Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Tiểu luận: Thực trạng về hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.01 KB, 47 trang )






Tiểu luận

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU

Mỗi khi xã hội phát triển, đến một trình độ nhất định , tự trong bản
thân nó cho ra đời những sản phẩm - những công cụ để phục vụ chính cho
sự phát triển đó. Từ khi có s ự phân công lao động xã hội, và sự xuất hiện
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã tạo ra rất nhiều sản phẩm, mà một
trong những sản phẩm của nó chính là quan hệ tín dụng. Đến lượt nó, khi
ra đời sẽ thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn. Do đó,
sự tồn tại của nó như một tất yếu khách quan.
Ngày nay, chúng ta biết rằng, khi kinh tế thị trường là sự phát triển của
nền kinh tế ở một trình độ cao. Trong đó, các chủ thể độc lập với nhau về tính
chất sản xuất kinh doanh, về quyền sở hữu, về sự tuần hoàn và luân chuyển
vốn. Như vậy trong nền kinh tế có những doanh nghiệp “thừa” vốn. Ví dụ như
các doanh nghiệp có tiền bán hàng nhưng không phải trả lương, thuế và các
khoản chi khác do đó tạm thời thừa tương đối. Trong khi đó có những doanh
nghiệp thiếu vốn những người thừa vốn sử dụng vốn này để thu lợi nhuận còn
doanh nghiệp thiếu vốn muốn sử dụng phải đi vay để duy trì hoặc tiến hành
sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy hai nhu cầu này đều giống nhau ở
chỗ để thu lợi nhuận và mang tính chất tạm thời. Nhưng chúng khác nhau về
chiều vận động và quyền sở hữu. Do đó trong nền kinh tế tất yếu tồn tại quan
hệ tiêu dùng và tín dụng. Vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa
to lớn đến sự thành công của các ngân hàng thương mại trong chiến lược huy


động và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển. Nâng cao chất lượng không chỉ
là những biện pháp cải thiện chất lượng mà phải bao gồm những biện pháp
mở rộng tín dụng có hiệu quả, có như vậy hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại mới ngày càng phát triển, hòa nhập được với xu thế tiên tiến
của công nghệ ngân hàng .

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ THUYẾT C HUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn
đó sẽ được hoàn trả lại trong tương lai cùng với chi phí của khoản tín dụng
đó. Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với
các chủ thể kinh tế khác trong xã hội trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là
người đi vay vừa là người cho vay. Vì vậy bản thân tín dụng ngân hàng phải
làm tốt hai mặt. Thứ nhất là đối với người cho ngân hàng vay và thứ hai đối
với người mà ngân hàng cho vay. Chính thực hiện tốt chức năng này và với
nghiệp vụ của riêng mình về việc kinh doanh tiền tệ mà tín dụng ngân hàng đã
trở thành một hình thức tín dụng không thể thiếu trong mọi nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng thực chất dây là một hình thức quan hệ tín dụng gián
tiếp mà người tiết kiệm thông qua vai trò trung gian của ngân hàng thực hiện
đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Sự xuất hiện của tín dụng ngân
hàng trên cơ sở là thu lợi nhuận một hình thức tín dụng sẽ không xuất hiện
nếu nó không được hưởng lợi ích gì từ dịch vụ mà nó mang lại. Nhưng lợi
nhuận của tín dụng ngân hàng mang lại dựa trên sự thoả mãn ngày một tốt
hơn nhu cầu khách hàng. Thứ nhất là nhu cầu vốn nhàn rỗi của các chủ thể
trong nền kinh tế. Khi có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư sinh lời và ngân hàng là
nơi đầu tư lí tưởng và an toàn, ít gặp rủi ro. Cùng với sự đổi mới trong chiến
lược phát triển của hệ thống ngân hàng, khách hàng còn được hưởng lãi theo
lãi suất thoả thuận giữa họ và ngân hàng. Thứ hai nhu cầu đòi hỏi vốn của các
chủ thể thiếu vốn trong nền kinh tế. Họ sẽ không có được nguồn vốn theo thời

