Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.27 KB, 56 trang )

Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện

Nhóm 2 Page 1
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện

Nhóm 2 Page 2
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện

Nhóm 2 Page 3
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
LỜI NÓI ĐẦU
Tỷ giá hối đoái giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh
tế của mỗi quốc gia cũng như các quan hệ thương mại quốc tế thông qua
việc phản ánh tương quan giá trị đồng tiền của những nước khác nhau.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, ngày nay tỷ giá hối
đoái đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia và là
vũ khí lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt trên thế
giới.
Trong thời gian qua, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần thay đổi phương pháp điều hành tỷ giá. Từ
chỗ được giữ cố định, “đông cứng” trong một thời gian khá dài, đến nay tỷ
giá hối đoái đã được hình thành một cách khách quan theo tín hiệu thị
trường và có sự điều tiết của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh rằng, cơ chế
điều hành tỷ giá hối đoái hiện nay là phù hợp với đặc điểm tình hình và mục
tiêu phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, để cơ chế điều hành tỷ giá mới có
thể thực sự phát huy tác dụng cần thiết phải có những cải cách hơn nữa
trong việc quản lý tỷ giá hối đoái. Làm sao để tỷ giá hối đoái sát hợp với tín
hiệu thị trường, theo hướng điều tiết của Nhà nước, khuyến khích xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu, nâng cao uy tín của đồng tiền và tiến tới một đồng Việt
Nam có khả năng chuyển đổi luôn là câu hỏi được đặt ra cho không chỉ
những nhà hoạch định chính sách mà còn là dấu chấm hỏi cho những nhà


nghiên cứu kinh tế và những người học như chúng ta. Việc nghiên cứu
“ !"#$%#&'%()* #+%(,#,
- %(.được lựa chọn chính từ những yêu cầu, đòi hỏi đó. Nội dung của
bài tiểu luận này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu điều hành chính sách tỷ giá
của Ngân hàng trung ương Việt Nam và một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái trong thời gian tới. Bên cạnh đó, do
hạn chế về thời gian, kiến thức chuyên môn và trình độ lý luận nên trong quá
trình nghiên cứu, bài viết không tránh khỏi những sai sót nhất định. Chúng
em rất mong nhận được sự hướng dẫn đóng góp của các thầy cô, bạn bè để
hoàn thiện hơn trong những bài nghiên cứu sắp tới.
Nhóm 2 Page 4
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
/0/0$%#
1.1.1. Khái niệm và phân loại
1.1.1.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại, hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều có đồng tiền riêng khác nhau cả về hình thức lẫn giá trị và đều tham gia
ngày càng tích cực vào đời sống kinh tế xã hội quốc tế theo trình độ phát
triển và vị thế của quốc gia mình. Trong quá trình tham gia các hoạt động
thương mại, đầu tư, vay mượn và trao đổi quốc tế các nước, các tổ chức , cá
nhân, các đối tác phải thanh toán với nhau thông qua các đồng tiền của các
bên được chuyển đổi, tính toán theo một tương quan tỷ lệ nhất định.
Vì vậy, tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu, xem xét mà tỷ giá hối đoái
có thể được định nghĩa theo hai cách sau:
Định nghĩa 1: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể
hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia.
Theo định nghĩa này, tỷ giá hối đoái được coi là giá cả của một loại hàng hoá
đặc biệt- hàng hoá tiền tệ.

Ví dụ: 1 USD = 19.500 VND
Định nghĩa 2: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai
nước với nhau mà trong thời đại ngày nay sự so sánh đó là sự so sánh sức
mua của các tiền tệ.
1.1.1.2. Phân loại
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh nào
đó của tỷ giá hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do vậy
cần thiết phải phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác
nhau:
Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai
loại:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng điện (telegraphic transfer -T/T)
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng thư (mail transfen M/T)
Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành trên cơ
sở ngang giá vàng.
- Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung
cầu quy định .
Nhóm 2 Page 5
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước
không can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.
Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các
loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ

hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển
khoản ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua
ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối
bằng tiền mặt.
Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mau bán ngoại
hối của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán
ngoại hối của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận
ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao
nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp
đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau).
Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá
- Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
- Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
1.1.2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
1.1.2.1. Thuyết ngang giá vàng
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng tiền
quốc gia đều được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim loại
(vàng) chứa đựng trong đồng tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của
mình đại diện. Trong giai đoạn này, đặc biệt từ năm 1870 đến thời kỳ đầu
đại chiến thế giới lần thứ nhất, người ta xác định tỷ giá giữa các đồng tiền
bằng cách so sánh hàm lượng vàng chứa trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng
nước.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và của
một đô la Mỹ là 0,888671 gam. Do đó, tỷ giá hối đoái của GBP và USD là:

