Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và tác động đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.9 KB, 92 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Sự kiện khủng hoảng tài chính Mỹ diễn ra từ giữa năm 2007 kéo dài cho
đến nay đã tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế của hàng loạt các nước trên
thế giới. Phạm vi ảnh hưởng và mức độ thiệt hại về kinh tế của cuộc khủng
hoảng này là rất lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nền kinh
tế Việt Nam nói chung và hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói
riêng cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của
nó. Cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến hoạt
động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Đây chính là nguyên
nhân khiến em lựa chọn đề tài : “Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và tác
động đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Phân tích nguyên nhân, tìm hiểu nguồn gốc của cuộc khủng hoảng tài
chính Mỹ để rút ra những bài học kinh nghiệm quí báu cho quá trình phát
triển kinh tế của Việt Nam.
- Phân tích tác động và mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới hoạt
động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Đề ra các giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và khắc phục tình trạng
trong giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài :
- Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
- Các tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ tới hoạt động tín dụng
của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong năm 2008 và đầu 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; kết hợp
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
5. Bố cục khóa luận gồm 3 phần chính :
Đặng Thu Nga – Anh17K44H


1
Khoá luận tốt nghiệp
• Chương 1. Lý luận chung về khủng hoảng tài chính và tác động của khủng
hoảng tài chính tới hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương
mại.
• Chương 2. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và tác động đến hoạt động tín
dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
• Chương 3. Một số giải pháp cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng
thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận đuợc sự góp ý của
các thầy cô giáo, và bất cứ ai quan tâm đến vấn đề này để đề tài được hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn Tiến sĩ Đặng Thị Nhàn khoa Tài chính
ngân hàng trường Đại học Ngoại Thương đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận này.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
2
Khoá luận tốt nghiệp
Danh mục các từ viết tắt
CIC : Trung tâm thông tin tín dụng
ECB : Ngân hàng Trung ương châu Âu
FBI : Cục điều tra liên bang Mỹ
FED : Cục dự trữ Liên bang Mỹ
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDIC : Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
IMF : Quí tiền tệ Quốc tế
LIBOR : Lãi suất liên ngân hàng London
NBER : Phòng Nghiên cứu Kinh tế

NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMNN : Ngân hàng thương mại nhà nước
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTW : Ngân hàng Trung ương
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD : Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển
SEC : Ủy ban Chứng Khoán Mỹ
SIBOR : Lãi suất liên ngân hàng Singapore
USD : Dolla Mỹ
VND : Việt Nam Đồng
WTO : Tổ chức kinh tế thế giới
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
3
Khoá luận tốt nghiệp
Danh mục bảng biểu
Bảng 1: Các cuộc sáp nhập Ngân hàng và tổ chức tài chính Nhật Bản trong
thời kì khủng hoảng.
Bảng 2: Tương quan so sánh nợ nước ngoài và dự trữ ngoại tệ của các nước
trong khu vực.
Bảng 3 : Lãi suất huy động VND và USD của các NHTM quí I/2009.
Biểu 1: Diễn biến chỉ số Dow Jones từ 1928 đến 1934.
Biểu 2: Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong giai đoạn Đại khủng hoảng
Biểu 3: Diễn biến giá cổ phiếu của Merrill Lynch.
Biểu 4: Chỉ số Dow Jones tụt giảm tháng 9/2008
Biểu 5: Chỉ số Nikkei tụt giảm tháng 9/2008
Biểu 6: Diễn biến giá cổ phiểu của Fortis
Biểu 7: Tỷ lệ cho vay cầm cố dưới chuẩn và tỷ lệ sở hữu nhà ở tại Mỹ (1993-
2007)
Biểu 8: Tỷ lệ sụt giảm giá nhà ở tại Mỹ từ 2005

Biểu 9: Tốc độ tăng nhanh của các khoản nợ quá hạn tại Mỹ năm 2006-2007.
Biểu 10: Chỉ số Dow-Jones giảm liên tục từ quý III-2007.
Biểu 11: Lợi nhuận ngành ngân hàng Mỹ từ 2004 đến quí I/2008.
Biểu 12: Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ (2008-2009)
Biểu 13: Tỷ lệ sụt giảm giá nhà đất tại Mỹ (2006-2009).
Biểu 14: Giá dầu tụt giảm từ giữa năm 2008
Biểu 15: Tăng trưởng GDP từ 1980 đến đầu 2009.
Biểu 16: Kim ngạch xuất nhập khẩu các tháng năm 2008
Biểu 17: Huy động vốn từ nền kinh tế (2001-2007).
Biểu 18: Diễn biến lãi suất ngân hàng năm 2008.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
4
Khoá luận tốt nghiệp
Biểu 19: Tăng trưởng tín dụng (2001-2007).
Biểu 20: Tăng trưởng tín dụng (2000-2008).
Biểu 21: Tăng trưởng tín dụng 2008.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
5
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH TỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
1.1. Lý luận chung về khủng hoảng tài chính
1.1.1. Khái niệm khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là vấn đề chung trong lịch sử phát triển kinh tế của
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Việc nghiên cứu về khủng hoảng tài chính
là thiết yếu vì chúng là nguyên nhân dẫn đến những cuộc suy thoái kinh tế
nghiêm trọng trong quá khứ và có khả năng xảy ra trong tương lai. Trên thế
giới, không có một khái niệm qui chuẩn nào về khủng hoảng tài chính, tuy

nhiên, qua mỗi thời kì lịch sử, các nhà kinh tế học lại đưa ra những khái niệm
và lập luận khác nhau.
Trong giai đoạn đầu, khủng hoảng tài chính được hiểu là kết quả của thâm
hụt ngân sách, dẫn tới nhu cầu phát hành tiền để bù đắp thâm hụt của Chính
phủ. Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định và dự trữ ngoại hối quốc
gia sụt giảm dưới mức cho phép. Obstfelt
1
(1994) lập luận rằng khủng hoảng
tài chính xuất phát từ mâu thuẫn giữa chế độ tỷ giá cố định và mong muốn
theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng của chính phủ.
Theo học thuyết kinh tế của Hyman Minsky
2
(1919-1996), khủng hoảng tài
chính là kết quả của sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Ví dụ như :
các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền; các
khách hàng vay vốn không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
Nguyên nhân của việc không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán là do
gặp phải vấn đề thanh khoản, khả năng thanh toán hoặc do cố tình chiếm
1
Maurice Obstfelt – Giáo sư kinh tế học người Mỹ của trường đại học Berkeley, California. "Financial
Instability, Reserves, and Central Bank Swap Lines in the Panic of 2008"
2
Hyman Minsky - Giáo sư kinh tế học người Mỹ. “Financial crisis : Systemic or Idiosyncratic – 1991”
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
6
Khoá luận tốt nghiệp
dụng vốn vì điều này có thể có lợi ở khía cạnh nào đó. Tình trạng mất khả
năng thanh toán bắt nguồn từ các vụ phá sản, kinh doanh thua lỗ của các
doanh nghiệp hoặc các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Sự mất khả năng