hạn và khối lượng vốn mà mình mong muốn nếu không thông qua tín dụng
ngân hàng. Chỉ có ngân hàng là người đáp ứng đầy đủ, đồng thời ngân hàng
có thể tư vấn, có thể xem xét dự án đầu tư tránh g ây thiệt hại cho nền kinh tế.
Như vậy lợi nhuận mà ngân hàng thu được dựa trên sự đáp ứng đầy đủ hai
mặt đối với người đi vay và người cho vay. Hiện nay nghiệp vụ ngân hàng có
nhiều sự pha trộn giữa nghiệp vụ truyền thống và các công ty tài chính.
Nhưng tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức tín dụng không thể thiếu trong
nền kinh tế.
Trong lịch sử phát triển của kinh tế hàng hoá, tín dụng ngân hàng đa trải
qua một quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp về kĩ thuật và nghiệp
vụ, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng lớn về không gian phù hợp với quá trình
phát triển của nền sản xuất hàng hoá ngày càng hoàn thiện.
Trong thời kì đầu của lịch sử sản xuất và lưu thông hàng hoá, có một số
người không trực tiếp sản xuất và lưu thông hàng hoá, mà đứng ra làm trung
gian nối liền giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá qua đồng tiền. Chức năng
ban đầu của họ là “ nhận giữ hộ tiền của một số thương nhân, đồng thời tiến
hành thanh toán các khoản tiền trong giao dịch mua bán hàng hoá”. Đương
nhiên để làm việc đó họ phải thu về một lượng chi phí ( lợi tức ) nhất định từ
những đố i tác mà họ làm dịch vụ.
Nhờ hoạt động trung gian này tạo điều kiện cho sản xuất và lưu thông
hàng hoá phát triển thuận lơị. Đến lượt nó, sản xuất và lưu thông càng phát
triển thuận lợi, lại càng làm cho những người hoạt động trung gian cũng tích
luỹ ngày một nhiều tiền. Như vậy, những người này đã trở thành những người
“ buôn tiền ”. Càng về sau để có thể có lợi nhiều hơn, họ cùng tập hợp nhau
lại để có nhiều vốn thực hiện các hoạt đông trung gian nói trên. toàn bộ hoạt
động của nó mặc dù còn rất sơ khai về kĩ thuật nhưng dẫu sao đó cũng là
mầm mống cuả tín dụng ngân hàng sau này.
Trong lịch sử phát triển tín dụng, tín dụng thương mại xuất hiện sớm hơn
tín dụng ngân hàng nhưng lại tồn tại và phát triển song song với nhau. điều
cần nhấn mạnh ở đây là cả cả hai loại hình tín dụng này chỉ có thể phát triển

thuận lợi khi chúng dựa vào nhau, cùng làm diều kiện “ tiền đề ” cho nhau.
Tín dụng ngân hàng tuy khác tín dụng thương mại về hình thức, phạm vi,
qui mô và thời gian hoạt động. Song giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ
trợ và bổ sung cho nhau. Tín dụng ngân hàng giúp khắc phục một số mặt hạn
chế của tín dụng thương mại về không gian và địa lí, về quy mô tín dụng
thương mại về trường hợp khi đến kì hạn trả tiên nếu vì lí do nào đó mà người
mua chịu không có hoặc không có tiền để trả.
Hoạt động tín dụng thương mại thông qua công cụ thương phiếu đã tạo ra
tiền đề cho sự gắn bó giưã tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Sự gắn
bó này nhờ thông qua việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu và tái
chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng, khi các đối tác có thương phiếu có nhu
cầu về tiền của mình. Hoạt động tín dụng ngân hàng thông qua cơ chế hoạt
động của các tổ chức ín dụng trung gian. ở nước ta, ngay từ khi có Pháp lệnh
của Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 23-5-1990 có quy định các loại ngân
hàng và các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, trong đó có
ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và là m phương tiện
thanh toán.
Thuộc loại ngân hàng này bao gồm: Ngân hàng thương mại quốc doanh;
Ngân hàng thương mại cổ phần; Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Ngoài ra còn có ngân hàng đầu tư và phát triển, các trung
gian tài chính khác…
Các ngân hàng thương mại, khi cần vốn cũng có thể đem thương phiếu đã
chiết khấu đến ngân hàng trung ương để tái chiết khấu trong phạm v i quy
định.
Như vậy, nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu về thực chất là nghiệp vụ
tín dụng ngân hàng, một nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng
được quyền sử dụng đến thời hạn của thương phiếu một khoản tiền của

