nặng 6 phân bằng đồng và kẽm.
Chỉ dùng đến năm 1825 thì bãi bỏ


 Loạt thứ hai có kích thước lớn từ 22 đến 25 mm, được phát hành năm 1820.
Nguyên liệu là hợp kim đồng, kẽm và thiếc.
 Loạt thứ ba có đường kính khoảng 22 mm, nặng 9 phân, bằng hợp kim đồng
kẽm, được phát hành từ năm 1825.
 Loạt thứ tư có đường kính 25 mm, nặng 1 đồng cân, được phát hành từ năm
1827

c. Thiệu Trị thông bảo
Tiền mang niên hiệu của vua Thiệu Trị có loại nặng 6 phân và loại nặng 9 phân đều
bằng hợp kim đồng pha kẽm. Cịn có cả loại nặng 6 phân bằng kẽm. Các loại này ở
mặt trước có bốn chữ Thiệu Trị thông bảo đọc chéo, mặt sau để trống.

d. Tự Đức thơng bảo
Tự Đức thơng bảo có mấy loạt bằng đồng và cả bằng kẽm, đường kính từ 20 mm
đến 25 mm. Nhìn chung các loạt đều có mặt trước giống nhau: bốn chữ Tự Đức thơng
bảo đọc chéo, có viền gờ mép và lỗ. Mặt sau thì mỗi loạt một khác. Có loạt để trống,
có loạt thì có chữ "lục văn", có loạt có chữ "Hà Nội", có loạt lại có chữ "Sơn Tây" và
có loạt thì có chữ "Bắc Ninh". Tiền này nhiều khi được giao cho các lò đúc tiền tư


11


nhân của người Hoa và người Việt giàu có đúc. Đại Nam thực lục chính biên cho biết
có tiền này khi đúc bị pha thêm sắt vào.

e. Tự Đức bảo sao
Tự Đức bảo sao là tiền thời vua Tự Đức, được đúc từ năm 1861 có các mệnh giá 10
đồng, 20 đồng, 30 đồng, 40 đồng, 50 đồng và 60 đồng. Tiền đúc bằng đồng. Mặt trước
có bốn chữ Tự Đức bảo sao đọc chéo. Mặt sau thì mỗi mệnh giá thiết kế một khác.
Đường kính tiền cũng khác nhau giữa các mệnh giá.
 Mệnh giá 10 đồng thì mặt sau có chữ "chuẩn thập văn" hoặc "chuẩn nhất thập
văn", đường kính 26 mm, nặng 6 gam.
 Mệnh giá 20 đồng thì mặt sau có chữ "chuẩn nhị thập văn", đường kính 30 mm,
nặng 12 gam.
 Mệnh giá 30 đồng thì mặt sau có chữ "chuẩn tam thập văn", đường kính
35 mm, nặng 16,4 gam.
 Mệnh giá 40 đồng thì mặt sau có chữ "chuẩn tứ thập văn", đường kính 37 mm,
nặng 22,2 gam.
 Mệnh giá 50 đồng thì mặt sau có chữ "chuẩn ngũ thập văn", đường kính
41,5 mm, nặng 27,2 gam.
 Mệnh giá 60 đồng thì mặt sau có chữ "chuẩn lục thập văn", đường kính 46 mm,
nặng 38,2 gam.


f. Kiến Phúc thông bảo
Tiền mang niên hiệu của vua Kiến Phúc được đúc nhiều đợt từ năm 1884 và ở
nhiều nơi vì vậy mỗi loạt khác nhau một chút. Nhìn chung, tiền có đường kính 23 mm.
Mặt trước có bốn chữ Kiến Phúc thông bảo, mặt sau để trống.