thanh toán thường có tính dây chuyền ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế.
Mishkin
3
(2000) lại cho rằng sự bất ổn tài chính có thể dẫn tới 1 cuộc
khủng hoảng tài chính khi hệ thống tài chính đối mặt với vấn đề thông tin
không đối xứng dẫn tới rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch. Khi đó, hệ
thống tài chính không còn đủ khả năng thực hiện chức năng vốn có của nó là
kênh phân phối các nguồn lực tài chính.
Một số nhà kinh tế khác thì đưa ra quan điểm: có một sự tương quan giữa
nỗ lực nhằm tự do hoá các thị trường tài chính và số lượng các cuộc khủng
hoảng tài chính. Khủng hoảng tài chính thường đi kèm với những nỗ lực
nhằm tự do hoá thị trường tài chính. Vậy tự do hoá tài chính có nhất thiết dẫn
đến khủng hoảng tài chính và việc xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính có
thể là một lý do phản đối việc bãi bỏ các quy định và tự do hoá tài khoản vốn.
Mặc dù có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khủng hoảng tài chính, song
để hiểu được bản chất của khái niệm này, trước hết cần hiểu một số khái niệm
liên quan sau:
Tài chính được hiểu là quá trình phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp
ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Hoạt động tài chính luôn gắn liền với sự
vận động độc lập tương đối của các luồng giá trị dưới hình thái tiền tệ thông
qua việc hình thành và sử dụng các quĩ tiền tệ
4
. Tài chính có 3 chức năng cơ
bản là : chức năng huy động, chức năng phân phối và chức năng giám sát.
Thứ nhất, chức năng huy động là chức năng tạo lập các nguồn tài chính, khai
thác các nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu vốn phát triển của nền kinh tế. Việc
3
Frederic S. Mishkin. Financial stability and the macro economy. NXB: Economics Department of the
Central Bank of Iceland. 2000.
4

Các quĩ tiền tệ là cơ sở hình thành và là đối tượng của các hoạt động tài chính. Trong thực tế, các nguồn tài
chính có thể được gọi với các tên như : vốn tiền tệ, tiền vốn hay trong từng trường hợp cụ thể thì bằng các
tên gọi riêng như : vốn huy động trong dân, vốn tín dụng, vốn ngân sách…
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
7
Khoá luận tốt nghiệp
huy động vốn phải tuân thủ cơ chế thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả của
vốn. Thứ hai, chức năng phân phối là chức năng phân phối tổng sản phẩm xã
hội dưới hình thức giá trị. Thông qua chức năng này, các quĩ tiền tệ tập trung
và không tập trung được hình thành và sử dụng theo những mục đích nhất
định. Phân phối thông qua tài chính gồm: phân phối lần đầu và phân phối lại.
Tuy nhiên, thực tế phân phối được chia thành 3 nhóm: phân phối có hoàn lại
(ví dụ: tín dụng); phân phối không hoàn lại (ví dụ: ngân sách nhà nước); phân
phối hoàn lại có điều kiện (ví dụ: bảo hiểm). Thứ ba, chức năng giám sát là
chức năng kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập và
sử dụng các quĩ tiền tệ.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng
quyền sử dụng các khoản vốn ngắn hạn và dài hạn thông qua các công cụ tài
chính nhất định. Thị trường tài chính góp phần quan trọng trong việc điều hòa
vốn từ nơi thừa đến nới thiếu vốn, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong
nền kinh tế. Với vai trò như vậy, ổn định thị trường tài chính là mục tiêu quan
trọng đối với nền kinh tế các quốc gia.
Khủng hoảng là tình trạng rối loạn, sự mất cân bằng, bất ổn định, do nhiều
mâu thuẫn nghiêm trọng chưa giải quyết được.
Vậy, “khủng hoảng tài chính là tình trạng mất cân bằng, rối loạn trầm
trọng của quá trình huy động và phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp
ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Hay nói cách khác,
khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ trầm trọng các thị trường tài chính được
đặc trưng bởi sự sụt giảm mạnh mẽ về giá trị tài sản và sự đổ vỡ của các tổ
chức tài chính, phi tài chính kéo theo sự suy thoái nặng nề”.

1.1.2. Lịch sử một số cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới
1.1.2.1. Đại khủng hoảng tài chính Mỹ (1929-1933)
Cuộc Đại khủng hoảng tài chính Mỹ diễn ra từ năm 1929 với sự sụt giảm
kỉ lục của chỉ số Dow Jones (25% chỉ trong hai phiên cuối tháng 10/1929),
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
8
Khoá luận tốt nghiệp
chấm dứt chuỗi ngày tăng trưởng mạnh mẽ trước đó và mở đầu thời kỳ suy
thoái kéo dài trên phố Wall.
Ngày 29/10/2009 được gọi là ngày thứ ba đen tối đến với phố Wall khi chỉ
số Dow Jones sụt 25% sau hai phiên xuống dốc. Nhà đầu tư bán tháo cổ
phiếu, giao dịch đạt mức kỷ lục mà phải mất 40 năm thị trường mới có thể
phá vỡ. Khi cuộc khủng hoảng chạm đáy vào tháng 7/1932, Dow Jones sụt
giảm 89%. Hơn 22 năm sau, thị trường mới tìm lại đỉnh cao xác lập hồi 1929,
trước khi cơn bão giảm giá xảy ra.
Biểu 1 : Diễn biến chỉ số Dow Jones từ 1928 đến 1934.
Nguồn : Dow Jones & Company
Trong một thập kỷ, giá cổ phiếu tăng tới bốn lần, với sự dẫn đầu của các
mã thuộc lĩnh vực công nghệ mới như radio, cho thấy rõ nguy cơ bong bóng.
Trong khi các quy định liên quan tới giao dịch nội gián rất thiếu và lỏng lẻo,
nhà đầu tư dễ dàng mua gom cổ phiếu và tăng quyền kiểm soát trong công ty.
Thị trường trở nên hoảng loạn khi một loạt các biện pháp quản lý được đưa
ra, trong đó có những sắc thuế mới. NHTW duy trì lãi suất thấp trong nhiều
năm liền để hỗ trợ đồng bảng Anh (tại thời điểm đó được coi như bản vị vàng
trong rổ tiền tệ quốc tế).
Phố Wall sụp đổ khiến toàn bộ nền kinh tế Mỹ bước vào cơn suy thoái
trầm trọng, rồi lan rộng sang toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ sụt
giảm một phần ba, tỷ lệ thất nghiệp leo lên mức 25% trong khi hàng loạt công
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
9