thương phiếu, sau khi đã khấu trừ khoản lãi phải thu, tức là khoản tiền chiết
khấu.
Sự phát triển các hình thức tín dụng, nhất là tín dung ngân hàng nhiều thập
kỉ qua cho đến nay trên thế giới đã có nhiều thay đổi và phát triển cả về chiều
rộng và chiều sâu. Dưới tác động như vu bão của cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ; của sự toàn cầu hoá và khu vực hoá thông qua các tổ chức tiền tệ
quốc tế và khu vực đã được tín dụng ngân hàng phát triển ở trình độ cao, đặc
biệt là việc áp dụng đ iện toán sự phát triển chiến lược sản phẩm đa dạng (séc
du lịch, cartecredet, leasing, các loại tín phiếu, trái phiếu…) và các mặt hoạt
động marketing ngân hàng.
1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
1.2.1. The o thời hạn tín dụng
Thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng
như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân
thành :
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được
sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp
và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này, ít có
rủi ro cho ngân hàng vì t rong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có
xảy ra th ì ngân hàng có thể dự tính được.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm
năm và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu
hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có
khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử
dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới,
các công trình thuộc cơ sở hạ tầng( đường xá, bến cảng, sân bay ), cải tiến
và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất
lớn vì trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước

được.
- Tín dụng không thời hạn: Là loại tín dụng mà thời hạn hoàn trả tiền vay
không được xác định khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là điều kiện về việc
thu hồi khoản tiền cho vay của ngân hàng hoặc việc trả nợ của người vay. Ví
dụ ngân hàng không thu gốc theo thời hạn nhất định mà chỉ thu lãi; người vay
sẽ trả nợ cho Ngân hàng khi nhu cầu vay thêm không cần thiết nữa do quy mô
sản xuất giảm hoặc doanh nghiệp lấy nguồn khác để tự bổ xung; ngân hàng
muốn thu hồi gốc phải báo trước cho người vay. Như vậy khi quy mô sản xuất
của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ đi vay không thời hạn (vì hết tiền
đầu tư cho chu kỳ sản xuất kinh doanh này lại cần tiếp).
1.2.2. The o hình thức
Tín dụng ngân hàng phân theo hình thức chia thành 4 loại : Chiết khấu,
Cho vay, Bảo lãnh và Cho thuê
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nhân nợ )
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng
hóa giữa khách hang với nhau. Người bán ( hoặc người thụ hưởng ) có thể giữ
thương phiếu đến hạn đòi tiền người mua ( người phải trả ) hoặc mang đến
ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu
Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn
của thương phiếu tương đối cao ( trừ trường hợp ngân hàng miễn truy đòi đối
với khách hàng ). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu
thương phiếu tại ngân hàng nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi
phí thấp vì vậy thương phiếu có thể được coi là loại tài sản có khả năng
chuyển nhượng – có tính thanh khoản cao
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định

Hiện nay có nhiều hình thức cho vay khác nhau : thấu chi, vay trực tiếp
nhiều lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho
vay gián tiếp
● Thấu chi
Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người chi vượt trên số
dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng
thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi dựa
trên cơ sở thu và chi cả khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô.
Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán ngân quỹ song không chính xác.
Do vậy, hình thức cho vay thấu chi này tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng trong quá trình thanh toán.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp và cá nhân. Hình thức
này thường chỉ sử dụng với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều,
kỳ thu nhập ngắn
● Cho vay trực tiếp nhiều lần
Là hình thức cho của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay
thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Vốn của ngân
hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh
doanh.
 Cho vay theo hạn mức
Ngân hàng thỏa thuận với khách hàng cấp cho khách hàng hạn mức tín
dụng. Hạn mức này là số dư tối đa tại thời điểm tính, được cấp trên cơ sở kế
hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh
 Cho vay luân chuyển
Cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có
thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh

nghiệp bán hàng
Cho vay luân chuyển thường áp dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp
hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay - trả
thường xuyên với ngân hàng. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp gặp khó khăn
trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong thu hồi vốn do thời hạn của
khoản vay không được quy định rõ ràng
 Cho vay trả góp
Ngân hàng cho phép trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa
thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng với các khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn
mức nhất định. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua ( qua đó đến
người bán) nhằm thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa
Hình thức này rủi ro cao do khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều
đặn của người vay. Chính v ì vậy vay trả góp thường có lãi suất cao nhất trong
khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
 Cho vay gián tiếp
Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay
thông qua các tổ, đội, nhóm,…Các tổ chức này liên kết các thành viên theo
những mục đích khác riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền
lợi cho các thành viên
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ
chức trung gian như phát tiền vay, thu nợ,…Tổ chức trung gian cũng có thể
đứng ra t ín chấp cho các thành viên vay hoặc các thành viên trong nhóm bảo
lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có
đủ hoặc không có tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí của trung gian,
ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian. Bên cạnh đó, ngân
hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của
quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này hạn chế người vay sử dụng
tiền sai mục đích

Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đố i với thị trường có nhiều món
vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường h ợp như vậy
thì cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay ( phân tích, giám
sát, thu nợ )
Cho vay qua trung gian nhằm giảm bớt chi phí cho ngân hàng nhưng
không ít trường hợp trung g ian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng
không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của
các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán
hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình
- Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên : Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh, và
bên bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh, khách
hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh, còn người được bảo lãnh là bên
thứ 3
* Phân chia bảo lãnh theo mục tiêu làm 5 loại
● Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu
Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư ( hay chủ thầu ) về việc trả tiền
phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp
đồng dự thầu
● Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách
hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ
ba.
● Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước
Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua

( người hưởng bảo lãnh ) nếu bên cung cấp ( người được bảo lãnh) không trả.
● Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay ( bảo lãnh vay vốn )
Là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay ( tổ chức tín dụng, các
cá nhân,…) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng ( người đi vay )
không trả được
● Bảo lãnh đảm bảo thanh toán
Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng
thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh
toán đủ.
* Như vậy bảo lãnh ngân hàng có bản chất và ý nghĩa :
 Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó
có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
 Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất
tiền ngay từ khi bảo lãnh, do vậy, bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng.
Tuy nhiên, khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực
hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài
sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh chứa
đựng các rủi ro như một khoản cho vay v à đòi hỏi ngân hàng phân tích khách
hàng như khi cho vay.
 Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ
rủi ro. Trách nhiệm tài chính t rước hết thuộc về khách hàng , trách nhiệm của
ngân hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên th ứ
ba. Do mối lien hệ giữa ngân hàng và khách hàng có khả năng ràng buộc
khách hàng phải thực hiện các cam kết. Bảo lãnh cũng góp phẩn giảm bớt
thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra.
Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi
phí. Ngoài phí, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng phải kí quỹ, tạo nguồn
tiền thanh toán cho ngân hàng với mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh cũng góp
phần mở rồng các dịch vụ khác nh ư kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh

toán,…
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả
cho ngân hàng cả gốc và lãi
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn.
Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng
thu gần đủ ( hoặc thu đủ ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi ( thời hạn
khoảng 80% - 90% đời sống kinh tế của tài sản ). Hết hạn thuê, khách hàng có
thể mua lại tài sản đó
Cho thuê giống như một khoản cho vay thông thường chỗ ngân hàng phải
xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định, khách
hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kì. Ngân hàng cũng
phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả không
trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, cho thuê có nhiều điểm
khác biệt so với cho vay như tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của
ngân hàng ( vì vậy không ghi vào bảng cân đối của người cho vay, không làm
tăng cơ cấu nợ của người vay ), ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người
thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời ngân hàng cũng phải có trách
nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải đảm bảo về chất
lượng. Cho thuê không có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê mang tính đặc
chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao,…nên cho thuê rủi ro rất cao
đối với ngân hàng.
Ngân hàng có thể lập phòng cho thuê hoặc công ty cho thuê thực hiện và
quản lý hoạt động cho thuê.
1.2.3. The o đối tượng đầu tư
Căn cứ vào tiêu thức này, ng ười ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản lưu động: Là loại tín dụng được
sử dụng được sử dụng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại
tín dụng được sử dụng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại
tín dụng có mức độ rủi ro thấp vì vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn luân