GBP/USD=2,488281/0,888671=2,80
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên thế
giới khá ổn định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng
vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Nhóm 2 Page 6
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, đặc biệt là do những bất lợi của chế độ bản vị vàng (kiềm
chế sự phát triển kinh tế và giao lưu kinh tế quốc tế ) nên phần lớn các nước
đã từ bỏ chế độ bản vị vàng vào đầu những năm 30. Đến năm 1971, các nước
hoàn toàn bãi bỏ chế độ bản vị vàng.
1.1.2.2. Thuyết ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity- PPP )
Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một
nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài ra,
người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu
hướng tăng nhập khẩu. Như vậy, cả hai lực lượng này tạo áp lực giảm giá
đồng tiền của nước có lạm phát cao.Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa
các quốc gia, tạo nên các kiểu mẫu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp
và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái .
Một trong những lý thuyết nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh cãi nhất
trong tài chính quốc tế là thuyết ngang giá sức mua, tập trung vào mối liên
hệ lạm phát – tỷ giá hối đoái.
Ý tưởng căn bản của thuyết ngang giá sức mua ban đầu được phát triển
bởi nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo vào thế kỷ 19. Nhưng chính Gustar
Cassel, một nhà kinh tế người Thụy Điển mới là người phổ biến rộng rãi PPP
vào những năm 20 của thế kỷ XX. Trong những năm này, rất nhiều nước như
Đức, Hungary, Nga phải trải qua thời kỳ lạm phát phi mã vì sức mua đồng
tiền của các nước đó giảm rất mạnh, bị mất giá mạnh so với các đồng tiền ổn
định như USD. Lúc này quan niệm về thuyết PPP trở nên phổ biến trước thực
trạng lịch sử như vậy. Có nhiều hình thức khác nhau của thuyết PPP.

Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một
giá. Nội dung cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất
một loại hàng hoá giống nhau thì giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau
trên toàn thế giới và không phụ thuộc vào nước nào sản xuất ra nó.
Như vậy, theo quy luật một giá thì nếu như thép của Mỹ được sản xuất với
giá 100 USD/tấn, còn thép của Nhật được sản xuất ra với giá 10.000 JPY/tấn
thì có nghĩa là 1 USD = 100 JPY, tỷ giá USD/JPY = 100.
Giả sử tỷ giá USD/JPY = 50 thì điều đó có nghĩa: thép của Nhật bị đắt
tương đối so với thép của Mỹ. Khi đó cầu thép của Nhật sẽ giảm xuống cho
đến khi giá thép của Nhật còn 5000 JPY/tấn hoặc tỷ giá phải nâng lên
USD/JPY = 100 (tức là giảm giá đồng JPY). Tương tự khi tỷ giá là 150
JPY/USD thì xu hướng là cầu thép của Nhật tăng tới 15.000JPY/tấn hoặc tỷ
giá phải giảm xuống đến 100 JPY/USD (tăng giá đồng JPY).
Trên cơ sở quy luật một giá, thuyết PPP phát biểu rằng: Tỷ giá bất kỳ giữa
hai đồng tiền của hai nước sẽ bằng tỷ số mức giá của hai nước đó tại cùng
thời điểm.
Nhóm 2 Page 7
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
Ví dụ: Thép Nhật tăng giá 11.000 JPY/tấn, thép Mỹ vẫn ở giá 100 USD/tấn, tỷ
giá cũ là 100 JPY/USD, thì lúc đó thuyết PPP nói rằng tỷ giá sẽ được điều
chỉnh theo hướng giảm giá đồng JPY, tức là bằng 110 JPY/USD. Việc vận
dụng thuyết PPP chỉ cung cấp cho ta một hướng dẫn lâu dài về sự vận động
của tỷ giá.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn nó không được hoàn hảo, thậm chí còn bị sai
lệch đáng kể vì thị trường là không hoàn hảo, tồn tại chi phí vận chuyển, bảo
hiểm, thanh toán, thông tin và nhiều hàng rào thương mại khác, do đó,
thuyết PPP tuyệt đối hiếm khi thấy trong thực tế, nhưng thuyết PPP tương
đối lại khá phổ biến.
Thuyết PPP tương đối được duy trì, dù cho sức mua của đồng tiền không
giống nhau ở mọi nơi, thay đổi mức giá cả giữa hai quốc gia được hấp thụ