Khoá luận tốt nghiệp
nhân chỉ được làm việc vài giờ mỗi ngày. Hệ thống ngân hàng bị đặt trong
vòng kiểm soát gắt gao. Toàn bộ ngân hàng bị đóng cửa trong 2 tuần, chờ các
điều tra viên liên bang thanh tra, giám sát.
Không được trợ cấp thất nghiệp, không được chính phủ trợ giúp đỡ, người
lao động đối mặt với vấn đề cắt giảm thu nhập và thất nghiệp. Hệ lụy tất yếu
xảy ra là tiêu dùng của dân chúng suy giảm, kéo theo sự sụp đổ của nhiều nhà
máy, công xưởng.
Biểu 2 : Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong giai đoạn Đại khủng hoảng
Nguồn : Dow Jones & Company
Chính sách thắt chặt tiền tệ, tài khóa đúng vào lúc cuộc khủng hoảng lan
rộng càng làm cho nền kinh tế suy thoái trầm trọng hơn. Thương mại quốc tế
cũng đình đốn vì Mỹ xóa bỏ chế độ bản vị vàng (coi vàng là thước đo trong
thanh toán) và dựng hàng rào thuế quan nhằm ngăn đồ nhập ngoại.
Trong giai đoạn đầu, các nhà chức trách cố lấy lại niềm tin trên thị
trường bằng những bài phát biểu, cam kết. Thậm chí Tổng thống Herbert
Hoover
5
trấn an dân chúng rằng nền kinh tế vẫn vững vàng. Mọi biến chuyển
chỉ bắt đầu khi ông Franklin D Roosevelt
6
trúng cử Tổng thống vào năm
1932. Chính phủ Mỹ bắt đầu chính sách trợ cấp thất nghiệp, ổn định thị
5
Tổng thống thứ 31 của Mỹ.
6
Tổng thống thứ 32 của Mỹ.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
10
Khoá luận tốt nghiệp

trường bằng cách hạn chế sản xuất, khuyến khích hoạt động công đoàn, và
xây dựng hệ thống hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp.
Nhìn về thời kì Đại suy thoái, ngày nay người ta có thể thấy một số bài học
còn hữu ích cho đợt khủng hoảng đang diễn ra. Thị trường tài chính, ngân
hàng và toàn bộ nền kinh tế liên thông với nhau. Vấn đề phát sinh ở một lĩnh
vực, nếu không được giải quyết triệt để sẽ lan sang lĩnh vực khác. Hành động
can thiệp tích cực và khẩn trương của chính phủ là rất cần thiết để xua tan
những áp lực đối với nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng. Phản ứng quá
chậm chạp và xuất phát từ tư duy sai lầm của chính quyền cũng như ngân
hàng Trung ương những năm 1930 khiến suy thoái nghiêm trọng hơn.
1.1.2.2. Bong bóng và sự sụp đổ thị trường tài chính Mỹ 1987
Ủy Ban Chứng Khoán Mỹ (SEC) được thành lập năm 1933-1934 sau cuộc
Đại khủng hoảng tài chính Mỹ nhằm ngăn chặn những khả năng sụp đổ thị
trường và những hành vi lừa đảo trên thị trường chứng khoán. SEC hoạt động
hiệu quả, lấy lại lòng tin nhà đầu tư khiến họ bắt đầu quay trở lại với thị
trường vào những năm 60.
Vào những năm đầu thập kỷ 60 và 70, nhà đầu tư ít quan tâm đến giá trị
doanh nghiệp mà họ quan tâm đến hình ảnh, sự tiếp cận của doanh nghiệp
đến công chúng, đến những ý kiến không chính thức về doanh nghiệp (ví dụ
như những mẩu quảng cáo mô tả ở mức thái quá về hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp).
Thập kỷ 80 là giai đoạn mà những hoạt động tài chính diễn ra cực kỳ sôi
động, đặc biệt là sự hình thành của nhiều tập đoàn lớn, hoạt động sáp nhập,
thâu tóm. Thâu tóm và sáp nhập diễn ra ở khắp mọi nơi, ở mọi cấp độ, nhiều
thương vụ được áp dụng kĩ thuật “mua lại dựa trên vay nợ” thông qua phát
hành những loại trái phiếu chất lượng thấp cho nhà đầu tư. Áp dụng cách thức
phát triển mới, tăng trưởng của những doanh nghiệp Mỹ sau sáp nhập được
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
11
Khoá luận tốt nghiệp