chuyển trong chu kỳ sản xuất kinh doanh nên ngân hàng có thể theo dõi
thường xuyên và nếu có biến đọng xảy ra thì kịp thời thu hồi vốn .
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản cố định : Là loại tín dụng được
sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đối mới kỹ thuật, mở
rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và các công trình mới. Hình thức này
thường có mức độ rủi ro cao vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn .
1.2.4. The o hình thức đảm bảo
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại :
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm
giữ tài sản của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện
được các nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này
được áp dụng đối với những khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng.
Mặc dù là có tài sản đảm bảo nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro
cao vì tài sản có thể bị mất giá hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ
của mình
- Tín dụng không có bảo đảm : Là loại tín dụng không có tài sản thế
chấp, cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng
chỉ dựa vào uy tín của bản than khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh
giá hiệu quả sử dụng tiền vay của ng ười vay, khách hàng không được phép
giao dịch với bất kỳ ngân hàng nào khác. Mặc dù không có tài sản đảm bảo
nhưng đây là một loại tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì khách hàng có uy tín
rất lớn và khả năng trả nợ rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần
đảm bảo
1.2.5. The o xuất xứ tín dụng
Theo xuất xứ tín dụng phân chia thành hai loại :
- Cho vay trực tiếp : Ngân hàng cấp vốn trực tiếp khách hàng, đồng thời
người đi vay trực tiếp hoàn trả món nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp : Là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hay chứng từ nợ đã phát sinh còn trong thời hạn thanh toán

như : chứng khoán, thương phiếu, giấy chứng nhận nợ.
1.3. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
1.3.1. Chủ thể tham gia:
Một bên là ngân hàng, một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế như
các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, …
1.3.2. Đối tượng :
Chủ yếu là tiền tệ, có khi là tài sản.
1.3.3. Thời hạn :
Rất linh hoạt bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
a. Công cụ :
Cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, các hợp đồng
tín dụng…
b Tính chất :
Là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, t rong đó ngân hàng là
trung gian tín dụng giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn để
sản xuất kinh danh hoặc tiêu dùng.
c. Mục đích :
Nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng qua đó thu được lợi
nhuận.
1.4. Nguyên tắc tín dụng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên
tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc
này được cụ thể hóa trong các quy định của ngân hàng nhà nước và các ngân
hàng thương mại
1.4.1. Nguyên tắc: Hoàn trả vốn và lãi đúng hạn
Khách hàng phải cam kết hoàn trẩ vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định.
Các khoản tín dụng ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc tứ các khoản tiền gửi
của khách h àng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu
người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để

ngân hàng tồn tài và phát triển.
Ngoài ra một số khoản tài trợ ngân hàng không thu lãi ( ví dụ tín dụng ưu
đãi). Tuy nhiên đó chỉ phản ánh chính sách ưu đãi của ngân hàng đối với
khách hàng riêng biệt, không ph ản ánh bản chất của hoạt động tín dụng
1.4.2. Nguyên tắc : Sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả
Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích được thỏa
thuận với ngân hàng, không tráu với các quy định của pháp luật và các quy
định khác của ngân hàng cấp trên. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục
đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín
dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và
việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng
1.4.3. Nguyên tắc: Có đảm bảo tín dụng
Ngân hàng tài trợ đựa trên phương án ( hoặc dự án ) có hiệu quả. Thực
hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án
hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được
vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng
phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét
thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi
vay. Tài sản đảm bảo này có thể khác với tài sản tương đương hình thành từ
tiền vay
1.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.5.1. Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế vận động theo các quy
luật khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh
tranh Các doanh nghiệp để có thể đứng vững trên thương trường th ì cần
phải có vốn để đầu tư và tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn
tối ưu để doanh nghiệp có thể khai thác. Các doanh nghiệp phát triển cũng có
nghĩa là nền kinh tế phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh
mẽ thúc đẩy s ự tăng trưởng kinh tế và góp phần điều hành nền kinh tế thị
trường. Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện trên các khía cạnh sau:

- Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế, góp phần
phát triển kinh tế
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở
hữu và vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ ngân hàng, đó là nguồn
tài trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn. Hơn
nữa, để có thể vay vốn được từ ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng
cao uy tín của mình đối với ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc tín
dụng. Muốn vậy, trong các dự án kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải
chọ dự án có mức sinh lãi cao nhất. Để các dự án khả thi, doanh ngh iệp phải
tìm hiểu thị trường khai thác thông tin để định lượng hoạt động kinh doanh
của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả kinh tế của dự án,
phương án.
Mặt khác, một trong những quy định tín dụng của ngân hàng là khâu
giám sát sử dụng vốn vay. Với việc giám sát này của ngân hàng, bắt buộc
doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải nhạy bén với những
thay đổi của thị trường, t ừ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh
đó, vai trò tư vấn của cán bộ tín dụng sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước
được những khó khăn, vượt qua khó khăn để đứng vững, điều này cũng góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế.
Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình v ận động liên tục của nguồn
vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế tạo cơ chế phân phối
vốn một cách có hiệu quả. Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian
và khối lượng giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho quá
trình sản xuất kinh doanh trước đó. Vì vậy, luân chuyển tiền tệ của doanh
nghiệp có lúc thừa, có lúc thiếu vốn. Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn
rỗi cùng với các nguồn t iết kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách được
ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp
đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập
của dân chúng, cũng như cho nhu cầu chi của ngân sách nhà nước khi chưa có