bởi sự biến động của tỷ giá, do đó, quan hệ PPP được duy trì không thay đổi.
Nếu nước A có tỷ lệ lạm phát bằng 0% và nước B có tỷ lệ lạm phát bằng 10%
thì đồng tiền của nước B phải giảm giá 10% so với đồng tiền của nước A. Sự
biến động của tỷ giá sẽ duy trì tỷ lệ giá cả giữa hai nước trước và sau khi
lạm phát xảy ra là không thay đổi.
Nếu thuyết PPP tương đối hoạt động, có hiệu lực ngay lập tức và chính
xác, thì chính sách tiền tệ sẽ không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại.
Bất cứ sự thay đổi nào trong các mức giá cả giữa hai nước do thay đổi mức
cung ứng tiền sẽ được hấp thụ ngay lập tức bởi sự thay đổi của tỷ giá. Trong
thực tế thuyết PPP tương đối có ảnh hưởng tương đối tới sự biến động của
tỷ giá, nhưng xảy ra chậm hơn. Xu hướng là rõ ràng nhưng nhiều yếu tố có
thể làm méo mó quan hệ này trong ngắn hạn. Một trong những nguyên nhân
chủ yếu là do trong giai đoạn ngắn hạn đối với cả thị trường trong nước và
thị trường quốc tế thì giá cả hàng hoá được coi như là cố định. Trong khi đó
tỷ giá trao đổi thì được điều chỉnh thường xuyên do sự cập nhật thông tin và
do sự thay đổi của chính sách kinh tế. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi của tỷ giá
đã tạo ra sự sai lệch lớn và kéo dài so với thuyết PPP.
1.1.3 Niêm yết tỷ giá
Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, tỷ giá hối đoái thường
được yết giá như sau:
USD/DEM = 1,4125/1,4175
USD/VND = 15.300/15.500
Trong công thức trên, đồng USD đứng trước gọi là đồng tiền yết giá và là
một đơn vị tiền tệ. VND đứng sau gọi là đồng tiền định giá và là một số đơn
vị tiền tệ và thường xuyên thay đổi phụ thuộc vào thời giá của tiền yết giá.
Tỷ giá đứng trước 15.300 là tỷ giá mua đô la trả bằng VND của ngân hàng,
được gọi là tỷ giá mua vào của ngân hàng (BID RATE).
Nhóm 2 Page 8
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
Tỷ giá đứng sau 15.500 là tỷ giá bán đô la thu bằng VND của ngân hàng, gọi