tính theo cấp số nhân chứ không còn đơn giản là cộng hai doanh nghiệp hợp
nhất với nhau nữa.
SEC không còn đủ khả năng để hạn chế những tập đoàn và những đợt phát
hành ra công chúng mờ ám, thị trường tiếp tục tăng trưởng liên tục trong suốt
thập niên 80. Vào đầu năm 1987, SEC đẩy mạnh hoạt động điều tra các giao
dịch nội gián. Ở vào thời điểm mà hầu hết nhà đầu tư bắt đầu quan tâm đến
khả năng Phố Wall cần phải xem xét lại chính sự tăng trưởng hiện tại của nó,
thì hoạt động điều tra của SEC đã tạo nên không khí lo lắng đối với nhà đầu
tư. Nhiều người quyết định rời khỏi “cuộc chơi mờ ám” với cổ phiếu để
chuyển sang những hoạt động đầu tư ổn định hơn, như trái phiếu.
Ngày thứ hai (19/10/1987) - ngày thứ hai đen tối - đã xảy ra một cuộc rút
lui đồng loạt ra khỏi thị trường cổ phiếu, tác động mạnh đến hệ thống quản lý
giao dịch của NYSE (Sở giao dịch chứng khoán New York). Hệ thống này tự
đặt các ngưỡng dừng lỗ (stop loss) cho cổ phiếu và chuyển lệnh tới hệ thống
DOT
7
của NYSE. Lượng bán quá lớn được chuyển sang tức thì đã làm quá tải
hệ thống máy in của DOT, làm trễ toàn hệ thống và nhà đầu tư, ở mọi cấp độ
(cá nhân hay tổ chức) rơi vào tình trạng mất thông tin.
Khủng hoảng lan truyền theo đám đông và nhà đầu tư bắt đầu đổ ra bán cổ
phiếu không cần biết sẽ lỗ bao nhiêu hay liệu lệnh của họ có thể được thực
hiện sớm hay muộn trong khi giá đang rơi thẳng đứng. Chỉ số Dow Jones tụt
508,32 điểm (22,6%) và 500 tỉ USD biến mất. Thị trường ở các quốc gia khác
trên toàn thế giới cũng sụp đổ theo.
Sau khi Alan Greenspan lên làm Chủ tịch của Cục dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) đã đóng góp rất lớn trong việc chèo lái nền kinh tế tránh khỏi một cuộc
khủng hoảng nữa bằng cách hỗ trợ để các ngân hàng thương mại và ngân
hàng đầu tư không bị vỡ nợ.
7
DOT - Designated Order Turnaround - là hệ thống máy tính điện tử nhằm hỗ trợ hiệu quả giao dịch lệnh

bằng cách chuyển các lệnh với chứng khoán niêm yết trực tiếp, không đi qua những nhà môi giới, tới các
chuyên gia trên sàn của NYSE. Hệ thống này thường được áp dụng với những lệnh có quy mô nhỏ, lệnh giới
hạn và lệnh giao dịch theo chương trình.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
12
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.2.3. Khủng hoảng Ngân hàng Nhật bản những năm 90
Trong hơn một thập kỉ kể từ năm 1990, ngành tài chính ngân hàng Nhật
Bản đã phải đương đầu với những khoản nợ khó đòi và tốc độ giảm phát liên
tục. Các ngân hàng đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Nhật Bản kể
từ sau chiến tranh 1945 cho tới năm 1973 do toàn bộ nguồn vốn tiết kiệm của
dân chúng đều đổ vào ngân hàng trong thời gian này.
Vào những năm 1970 cải cách trong khu vực tài chính được tiến hành. Một
trong những cải cách đó là thay đổi các qui trình trên thị trường tài chính nhờ
đó mà việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu không còn bị ngăn cấm như trước
nữa. Khi thị trường tài chính mở cửa, các doanh nghiệp lớn ở Nhật đều tìm
đến những công cụ tài chính rẻ hơn như cổ phiếu, trái phiếu. Việc làm này
khiến các doanh nghiệp không còn phụ thuộc nhiều vào các ngân hàng để tìm
kiếm vốn đầu tư như trước nữa. Trước đó, để phát hành trái phiếu, các công
ty này phải xin phép Ủy ban phát hành chứng khoán (vì các đạo luật liên quan
đến phát hành trái phiếu doanh nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp, mỗi
lượng trái phiếu phát hành phải có thế chấp). Đến năm 1975, thị trường
chứng khoán mở rộng theo hướng tự do hóa nên việc thế chấp cũng trở nên
dễ dàng hơn khiến các hoạt động trên thị trường này tăng nhanh. Vai trò của
các ngân hàng tiếp tục giảm mạnh.
Giữa năm 1980, mọi rào cản trên thị trường tài chính bị phá bỏ. Sự thay
đổi trong hệ thống tài chính đã tạo ra một thị trường cho phép doanh nghiệp
cũng như cá nhân có nhiều lựa chọn sử dụng vốn hơn. Trong khi đó, các ngân
hàng vẫn đi theo lối mòn với một nghiệp vụ duy nhất là nhận tiền gửi và cho
vay. Khi số lượng các doanh nghiệp sản xuất lớn tìm đến ngân hàng ngày

càng giảm thì các ngân hàng này phải chuyển đối tượng cho vay sang cá nhân
và các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản - chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
13
Khoá luận tốt nghiệp
Tăng trưởng cao và lạm phát xấp xỉ bằng 0 trong nửa cuối những năm
1980 đã đẩy giá bất động sản lên tới mức không thể dự đoán được. Áp lực
cạnh tranh trong và ngoài nước khiến các ngân hàng thi nhau cho vay để
chiếm lĩnh thị trường. Thế chấp cho các khoản vay là những món bất động
sản trị giá lớn, vượt xa cả giá trị thực của chúng. Cuối những năm 1980, các
ngân hàng Nhật và các tập đoàn Nhật đã vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia sang
Đông Á, châu Âu và châu Mỹ, nhưng tại các thị trường này tình trạng cho
vay cũng không khác tại Nhật Bản.
Bong bóng bất động sản cuối cùng cũng vỡ vào năm 1989 khi chỉ số
Nikkei 225 đạt đỉnh điểm 38915 rồi sụt giảm mạnh. Giá bất động sản theo đó
cũng giảm thảm hại. Các khoản thế chấp ngân hàng lúc này trở nên vô nghĩa
để lại trong các ngân hàng là các khoản nợ khó đòi. Các ngân hàng Nhật đối
mặt với một cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Diễn biến
Thực chất, nguy cơ khởi phát của cuộc khủng hoảng đã bắt đầu từ cuối
những năm 1970 đến giữa những năm 1980 khi các bong bóng bất động sản
hình thành. Sau đó, từ giữa những năm 1990 đến đầu năm 2000 bong bóng vỡ
khiến Nhật Bản lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống NHTM nghiêm trọng.
Có thể chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1, từ đầu những năm 1990 đến năm 1994, đây là giai đoạn các
nhà điều hành ngân hàng bắt đầu nhận ra mức độ nghiêm trọng của các khoản
nợ xấu. Hai ngân hàng đầu tiên buộc phải đóng cửa là ngân hàng Toho-Sogo
và Toyo-Shinkin (1992). Công ty mua bán nợ CCPC được thành lập năm
1993 để cứu các ngân hàng này. Năm 1993, các ngân hàng bắt đầu công khai