nguồn thu.
Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát Ngân hàng thương mại sẽ chỉ cho
vay các dự án có t ính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên
một cơ chế phân phối vốn hiệu quả.
- Thứ hai: Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả
Một trong những đặc điểm quan trọng của ngân hàng thương mại là khả
năng tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước muốn
tăng khối lượng tiền cung ứng thì Ngân hàng nhà nước có thể tăng hạn mức
tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế và ngược lại. Do
vậy thông qua hình thức tín dụng ngân hàng nhà n ước có thể kiểm soát được
khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
- Thứ ba: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế
đối ngoại và giao lưu kinh tế quốc tế.
Trước xu thế quốc tế hoá, sự giao lưu kinh tế giữa các nước luôn được
đặt ra. Trong nền kinh tế mở thì các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua bán
với các thành phần khác trong nền kinh tế mà còn có những quan hệ xuất nhập
khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngân hàng thương mại có thể thúc đẩy
mối quan hệ này thông qua hình thức bảo lãnh, cho vay đối với các doanh
nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Ngân
hàng với tư cách là một tổ chức kinh tế đắc thù về kinh doanh tiền tệ qua hoạt
động tín dụng sẽ cung cấp vốn cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu,
kinh doanh du lịch và dịch vụ thu ngoại tệ. Ngân hàng thông qua các hoạt
động thu đổi ngoại tệ thông qua các quỹ tiền tệ thế giới và khu vực tạo điều
kiện thuận lợi cho việc huy động vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức góp
phần vào sự tăng trưởng kinh tế nước ta.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của một đất nước, nó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển.
1.5.2. Đối với khách hàng:
Tín dụng phát ra phải được sử dụng đúng mục đích, đáp ứng được nhu

cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ cho đời sống của khách hàng với lãi suất
hợp lý, hồ sơ thủ tục đơn giản theo đúng quy định của pháp luật. M ặt khác,
khách hàng sử dụng vốn vay có trách nhiệm thanh toán đẩy đủ vốn gốc và lãi
cho Ngân hàng đúng kỳ hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Việc sử
dụng vố đó không những có hiệu quả, mang lai lợi nhuận cao cho khách hàng
mà còn mang lại lợi ích về kinh tế cho đất nước góp phần làm tăng tổng
doanh thu.
1.5.3. Đối với ngân hàng:
Phạm vi mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của
bản thân ngân hàng, vừa đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với
nguyên tắc hoàn trả đúng hạn thu được tiền vay, vừa đảm bảo an toàn trong
hoạt động của Ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu về kinh tế xã hội góp
phần hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển dựa trên nguyên tắc sử dụng
vốn.
1.6. Chức năng tín dụng ngân hàng
1.6.1. Tập trung và phân phối lại tài nguyên vốn theo nguyên tắc có hoàn trả
Các ngân hang thương mại thực hiện huy động vốn và cho vay trên
nguyên tắc có hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hang, chức năng này bao gồm
hai loại nghiệp vụ được tách rời ra : Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho
vay đối với những nhu cầu đang thiếu vốn tạm thời. Đó là đặc điểm mà nhiều
loại tín dụng khác không có
1.6.2. Chức năng phản ánh và kiểm soát hoạt động kinh tế
Khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng ngân hang là rộng
lớn hơn so với các hình thức tín dụng khác. Bởi vì, bên cạnh quan hệ tín dụng
với các doanh nghiệp và cá nhân, ngân hang còn có quan hệ với tiền tệ, thanh
toán với khách hang. Các mỗi quan hệ này bổ sung cho nhau tạo điều kiện
cho ngân hang kiểm soát các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín
dụng so với các doanh nghiệp khác. Tín dụng ngân hang cũng để nhà nước
kiểm soát các hoạt động kinh tế xã hội.
1.7 Rủi ro tín dụng