là tỷ giá bán ra của ngân hàng (ASK RATE). Tỷ giá ASK thường lớn hơn tỷ
giá BID. Chênh lệch giữa chúng gọi là SPREAD, còn được gọi là lợi nhuận
(chưa nộp thuế) của ngân hàng trong giao dịch mua bán ngoại hối.
Trong giao dịch ngoại hối, khách hàng thường có thể lấy tên thủ đô của
các nước công nghiệp phát triển thay cho tên tiền tệ của nước đó ở vị trí tiền
định giá. Ví dụ: thay vì đọc USD/DEM người ta đọc “tỷ giá USD/FrankFurt”,
USD/FRF là “tỷ giá USD – Paris”
Để đảm bảo tính nhanh gọn, các tỷ giá thường không được đọc đầy đủ mà
chỉ đọc những con số thường biến động, đó là những con số cuối. Ví dụ:
USD/DEM = 1,7015 chỉ được đọc các số lẻ sau dấu phẩy. Các số này chia làm
hai nhóm số. Hai số thập phân đầu tiên đọc là “Số” (Figure), hai số kế tiếp
đọc là “Điểm” (Point). Tỷ giá trên đọc là “Đô la, Đê mác bằng một, bảy mươi
số, mười lăm điểm”. Cách đọc điểm có thể dùng phân số “một phần tư” thay vì
đọc 25, “ba phần tư” thay vì đọc 75.
Phương pháp yết giá ngoại tệ: Có hai phương pháp yết giá ngoại tệ là yết
giá trực tiếp và yết giá gián tiếp.
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc tế, trên thế giới hiện nay chỉ có hai
đồng tiền quốc gia: USD, GBP và hai tiền tệ quốc tế: SDR, EURO (trước đây là
ECU) là dùng cách yết giá trực tiếp (Certain quotation), các tiền tệ còn lại
dùng cách yết giá gián tiếp (incertain quotation):
Ví dụ: USD/DEM, GBP/FRF, SDR/FRF, SDR/FRF
Có nghĩa là giá của USD, GBP hay của SDR, EURO được thể hiện trực tiếp ra
bên ngoài, còn các tiền tệ khác như DEM, FRF, VND mới thể hiện gián tiếp
ra bên ngoài. Ví dụ: USD/VND = 15.000
Tức là giá của một USD bằng 15.000 VND, còn giá của một VND chưa thể
hiện trực tiếp ra bên ngoài; muốn xác định ta làm phép chia như sau:
1 VND = 1/15000 ≈ 0,00007 USD
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc gia, thì nước Anh và nước Mỹ dùng
cách yết giá gián tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối, còn các quốc gia khác lại
dùng cách yết giá trực tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối.

/010!"#$%#
1.2.1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá là tổng thể các nguyên tắc công cụ biện pháp được nhà
nước điều chỉnh tỷ giá của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm
đạt mục tiêu đã định trong chiến lược phát triển của quốc gia đó.
Để quản lý và điều hành tỷ giá NHTW thường sử dụng các chính sách chủ
yếu sau:
- Chính sách chiết khấu: khi NHTW nâng cao lãi suất chiết khấu làm lãi
suất trên thị trường tăng, làm các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường quốc
Nhóm 2 Page 9
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
tế chạy vào nước mình để thu lợi tức cao làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt
cung ngoại hối do đó làm tỷ giá giảm xuống và ngược lại.
- Chính sách hối đoái: khi tỷ giá lên cao NHTW bán ngoại hối ra thị
trường kéo tỷ giá tụt xuống và ngược lại. Tuy nhiên NHTW phải có dự trữ
ngoại hối đủ lớn, nếu cán cân thanh toán thiếu hụt thường xuyên thì khó có
đủ ngoại hối thực hiện phương pháp này.
- Phá giá tiền tệ: là sự nâng cao một cách chính thức TGHĐ hay là việc
nhà nước hạ thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ làm đẩy
mạnh xuất khẩu hạn chế nhập khẩu cải thiện cán cân thương mại làm tỷ giá
bớt căng thẳng.
- Nâng giá tiền tệ: là việc Nhà nước chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ
nước mình so với ngoại tệ làm cho tỷ giá giảm xuống.
1.2.2. Các công cụ của Chính sách tỷ giá
1.2.2.1. Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố
định hay gây ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định
theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung
ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay
thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can

thiệp này của NHTW thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp
thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc
NHTW tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ
mua ngoại tệ trên thị trường của NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm
tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là công cụ có tác động mạnh lên
tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có
giá. Tuy nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực
tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối
hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội
tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như
biện pháp kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định
hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ,
quy định hạn chế thời gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế
đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
1.2.2.2. Nhóm công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ
giá hối đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay
đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng
Nhóm 2 Page 10
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất
làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang
đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ
thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị
trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong
nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi
suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và ngược lại muốn tăng tỷ giá

sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế
quan cao, quy định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất
khẩu chiến lược. Và ngược lại sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ vớiNHTW, quy định mức lãi suất
trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi
ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu
mất cân đối.
1.2.3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế
1.2.3.1. Đối với cán cân thanh toán
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc
gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của
chính quốc gia đó. Khi TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá
trong nước của hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng xuất khẩu
của nước đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các
nguồn lực sẽ được thu hút vào những ngành sản xuất mà giờ đây có thể cạnh
tranh hiệu quả hơn so với hàng nhâp khẩu và cũng vào ngành xuất khẩu mà
giờ đây có thể có hiệu quả hơn trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất
khẩu tăng nhập khẩu giảm làm cán cân thanh toán được cải thiện.
1.2.3.2. Với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng
nhập khẩu tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản xuất sử dụng đầu
vào nhập khẩu phải tiêu dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ
phá giá. Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là
nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu
chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các
năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể
kiểm soát sẽ kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác
động làm lãi xuất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống

kinh tế.
Nhóm 2 Page 11
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
1.2.3.3. Với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước
thì khi TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh
tranh cho các lĩnh vực này giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn
việc làm giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
1.2.3.4. Đối với đầu tư quốc tế
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất
được đưa vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ
giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản xuất và
hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có
ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong
việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc
tế cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ = Lãi suất ngoại tệ + Giảm
giá đồng nội tệ
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng
tổng lợi tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra
hiện tượng luồng vốn chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn
sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế
đòi hỏi các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định
hợp lý giảm mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
1.2.3.5. Với nợ nước ngoài
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ

nước đó hoặc những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng
nghĩa với sự tăng lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân
chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang
phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo
tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến TGHĐ
1.2.4.1. Sức mua của mỗi đồng tiền trong một cặp tiền tệ
Do tỷ giá được xác định dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại hối và
nguyên tắc một giá nên khi sức mua của đồng nội tệ tăng lên sẽ làm tỷ giá
giảm xuống và ngược lại
1.2.4.2. Cán cân thanh toán quốc tế
Đây là yếu tố cực kì quan trọng trong những yếu tố kinh tế tác động
đến tỷ giá. Đánh giá chung có tính chất truyền thống đối với sự biến động
Nhóm 2 Page 12
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
của TGHĐ, các nhà kinh tế đều cho rằng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và
dịch vụ quốc gia là những nhân tố cơ bản đứng sau lưng tăng giá TGHĐ.
Tình trạng của cán cân thanh toán tác động đến cung cầu về ngoại hối
do vậy, tác động trực tiếp đến TGHĐ.
1.2.4.3. Yếu tố tâm lý
Dựa vào sự phán đoán từ các sự kiện kinh tế, chính trị của một nước
và tình hình thế giới, cả chính trị và kin tế có liên quan các nhà kinh doanh
ngoại hối bao gồm các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp và kể cả
người đầu cơ tùy theo sự phán đoán đó mà hành động.
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng một cách hết sức nhạy cảm đối với thị trường
tài chính, trong đó có thị trường hối đoái. Tuy nhiên những biến động này
bao giờ cũng mang tính chất ngắn hạn, xác lập một vị thế ngắn hạn.
1.2.4.4. Vai trò quản lý của ngân hàng trung ương
Chế độ tỷ giá mà phần đông các nước vận hành là thả nổi có quản lý do
đó vai trò can thiệp của nhà nước giữ vị trí quan trọng. NHTW tự biến mình