các khoản nợ xấu của mình.
Giai đoạn 2, từ giữa năm 1994 đến năm 1996, các nhà điều hành ngân
hàng nỗ lực giải quyết vấn đề ngày càng xấu đi của ngành ngân hàng bằng
thu nhập từ thuế thu của công chúng. Chính phủ bị chỉ trích nặng nề. Kết quả
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
14
Khoá luận tốt nghiệp
là khoản tiền thu được từ thuế đóng góp là rất nhỏ, chưa được 1 tỷ Yên. Thêm
vào đó, chính phủ đưa ra chương trình “Hành động nhanh chóng, chính xác”
để can thiệp công khai và nguyên tắc hơn vào các ngân hàng. Nhưng vấn đề
không thể chấm dứt cho dù liên tiếp các chính sách được đưa ra.
Giai đoạn 3, khủng hoảng trở thành hệ thống năm 1997-1998 khi 3 ngân
hàng lớn và các công ty chứng khoán lớn rơi vào tình trạng khủng hoảng tín
dụng trầm trọng. Cuối cùng, chính phủ phải huy động một khoản tiền khổng
lồ là 30 tỷ Yên, sau đó là 60 tỷ Yên
8
để bảo vệ các ngân hàng này khỏi phá
sản và cũng để tái cấp vốn cho một vài ngân hàng đã phá sản.
Giai đoạn 4, từ năm 1999 đến 2000 là thời kì của trào lưu sáp nhập và quốc
hữu hóa các NHTM. Vụ sáp nhập đầu tiên là của tập đoàn Mizuho rồi các vụ
sáp nhập của các ngân hàng chính. Không chỉ xảy ra với các ngân hàng thành
phố, làn sóng này còn lan sang các ngân hàng ủy thác, các công ty chứng
khoán…Kết quả của làn sóng này là 13 ngân hàng thành phố ra đời đầu năm
1993 giảm còn 5 vào tháng 4/2001. Song song với làn sóng sáp nhập là các
vụ quốc hữu hóa các ngân hàng. Điển hình là vụ ngân hàng Nippon. Mặc dù
chính phủ và các tổ chức tài chính tư nhân đã cấp tổng số vốn lên tới 290 tỷ
Yên tháng 7 năm 1997 cho ngân hàng này thực hiện kế hoạch tái cơ cấu
nhưng hầu như không cải thiện được tình hình và buộc chính phủ phải quốc
hữu hóa vào ngày 13/12/1998. Sau sự kiện này, Ủy ban định giá cổ phiếu đã
tuyên bố giá cổ phiếu của NCB là 0. Đây là gia đoạn đau thương của NHTW

Nhật.
Bảng 1: Các cuộc sáp nhập Ngân hàng và tổ chức tài chính
Nhật Bản trong thời kì khủng hoảng
8
Nguồn BOJ-www.bis.org page 6 “The financial crisis in Japan during the 1990s: How the BOJ responded
and the lessons learnt”
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
15
Khoá luận tốt nghiệp
Ngân hàng và các tổ chức tài
chính sáp nhập
Năm sáp
nhập
Tên mới sau
sáp nhập
Ngày có hiệu
lực
IBJ, Nomura Securities
(Alliance)
13/5/1998 12/98-1/99
Dai-Ichi Securities,
J.P.Morgan( Alliance)
1/11/1998 3/1999
IBJ, Dai-Ichi Life Insurance
(Alliance)
2/10/1998
DKB Trust, Fuji Trust,
Yasuda Trust
6/11/1998 DK-Fuji Trust 1/4/1999
Chuo Trust. Mitsui Trust 19/1/1999 Cho-Mitsui

Trust
4/2000
Fuji Bank. Yasuda Trust 28/1/1999
IBJ, IBJ Securities,
Shinnihon Securities, Wako
Univeral, Taiheiyo, Towa
24/3/1999 Shinko
Securities
4/2000
Dai-Ichi Securities 29/7/1999 Tsubasa
Securities
4/2000
DKB, Fuji, IBJ 8/1999 Mizuho
Holding
9/00-4/02
Sakura, Sumitomo 10/1999-
4/4/2000
SMBC UFJ
holding
4/2001-
1/2002
Sanwa, Tokai, Toyo Trust 19/4/2000 Mitsubishi
Trust
4/2001
TMB, Mitsubishi Trust with
holding companies
25/5/2000 Mizuho
Securities
10/2000
IBJ SIBJ Securities, DK

Securities, Fuji Securities
28/11/2000 Daiwa SMBC 4/2001
Daiwa Sec.H.C, Sakura,
Sumitomo, Sakura Sec
30/6/2000 Mizuho Trust
Risona
10/2000-
3/2001
Nguồn : www.google.com/RIETI (Discussion Paper Series 03-E-010)
1.1.2.4. Khủng hoảng nợ Mexico 1994
Ở Mexico, ngày 1 tháng 1 năm 1994, lực lượng vũ trang Zapatistas đã nổi
dậy. Cuối tháng 2, tỷ giá hối đoái giữa Peso và USD tăng đến kịch trần biên
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
16
Khoá luận tốt nghiệp
độ giao động. Nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn lạc quan về tình hình
Mexico và vốn nước ngoài vẫn tiếp tục được đổ vào.
Tháng 3, ứng cử viên tổng thống Colosio bị ám sát. Các nhà đầu tư nước
ngoài trở nên bất an và lo lắng cho tài sản của mình ở Mexico. Hoảng loạn tài
chính đã xảy ra. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã giảm nhu cầu về
chứng khoán của Mexico. Peso chịu sức ép mất giá và Chính phủ đã tung ra
khoảng 10 tỷ USD dự trữ ngoại hối nhà nước ra để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa.
Tháng 4, lãi suất trái phiếu chính phủ định danh bằng đồng Peso có xu
hướng tăng. Lo ngại rằng điều này có thể tác động tới khu vực ngân hàng
chưa đủ mạnh của đất nước và sợ rằng lãi suất cao có thể gây ra suy thoái
kinh tế vào một năm có bầu cử tổng thống, nên chính phủ đã một mặt dùng
dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi suất, một mặt tiến hành đổi
các trái phiếu chính phủ từ định danh bằng đồng Peso sang định danh bằng
USD.
Đã có cảnh báo của một số học giả kinh tế về việc đồng Peso quá cao so