1.7.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân
hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy
đủ vốn và lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân hàng không
dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay
đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn
bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác
nh trc trong chin lc hot ng chung. Do vy, khi tn tht di mc
t l tn tht d kin, ngõn hng coi ú l mt thnh cụng trong qun lý.
Ri ro tớn dng gn lin vi hot ng quan trng nht, cú qui mụ ln
nht ca ngõn hng thng mi hot ng tớn dng. Khi thc hin mt hot
ng ti tr c th, ngõn hng c gng phõn tớch cỏc yu t ca ngi vay sao
cho an ton l cao nht. V nhỡn chung ngõn hng ch quyt nh cho v ay
khi thy an ton. Tuy nhiờn, khụng mt nh kinh doanh ngõn hng ti ba no
cú th d oỏn chớnh xỏc cỏc vn s xy ra. Kh nng hon tr tin vay ca
khỏch hng cú th b thay i do nhiu nguyờn nhõn. Hn na, nhiu cỏn b
ngõn hng khụng cú kh nng thc hin phõn tớch tớn dng thớch ỏng. Do
vy, trờn quan im qun lý ton b ngõn hng, ri ro tớn dng l khụng th
trỏnh khi, l khỏch quan. Nhiu quan im nht trớ rng , ri ro tớn dng l
bn ng trong kinh doanh, cú th phũng, hn ch, ch khụng th loi
tr. Do vy ri ro tớn dng d kin luụn c xỏc nh t rc trong chin lc
hot ng chung ca ngõn hng
1.7.2. Cỏc l oi ri ro tớn dng











Lãi treo
phát sinh
Nợ quá hạn
phát sinh
1. Lãi treo
đóng băng
2. Miễn
giảm lãi
1. Nợ không
có khả năng
thu hồi
2. Xóa nợ
Không thu
đợc lãi
đúng hạn
Không thu
đợc vốn
đúng hạn
Không thu
đủ lãi
Không thu
đủ vốn
(Mất vốn)
Rủi ro tín dng




Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở 4 trường hợp đối với nợ lãi và nợ gốc. Đó
là việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ lãi ,không thu được
vốn đúng hạn hoặc không thu đủ vốn. Tuỳ trường hợp mà ngân hàng hạch
toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hoặc nợ qúa hạn. Khi
không thu được lãi đúng hạn ,nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào
mục lãi treo phát sinh. Nếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản
mục lãi treo đóng băng,trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho
doanh ng iệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản
nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên ,khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất
mát hoàn toàn của ngân hàng v ì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả
nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản này ngân
hàng không thể thu hồi được(do doanh nghiệp bị phá sản cẳng hạn) th ì lúc
này ngân hàng coi như gặp rủi ro tín dụng ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản
nợ không có khả năng thu hồi ,trừ những trường hợp đặc biệt ,doanh nghiệp
vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xoá nợ thì ngân hàng có thể
xem xét để xoá nợ cho doanh nghiệp.
Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức ,các hình thức đó
luôn chuyển biến cho nhau,mà mức độ cuối cùng là nợ không có khả năng thu
hồi. Khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào các
nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh ,còn lãi treo đóng
băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi
ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học
1.7.3. Tác động
* Đối với bản thân ngân hàng:
Rủi ro xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh doanh của ngân hàng, ảnh
hưởng đến nguồn thu nhập , lợi nhuận ngân hàng, thậm chí ngân hàng phải
lấy vốn tự có của mình để bù đắp các khoản thiếu hụt do rủi ro gây ra, lúc đó
khả năng thanh toán của ngân hàng kém đi và lòng tin của khách hàng không
còn nữa, người gửi tiền muốn rút tiền đề tránh rủi ro cho chính bản thân họ và
người vay không muốn vay ở đó nữa, họ chuyển sang ngân hàng khác. Vì