thành một bộ phận của thị trường, quyện chặt với thị trường, lúc với tư cách
người mua lúc khác là tư cách người bán, nhằm tác động về phía cung hay
cầu của quỹ ngoại hối thị trường nhằm cho ra một tỷ giá phù hợp như ý đồ
của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều kiện vật chất để có thể can thiệp là
thực lực về tiềm năng quốc gia biểu hiện bằng quỹ ngoại tệ bình ổn giá, bao
gồm ngoại tệ dự trữ quốc gia.
1.2.4.5. Năng suất lao động
Nếu năng suất lao động trong nước có sự gia tăng sẽ làm cho mức giá
tương đối có xu hướng sụt giảm làm đồng ngoại tệ có xu hướng giảm hay
đồng nội tệ lên giá làm tỷ giá giảm xuống.
1.2.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tỷ giá
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia nhìn chung đều sử dụng chính sách thả
nổi có quản lý nhưng mức độ quản lý hay thả nổi là khác nhau ở các quốc gia
khác nhau.
1.2.5.1. Nhóm các nước có đồng tiền mạnh
Những nước này gần như tự do ngoại hối và thống nhất một tỷ giá duy
nhất cho tất cả các hoạt động có liên quan. Các nước này có khả năng dự trữ
ngoại tệ của NHTW dồi dào, có thị trường ngoại hối phát triển ở mức độ cao,
các công cụ gián tiếp mà NHTW sử dụng rất phong phú, đa dạng và có tính
chất hỗ trợ nhau. Điển hình ở nhóm này là Mỹ.
Thị trường tiền tệ, ngoại hối của Mỹ là thị trường phát triển và hoàn
chỉnh vào loại nhất thế giới, nghệ thuật điều chỉnh tỷ giá của họ cũng đạt
đến độ hoàn hảo và có ảnh hưởng toàn cầu. Chính sách đồng đô-la yếu, rơi
tự do chính là yếu tố kích thích xuất khẩu của Mỹ, thúc đẩy tăng trưởng tạo
ra nhiều nhu cầu việc làm, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp vốn vẫn lơ
Nhóm 2 Page 13
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
lửng như một mối đe doạ với siêu cường quốc kinh tế thế giới. Về dài hạn,
chính sách này ít nguy cơ gây tăng mạnh lạm phát và sẽ làm tăng lãi suất và
kích thích các nhà đầu tư nước ngoài tạo ra hàng tỷ đô-la cho Mỹ trang trải

các thâm hụt trong ngân sách và tài khoản vãng lai.
1.2.5.2. Nhóm các nước đang chuyển đổi về cơ cấu kinh tế (Ba Lan, Nga,
Séc…)
Các nước trong nhóm này đều gắn đồng tiền với một số ngoại tệ nhất
định (Ba Lan với 5 đồng tiền USD, DEN, GBP, FRF, CHF; CH Séc với 2 đồng tiền
DEM, USD) tỷ giá được công bố hàng ngày với mức dao động cho phép.
NHTW sẽ can thiệp khi tỷ giá ra ngoài biên độ dao động. Trong giai đoạn
chuyển sang nền kinh tế thị trường, dự trữ ngoại tệ thấp, thị trường hối đoái
và nội tệ chưa phát triển thì cơ chế trên tỏ ra là một điểm tựa tương đối
chắc chắn cho NHTW trong việc kiểm soát chính sách tỷ giá. Chúng ta sẽ xem
xét trường hợp của nước Nga.
Trước cuộc khủng hoảng T8/1998, chủ trương thực hiện liệu pháp
‘sốc’ để cải tổ nền kinh tế, Chính phủ Nga đã áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi
hoàn toàn cùng với khá nhiều chính sách tự do hoá trong giai đoạn 91-95.
Những đợt phá giá vô căn cứ đã góp phần tạo ra sự tụt dốc tới 3000 lần của
đồng Rúp so với USD, làm tăng lạm phát trong nước. Ước tính đến năm 1995,
tổng giá trị USD bằng tiền mặt lưu hành quy đổi giá trị so với đồng Rúp đã
vượt quá 3 lần, Nga là quốc gia tầm cỡ duy nhất trong lịch sử phụ thuộc quá
nhiều vào đồng tiền của một quốc gia khác. Ngày 6-7-1995, Chính phủ Nga
đưa ra hệ thống ‘hành lang hối đoái’ nhằm tạo tiền đề cho quá trình cố định
tỷ giá đồng tiền này.
Năm 1998, sau khi thay đổi mệnh giá đồng Rúp theo tỷ lệ mới
1/1000 tỷ giá đồng Rúp giảm xuống còn một con số, Chính Phủ Nga đã quyết
định thực hiện chính sách cố định tỷ giá ở mức 6.2 R/USD. Song với những
biến động quá lớn về giá cả một số mặt hàng chủ chốt trên thị trường quốc
tế đã gây nên khủng hoảng tiền tệ T8/1998, hệ thống Ngân hàng rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán, khoảng 1/3 ngân hàng bị phá sản, gần 160
tỷ USD nợ nước ngoài không có khả năng trả Ngày 9/9/1998, Nga đã buộc
phải từ bỏ mục tiêu biên độ tỷ giá và chuyển sang hệ thống tỷ giá hối đoái
thả nổi, do thị trường quyết định, NHTW chỉ có nhiệm vụ ngăn chặn sự dao