Tiền đúc ra chỉ để khẳng định niên hiệu của vua mới chứ tác dụng cho lưu thơng
khơng nhiều vì số lượng q ít.
g. Hàm Nghi thơng bảo
Tiền này chính thức chỉ đúc với số lượng rất ít, nhưng tiền Hàm Nghi thơng bảo giả
rất nhiều. Theo Đỗ Văn Ninh thì có cả tiền Hàm Nghi thơng bảo đúc giả thời chiến
tranh Việt Nam mà lính Mỹ tưởng là tiền cổ thật nên mua mang về sưu tập. Hàm Nghi
thông bảo thật có đường kính 23 mm, mặt trước có bốn chữ Hàm Nghi thơng bảo đọc
chéo, mặt sau có hai chữ "Lục văn".
h. Đồng Khánh thông bảo
Tiền được đúc với số lượng ít. Năm 1886, triều đình cho đúc một loạt có đường
kính 26 mm. Năm 1887 cho đúc một loạt nữa có đường kính 23 mm. Cả hai loạt ở mặt
trước đều có chữ Đồng Khánh thơng bảo, mặt sau để trống.

i. Thành Thái thông bảo
Tiền kim loại được đúc vào các năm 1889-1890 với số lượng ít. Mặt trước có bốn
chữ Thành Thái thơng bảo đọc chéo. Mặt sau để trống. Đường kính tiền khoảng
23 mm.
Năm 1893-1890, triều đình lại cho đúc tiền Thái Bình thơng bảo mới mà mặt sau
có chữ thập văn. Tiền này đường kính chừng 26 mm

13


k. Duy Tân thơng bảo
Tiền này có hai loạt, một loạt có đường kính chừng 26 mm đúc ở Thanh Hóa, một
loạt khác nhỏ hơn. Loạt lớn thì mặt sau có chữ "Thập văn", loạt nhỏ thì mặt sau để
trống. Mặt trước cả hai loạt đều có chữ Duy Tân thơng bảo đọc chéo.

l. Khải Định thơng bảo
Tiền này có bốn loạt đúc ở bốn nơi là Huế, Hải Phòng, Hà Nội và Pháp. Loạt đúc ở

Huế lưu thông ở Trung Kỳ, loạt đúc ở Hà Nội và Hải Phòng thì để lưu thơng ở Bắc
Kỳ. Cả ba loạt này đều bằng kẽm. Riêng loạt đúc ở Pháp thì bằng đồng và chỉ để lưu
thông ở Nam Kỳ.

m. Bảo Đại thông bảo
Tiền bằng đồng nhưng không đúc mà dập lá đồng bằng máy. Kích thước tiền nhỏ
và mỏng. Người dân không coi trọng giá trị tiền này.

3. Ghi chú
a)Hệ thống đo lường


Hệ thống đo lường thời Nguyễn dựa trên 2 tiêu chuẩn theo chỉ dụ của Gia Long
năm 1813:
 Cần thiên bình áp d ng cho
ụ nh ng kim
ữ lo i r ạnh ẻ sắắt,
ư đơầng, kẽỗm, chì, thiêắc
 Cần trung bình áp dụng cho 2 kim loại quý là vàng và bạc
Theo hệ thống này, hệ thống đo lường ấn định như sau:
 T ạ= 10 yêắn = 60,40 kg
 Yêắn = 10 cần
 Cần = 16 lạng
 L ng
ạ = 10 đôầng cần
 Đôầng cần = 10 phần
 Phần = 10 ly
 Ly = 10 hào
So với hệ thống đo lường phương Tây, mỗi học giả/tổ chức khi đó quy đổi 1 lạng ta
ra số gram khác nhau, dao động từ 37,75 gram đến 39,05 gram.

b)Tiền đồng
Dựa vào trọng lượng, tiền đồng nhà Nguyễn chia làm hai loại lớn và nhỏ. Tiền nhỏ
từ 5 phân 5 li tới dưới 9 phân, còn tiền lớn từ 9 phân trở lên. Thỉnh thoảng có những
đợt đúc thử nghiệm những đồng tiền 7 phân hay 1 đồng cân, nhưng sau đó triều đình
thấy khơng thích hợp nên khơng đúc nữa.
Tiền đồng nhà Nguyễn chia ba loại:
 Loại tiền ghi rõ tỷ giá với tiền kẽm như lục văn, thập văn, các tiền Tự Đức bảo

sao. Khi trị giá đồng tiền được đúc trên mặt gây những bất tiện về sau, đồng tiền
sẽ được dân chúng ưa chuộng hoặc bị loại bỏ. Đây là đặc điểm chỉ bắt đầu có
trong lịch sử tiền tệ Việt Nam từ thời Tự Đức
 Tiền có ghi trọng lượng của đồng tiền như thất phân.
15