vậy, khi rủi ro ở mức nhỏ, ngân hàng có thể bù đắp bằng lợi nhuận kinh
doanh hoặc bị lỗ, nhưng rủi ro ở mức độ nghiêm trọng, nguồn vốn tự có của
ngân hàng không đủ để bù đắp thiệt hại, tất yếu sẽ dẫn ngân hàng đến bờ vục
của sự phá sản . Như vậy rủi ro có thể làm đảo lộn thành quả hoạt động nhiều
năm, thậm chí trở thành vấn đề sống còn của ngân hàng.
* i vi n n kinh t :
Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư
cách là trung gian của đời sống kinh tế , nó có quan hệ trực tiếp và thường
xuyên với các tổ chức kinh tế , vì vậy kinh doanh ngân hàng gặp phải rủi ro
tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng đối với nền kinh tế và đời sống kinh tế xã
hội .Rủi ro làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm, từ đó ngân hàng không có khả
năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho khách hàng và chi trả chậm đối với người
cho vay. Vì vậy, xét trong nền kinh tế, rủi ro làm cho sản xuất bị đình trệ, các
doanh nghiệp phải đóng cửa, hàng hoá không đủ đáp ứng nhu cầu của thị
trường, tới một chừng mực nào đó làm giá cả hàng háo tăng vọt, đó chính là
một trong những nguyên nhân của lạm phát. Mặt khác, các ngân hàng thường
lập một hệ thống chặt chẽ có mối liên hệ với nhau, khi một ngân hàng gặp
phải rủi ro có nguy cơ dẫn đến phá sản dễ dàng kéo theo tình trạng khủng
hoảng của cả hệ thống ngân hàng, gây mất ổn định trên thị trường tiền tệ. Đặc
biệt trong điều kiện nền kinh tế phát triển, mọi hoạt động thanh toán giao dịch
của khách hàng đều được thực hiện qua ngân hàng, các doanh nghiệp sông
chủ yếu nhờ vốn ngân hàng, nên khi ngân hàng gặp rủi ro lớn có thể gây chậm
trễ trong công tác thanh toán của khách hàng, làm cản trở trực tiếp quá trình
chu chuỷen vốn , tất yếu làm giảm lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp .
* Đối với khách hàng :
Nếu rủi ro xảy ra từ phía ngân hàng, khách hàng có thể mất vốn dẫn đến
khó khăn trong sản xuất kinh doanh .
Mặt khác nếu rủi ro xảy ra đối với chính khách hàng, các khoản nợ của
họ sẽ trở thành các khoản nợ khó đòi, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quan
hệ của họ đối với ngân hàng. Khi đó khách hàng cần vốn họ buộc phải quan

hệ với các ngân hàng khác và phải chịu một khoảng thời gian tìm hiểu gây trì
hoãn cho quá trình sản xuất . Đông thời, nếu rủi ro lớn, chính họ sẽ bị phá sản
.
1.7.4. Các chỉ số đánh giá ( Chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụn g )
Rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lý rủi ro
tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ
những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hóa thàn những
chỉ tiêu hoặc dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng:
 Nợ quá hạn
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ
mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng
tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn
lạ i của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
 Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như
quá một kì gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán
được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản,…
Chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng
hạn có liên quan đến thanh kho ản và rủi ro thanh khoản. Chi phí gia tăng để
tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là
một lời cảnh báo cho ngân hàng. Hi vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh,
ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để gải quy ết.
Các quan điểm khác nhau, các cách tính toán khác nhau về kì hạn nợ và
nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng
Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng. Nhiều cán bộ ngân hàng
khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kỳ kinh doanh của người vay,
hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu. Họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro.
Kì hạn nợ không phù hợp với chu kì thu nhập của người vay. Khi đến hạn,
người vay dĩ nhiên sẽ không t rả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở

thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải tr ả thêm khoản “
phụ phí ” để được gia hạn nợ hoặc chịu lãi suất phạt.
Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ. Nhiều khoản nợ người vay không
có khả n ăng hoàn trả có thể được đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế.
Để che dấu đối với ngân hàng cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt,
khách hàng và nhân viên ngân hàng thỏa thuận vay khoản mới để trả khoản
cũ. Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối vớ i khoản nợ mà
chắc chắn người vay không thể trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ
quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay. Rất nhiều các khoản cho vay khó đò i,
không thể thu hồi bằng phát mạ i tài sản ( doanh nghiệp nhà nước, người
nghèo, tài sản không rõ ràng,…) Những khoản cho vay này phần lớn là cho
vay theo ch ỉ thị chính phủ. Khi chính phủ chưa có biện pháp giải quyết c húng
vẫn tồn tại trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng, trở thành tài sản “ảo”. Xử
lí khoản nợ này rất phức tạp. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi ch ỉ tiêu nợ
quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh ( khi được chính phủ đồng ý ). Tuy

×