với đồng USD. Nhưng đồng thời cũng có ý kiến phản đối việc điều chỉnh tỷ
giá vì lý do niềm tin của các nhà đầu tư chưa đủ mạnh để có thể không bị
hoảng loạn khi tỷ giá thay đổi mạnh. Chính phủ Mexico chọn biện pháp vừa
dùng dự trữ ngoại hối để giữ ổn định giá, vừa từng bước nhỏ điểu chỉnh tỷ
giá.
Tháng 8, tổng thống mới nhậm chức. Các chính sách tài chính tiền tệ vẫn
được giữ như cũ.
Cuối tháng 9, José Francisco Ruiz Massieu bị ám sát. Các nhà đầu tư thêm
bất an. Song chính phủ vẫn không điều chỉnh chính sách. Giữa tháng 10, Cục
dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tuyên bố mặc dù lo ngại về mức dự trữ ngoại hối
ít ỏi của Mexico, song Mexico không nên mong đợi chi viện của nước ngoài.
Tâm lý các nhà đầu tư trở nên hoang mang hơn.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
17
Khoá luận tốt nghiệp
Giữa tháng 10, sau khi một số công ty lớn của Mexico công khai tình
trạng lợi nhuận của mình giảm sút. Thị trường chứng khoán Mexico chao
đảo. Áp lực mất giá đồng Peso khiến các nhà đầu tư bắt đầu rút khỏi thị
trường Mexico. Cuối tháng 10, thống đốc NHTW Mexico công khai rằng dữ
trữ ngoại hối của Mexico chỉ còn 17,12 tỷ USD.
Ngày 20 tháng 12 năm 1994, đồng Peso bị mất giá mạnh. Chính phủ đã
can thiệp nhằm giảm tốc độ mất giá, song không có hiệu quả mà lại mất rất
nhiều dự trữ ngoại hối nhà nước. Đến ngày 22, chính phủ tuyên bố thả nổi
đồng Peso. Quyết định này đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng tin vào khả
năng trả các khoản nợ ngắn hạn (các khoản nợ nước ngoài nếu tính theo Peso
gấp nhiều lần khi tỷ giá giữa Peso và USD tăng lên). Vì thế, đồng Peso càng
trở nên mất giá hơn.
Nợ nước ngoài đột nhiên tăng lên đã khiến bảng cân đối tài sản của các xí
nghiệp và ngân hàng của Mexico xấu đi. Hậu quả là nền kinh tế Mexico rơi
vào khủng hoảng thực sự.

1.1.2.5. Khủng hoảng tài chính Châu Á - 1997
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại một số nước Đông Á bắt đầu từ Thái
Lan vào tháng 7 năm 1997 khi nước này tuyên bố chấm dứt chế độ tỷ giá theo
đồng Dolla Mỹ. Cuộc khủng hoảng sau đó lan rộng ra nhiều nước trong khu
vực như Malaysia, Indonesia, Philippines, Hàn Quốc. Biểu hiện của cuộc
khủng hoảng là đồng tiền của các nước này bị giảm giá liên tục và xuống đến
mức kỉ lục, giá chứng khoán và bất động sản cũng giảm nhanh chóng, nhiều
ngân hàng, tổ chức tài chính lâm vào tình trạng phá sản. Kết quả là một số
nước châu Á đã trải qua thời kì tăng trưởng thấp và mất niềm tin của các nhà
đầu tư nước ngoài.
Diễn biến
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình
quân hàng năm là 9%. Đầu năm 1996, báo cáo “Triển vọng kinh tế thế giới”
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
18
Khoá luận tốt nghiệp
của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong
bóng kinh tế có thể vỡ. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt
đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường
chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14/05 và ngày 15/05/1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ quy
mô lớn. Ngày 2/07/1997 thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên
bố thả nổi đồng Baht. Đồng Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Chỉ số thị
trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn
372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ
USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One - công ty tài chính lớn nhất của
Thái Lan bị phá sản
9
.
Sự sụt giảm giá trị của đồng Baht đã tạo ra sức ép làm mất lợi thế cạnh

tranh của các nước có điều kiện kinh tế vĩ mô và mặt hàng xuất khẩu tương tự
như Thái Lan, đó là Malaysia, Indonesia, Philippines và cuối cùng làm đồng
tiền của các nước này bị giảm giá theo.
Ngày 11/7/1997, Philippines thả nổi đồng Peso. Đồng Peso mất giá nghiêm
trọng, từ 26 Peso đổi được 1 USD xuống còn 38 Peso và còn 40 Peso vào
cuối thời kì khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do
khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph
Estrada. Do khủng hoảng chính trị, chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường
chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức 3000
điểm đầu năm 1997. Nó kéo theo việc đồng Peso thêm mất giá.
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, đồng Ringgit của Malaysia và
thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/1 USD xuống còn 4,20 Ringgit/1 USD.
Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này
trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy
9
Nguồn :“Khủng hoảng tài chính Đông Á”- />Đặng Thu Nga – Anh17K44H
19
Khoá luận tốt nghiệp
trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự
tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong
nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài.
Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý II và quý III năm
1997.
Ngày 14/8/1997, Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah. Đồng Rupiah
của Indonesia cũng rơi vào tình trạng tương tự đồng Baht Thái Lan và đồng
Ringgit của Malaysia. Tháng 7/1997 Indonesia đã nới rộng biên độ dao động
của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và USD từ 8% lên 12%. Tháng 8/1997, chế
độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn
toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính

khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ USD, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do
đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu USD ở Indonesia tăng vọt. Trước
khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và USD vào khoảng 2000 : 1.
Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Bảng 2: Tương quan so sánh nợ nước ngoài và dự trữ ngoại tệ của các
nước trong khu vực
Đơn vị : Tỷ USD
Tên nước Indonexia Malayxia Philippines Singapore Thái Lan
Dự trữ ngoại tệ
chính thức
18,16 25,3 10,3 78,3 31,8
Nợ nước ngoài 109,3 29,0 43,2 0 85,0
Tỷ lệ trả nợ
nước ngoài
33 6,0 15,0 0 14,0
Nguồn : Tạp chí nghiên cứu kinh tế tháng 1/1998
Ngày 5/8/1997, Thái Lan phải tạm ngừng hoạt động của 42 công ty tài
chính, đưa tổng số công ty bị đóng cửa lên 58/90 với tổng số dư nợ là 1391 tỷ
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
20
Khoá luận tốt nghiệp
Baht. IMF buộc phải đưa ra chương trình viện trợ cả gói cho Thái Lan 17,2 tỷ
USD với những điều kiện khá ngặt nghèo.
Tháng 10 năm 1997, khủng hoảng lan sang Hàn Quốc, Đài Loan, Hong
Kong, Nhật Bản, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho các nền kinh tế liên
quan. Ngày 2/11/1997, Bộ trưởng tài chính Hàn Quốc thông báo Chính phủ
Hàn Quốc chính thức đề nghị IMF hỗ trợ sau khi đồng Won giảm giá mạnh.
Nhưng chỉ 2 tuần sau khi IMF công bố khoản hỗ trợ tài chính cả gói 57 tỷ
USD cho Hàn Quốc, đồng Won giảm giá xuống mức kỷ lục 1926 Won/1
USD do có tin Hàn Quốc nợ tới 220 tỷ USD. IMF và G7 quyết định giải ngân

khẩn cấp cho Hàn Quốc 10 tỷ USD. Cũng vào thời điểm cuối tháng 11/1997,
Nhật Bản, nước láng giềng gần với khu vực Đông Nam Á, với kim ngạch
buôn bán và đầu tư song phương ở mức độ cao, cũng không nằm ngoài ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng. Yamachi – một trong bốn công ty chứng khoán
lớn nhất của Nhật Bản đã phải tuyên bố phá sản, kết thúc 100 năm hoạt động,
để lại một khoản nợ không có khả năng thanh toán lên đến 3000 tỷ Yên
(tương đương 25 tỷ USD).
Trái với những dự đoán vội vã ban đầu của các tổ chức tài chính và các
chuyên gia IMF, rằng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ này sẽ kết thúc vào
cuối năm 1997, cho tới năm 1999 cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục lan rộng,
ảnh hưởng tới rất nhiều quốc gia trong khu vực.
Ngày 8/1/1998, IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng
đã trải qua nhưng tới 15/5/1998, tỷ giá đồng Yên Nhật so với USD đã xuống
mức thấp nhất kể từ tháng 8/1991 (137,07 Yên/1 USD) báo hiệu nguy cơ
khủng hoảng vòng 2 của khu vực này. Giá đồng Yên Nhật liên tục giảm gây
sức ép phá giá đồng Nhân dân tệ nhưng Trung Quốc vẫn kiên kì sẽ không phá
giá đồng tiền nước mình và cam kết bảo vệ đồng Nhân dân tệ ít nhất trong
vòng 1 năm nữa. Chỉ số chứng khoán trên thị trường Hong Kong, Đài Loan
sụy giảm mạnh mẽ. Đồng Yên Nhật mất giá dần tới điểm nhạy cảm (150
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
21
Khoá luận tốt nghiệp
Yên/1 USD) và đạt 146,55 Yên/1 USD, gây ra tâm lý lo sợ trên toàn cầu. Bộ
trưởng tài chính các nước EU phải nhóm họp và đưa ra tuyên bố đặc biệt yêu
cầu Nhật Bản củng cố hệ thống tiền tệ.
Ngày 17/6/1998, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã phối hợp với ngân
hàng Nhật để cứu trợ đồng Yên bằng cách bỏ ra 2 tỷ USD. Sự phối hợp này
đã làm cho giá đồng Yên lập tức được khôi phục ở mức 136,2 Yên/1 USD.
Tâm lý lo sợ về cuộc khủng hoảng vòng 2 được giải tỏa.
Ngày 20/6/1998, Hội nghị thứ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng các

nước nhóm G7 và 11 nước châu Á – Thái Bình Dương họp tại Tokyo thảo
luận về việc ổn định đồng Yên, ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ vòng 2
tại khu vực và tìm cách khôi phục lại nền kinh tế Nhật Bản đang trên đà suy
thoái. Hội nghị ra tuyên bố 9 điểm, trong đó hoan nghênh sự can thiệp của
Mỹ vào thị trường để hỗ trợ đồng Yên của Nhật Bản, hoan nghênh Trung
Quốc cam kết duy trì đồng Nhân dân tệ và kêu gọi Nhật Bản sớm điều chỉnh
hệ thống tiền tệ, giải quyết các khoản nợ khó đòi và cải cách chế đội thuế.
Ngân hàng thế giới (World Bank) và Chính phủ Anh đã ký thỏa thuận
thành lập quĩ tín dụng ASEM (được khởi xướng tại Hội nghị thượng đỉnh
ASEM II đầu tháng 4/1998 để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng với
số vốn ban đầu khoảng 35, 40 tỷ USD).
2/7/1998, tròn 1 năm sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, chính phủ
Nhật chính thức thông qua kế hoạch thành lập hệ thống ngân hàng cầu nối để
giải quyết các khoản nợ khó đòi của các tổ chức tiền tệ đã bị phá sản.
Cho đến năm 2000, sau hơn 3 năm, cuộc khủng hoảng gần như đã chấm
dứt hoàn toàn, những tín hiệu của quá trình phục hồi kinh tế khu vực đang
mạnh dần. Thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng đã qua, tốc độ phát
triển kinh tế thế giới đã dần dần được phục hồi. Năm 1999, tăng trưởng thế
giới ở mức 3,2%, năm 2000 là khoảng 5%. Tại châu Á, lạm phát và xáo trộn
tỷ giá đã được kiềm chế. Theo số liệu của IMF, 1 số nước trong khu vực đã
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
22
Khoá luận tốt nghiệp
có những chuyển biến tích cực. Cụ thể là: năm 1999 Hàn Quốc đã đạt mức
tăng trưởng 2%, Indonesia là -1,1%, Malaysia là 0,9%, Thái Lan là 0,5%.
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô
nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm
giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến
hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó còn góp phần

dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một
số nước không bị khủng hoảng, song nền kinh tế vẫn chịu những ảnh hưởng
xấu do xuất khẩu giảm và nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI đầu vào giảm.
1.1.2.6. Khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2008
Khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2007-2008 là cuộc khủng hoảng trong
nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) bắt từ giữa năm
2007. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở
thứ cấp tại Mỹ. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Thị trường tài chính Mỹ và châu Âu là hai khu vực chịu ảnh hưởng nặng
nề nhất của cuộc khủng hoảng này. Hàng loạt các ngân hàng và tập đoàn tài
chính lớn của Mỹ và châu Âu bị buộc phải phá sản, bị quốc hữu hóa hoặc bị
các tổ chức khác mua lại. Điển hình như: ngân hàng Lehman Brothers phá
sản, các ngân hàng Bear Stearns, Merrill Lynch, Wachovia, Washington
Mutual bị bán cho các ngân hàng khác; công ty bảo hiểm AIG của Mỹ, ngân
hàng Northern Rocks, Bradford&Bingley của Anh, ngân hàng Fortis, Dexia
của Bỉ…bị quốc hữu hóa hoặc phải nhận các khoản hỗ trợ tài chính từ Chính
phủ các nước.
Một số nước có thị trường vốn liên thông với Mỹ và châu Âu cũng chịu
ảnh hưởng trực tiếp; thị trường tài chính các nước châu Á và Nam Mỹ cũng
không nằm ngoài vòng khủng hoảng, song mức độ tác động chưa lớn.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
23
Khoá luận tốt nghiệp
Ngày 22/4/2009, Quĩ tiền tệ (IMF) ước tính tổng thiệt hại của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu là 4054 tỷ USD, trong đó có 2712 tỷ USD thiệt hại
là do các tài sản xuất phát từ Mỹ, 1193 tỷ USD thiệt hại do các tài sản xuất
phát từ châu Âu và 149 tỷ USD thiệt hại xuất phát từ Nhật Bản
10
. Hầu hết các

tài sản này tồn tại dưới dạng cổ phiếu hay các khoản vay thế chấp. Những số
liệu thống kê này được ước tính từ giữa năm 2007 (khi cuộc khủng hoảng tài
chính bắt đầu) đến năm 2010.
1.1.3. Đặc điểm của khủng hoảng tài chính
Không phải các cuộc khủng hoảng tài chính đều giống nhau cho dù những
dấu hiệu bề ngoài là có vẻ như nhau. Việc phân tích lịch sử tỷ mỉ dựa trên lý
thuyết giúp chúng ta có thể phân biệt những đặc điểm chính của bất cứ cuộc
khủng hoảng tài chính cụ thể nào.
Theo các chuyên gia kinh tế, có 3 loại khủng hoảng tài chính: khủng
hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân hàng, và khủng hoảng nợ. Mỗi một loại
khủng hoảng sẽ có những đặc trưng và dấu hiệu nhận biết cụ thể.
Theo mô hình của Paul Krugman
11
(1953), khủng hoảng tiền tệ (hay
khủng hoảng cán cân thanh toán) biểu hiện ở việc đồng tiền bị mất giá, lạm
phát tăng cao, các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn, dự trữ ngoại hối suy
giảm và sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định. Khủng hoảng xuất
hiện khi Chính phủ áp dụng các chính sách tài chính và tiền tệ không hợp lý
trong khi cố định tỷ giá, thâm hụt cán cân thương mại trong một thời gian dài,
hoặc bị khủng hoảng ngân hàng tác động, thông qua việc Nhà nước phải phát
hành thêm tiền để trợ giúp ngành ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính tại
châu Á (1997) là một ví dụ điển hình, mang đầy đủ những đặc điểm của một
cuộc khủng hoảng tiền tệ.
10
Nguồn: Hãng thông tấn xã Agence France-Presse (AFP)

11
Paul Krugman là một nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư đại học Princeton. Năm 2008 ông được trao giải
Nobel kinh tế học.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H

24
Khoá luận tốt nghiệp
Theo Micheal D.Bordo
12
(1985) khủng hoảng ngân hàng là tình trạng
mọi người đồng loạt rút tiền gửi hay nhiều ngân hàng thất bại trong việc
thanh toán các khoản nợ đến mức phải có sự hỗ trợ của Chính phủ ở qui mô
lớn. Trên thực tế, rất khó để nhận biết loại khủng hoảng này bởi vì thiếu các
thông tin chính xác. Tuy nhiên theo các chuyên gia kinh tế thì sự biến đổi Tài
sản Có và Tài sản Nợ trong bản quyết toán của các ngân hàng là những dấu
hiệu tốt nhất để nhận biết một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Khi các ngân
hàng không còn duy trì được sự cân bằng trong danh mục Tài sản Có và Tài
sản Nợ, nguy cơ mất tính thanh khoản xảy ra và dẫn tới tình trạng rút tiền
hàng loạt. Cuộc khủng hoảng ngân hàng Nhật Bản năm 90 là ví dụ cho loại
khủng hoảng này.
Vậy, dấu hiệu có thể nhận biết khủng hoảng ngân hàng là sự kết hợp của
những hiện tượng sau : một là một số ngân hàng bị đóng cửa, sát nhập hoặc
quốc hữu hóa; hai là hiện tượng rút tiền gửi đồng loạt; ba là sự trợ giúp ngày
càng tăng của Chính phủ cho một hoặc nhiều tổ chức tài chính.
Khác so với khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng, khủng
hoảng nợ là tình trạng mà một quốc gia không có khả năng chi trả nợ nước
ngoài. Dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng nợ là các chỉ số: tổng dư nợ
Chính phủ; tổng dư nợ nước ngoài; tổng dư nợ ngắn hạn/GDP; tổng dư nợ dài
hạn/GDP của một quốc gia tăng mạnh vượt ngưỡng an toàn. Nguyên nhân
của cuộc khủng hoảng nợ thường bắt nguồn từ việc thâm hụt lớn ngân sách
Nhà nước dẫn tới tình trạng không đủ khả năng chi trả các khoản nợ nước
ngoài. Cuộc khủng hoảng nợ Mexico xảy ra năm 1994 là ví dụ tiêu biểu cho
loại khủng hoảng tài chính này.
Từ việc phân tích đặc điểm của từng loại khủng hoảng tài chính trên có
thể tổng kết lại, khủng hoảng tài chính có những đặc trưng sau :

12
Micheal D.Bordo là một nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư đại học Rutgers University.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
25

×