Tiền khơng ghi gì cả, nhưng dựa vào trọng lượng để xác định giá trị

4. Tiền kẽm
Tiền kẽm là tiền cơ bản, có đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống tiền tệ nhà Nguyễn. Chỉ
có tiền kẽm thời Gia Long có ghi chữ "thất phân" để chỉ trọng lượng, cịn các tiền kẽm
đời sau khơng ghi gì và thường chỉ nặng khoảng 6 phân
Tiền kẽm chủ yếu đúc trong thời độc lập, gồm 4 triều vua đầu tiên là Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức
5. Tiền cấm
Tiền do triều đình đúc là quan chế tiền. Tiền cấm là các đồng tiền vốn bất hợp pháp
nhưng vì những lý do khác nhau vẫn được lưu hành
1. Tiền cũ của nhà Tây Sơn, vì lưu lượng trong dân gian cịn lưu hành rất nhiều
nên không thể chấm dứt lưu hành ngay mà nhà Nguyễn cho phép lưu hành quá

độ đến năm 1822 thì đổi sang tiền kẽm của nhà Nguyễn với tỷ lệ 2 đồng tiền
đồng Tây Sơn = 1 đồng tiền kẽm nhà Nguyễn.
2. Tiền do dân đúc trộm là tư chú tiền. Do nạn đúc trộm tiền quá nhiều, khó ngăn
chặn, từ năm 1849 Tự Đức buộc phải cho phép dân tự đúc tiền kẽm, nhưng phải
theo đúng trọng lượng.
3. Tiền đồng, do thương nhân người Hoa đúc trộm là dị dạng tiền. Sau khi quân
Pháp chiếm Nam Kỳ, tình hình càng hỗn loạn, thương nhân người Thanh lợi
dụng làm tiền kém phẩm chất. Tự Đức ra lệnh khám xét các tàu buôn nhà
Thanh, chặn các đồn ải để kiểm soát và cấm thương nhân di chuyển với số tiền
quá lớn. Tới năm 1879, triều đình đành phải chấp nhận cho lưu hành dị dạng
tiền (tiền đồng) ăn 3 tiền kẽm, với điều kiện đồng tiền đó khá giống đồng tiền
Việt về phẩm lượng.
Thời Kiến Phúc, phụ chính Nguyễn Văn Tường nhận hối lộ của người Hoa, cho
thương nhân nhà Thanh mang "tiền sềnh" niên hiệu Tự Đức của họ đúc sang, bắt nhân
dân phải tiêu, ai không tiêu thì bắt tội. Tiền này rất xấu, quá mỏng và nhẹ (chỉ trên
dưới 1 gram), có thể nổi trên mặt nước Các giáo sĩ Công giáo nhân chuyện đồng tiền
xấu đã tuyên truyền thêm trong dân về sự suy sụp của triều đình nhà Nguyễn. Một số
người đã lầm đây là tiền gián của thế kỷ 17-18 như tiền Thiên Thánh hay An Pháp


nguyên bảo, nhưng các nhà nghiên cứu khẳng định tiền gián thế kỷ 17-18 vẫn cịn
nặng hơn, khơng nổi trên mặt nước như tiền sềnh mà người Hoa mang sang cuối thế
kỷ 19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
17





Lục Đức Thuận, Võ Quốc Ky (2009), Tiền cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục



Đỗ Văn Ninh (1992), Tiền cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội



Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên (2008), Đại cương
lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục




Trần Trọng Kim (2010), Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Thời đại
Đào Tố Uyên chủ biên (2008), Giáo trình lịch sử Việt Nam , tập 2, Nhà xuất bản
Đại học sư phạm




Lê Văn Siêu (2006), Việt Nam văn minh sử, Nhà xuất bản Văn học
Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế ( 2009), Tây Sơn – Thuận Hóa và anh
hùng dân tộc Nguyễn Huệ Quang Trung, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia



×