động quá nhiều của tỷ gía. T7/2004, NHTW Nga đã quyết định chuyển sang
hệ thống mới, tỷ gía được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân của đồng Rúp
so với USD và € .
Bài học rút ra ở đây là:
+ Cơ chế điều hành TGHĐ cần được đặt trong mối quan hệ với lãi
suất và lạm phát, phù hợp với từng thời kỳ nhất định, phối hợp song song với
chính sách kinh tế trên tất cả ngành lĩnh vực khác.
Nhóm 2 Page 14
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
+ Sự phá giá vô căn cứ đồng tiền quốc gia trong thời kỳ chuyển đổi
và chính sách thả nổi khiến đồng tiền nội tệ bị mất giá nghiêm trọng, lạm
phát gia tăng khó kiểm soát làm tháo chạy dòng vốn đầu tư nước ngoài,
giảm tốc độ tăng trưởng.
+ Cơ chế TGHĐ thả nổi nếu được đặt trong biên độ dao động nhất
định có thể thành công và thích hợp với công cuộc cải cách kinh tế- xã hội.
1.2.5.3. Nhóm các nước Châu Á và khu vực ASEAN
Các nước ASEAN đa số đều thả nổi TGHĐ, không quy định giới hạn
với các NHTM. Đa số các nước này có thị trường hối đoái phát triển, thị
trường chứng khoán có tốc độ tăng trưởng cao, mức dự trữ ngoại tệ lớn đủ
điều kiện để tiến tới tự do hoàn toàn, NHTW có đủ sức cũng như các công cụ
để can thiệp trong trường hợp cần thiết.
Trung Quốc là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh và hàng đầu
ở Châu Á, T4/1994 Chính Phủ nước này đã chính thức công bố thực hiện
chính sách TGHĐ “thả nổi có quản lý”: tỷ giá đồng NDT được dao động trong
một biên độ hẹp và NHTW có thể điều chỉnh tỷ giá mục tiêu trên cơ sở các
biện pháp kiểm soát chặt chẽ vốn vào ra của Chính phủ. Điều này không
những làm ổn định tiền tệ mà còn tạo được lòng tin của nhõn dõn thông qua
việc đưa đồng tiền đến gần giá trị thực của nó. T12/1996, NDT được chính
thức chuyển đổi trong các giao dịch trên tài khoản vãng lai sau khi đựơc ấn
định ở mức 8.27 NDT/USD( biên độ dao động 0.125% ). Chế độ tỷ giá mới

này đã biến Trung Quốc thành khu vực an toàn, thu hút đầu tư rất mạnh kể
cả trong thời kỳ khủng hoảng khu vực, thay thế Mỹ trở thành nước thu hút
FDI lớn nhất thế giới, dự trữ ngoại tệ chỉ xếp sau Nhật Bản. Vai trò của đồng
NDT ngày càng được củng cố và nâng cao trên khu vực và thế giới.
Ngày 31/7/2005, Trung Quốc tuyên bố TGHĐ đồng NDT căn cứ vào
“giỏ” ngoại tệ gồm USD, Euro, yên Nhật và đồng won Hàn Quốc. NHTW
Trung Quốc mới đây đã tăng giá NDT 2% nhằm làm dịu tình trạng mất cân
bằng trong mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc, mở rộng kích cầu trong
nước cũng như nâng cao mức cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường
quốc tế, nâng cao hiệu quả tận dụng vốn nước ngoài…Người phát ngôn
NHTW Trung Quốc cho biết: hiện nay khâu quản lý ngoại tệ của nước này đã
được nới lỏng dần dần, việc xây dựng thị trường ngoại tệ không ngừng tăng
cường, các cuộc cải cách tiền tệ đã thu được tiến triển thực chất, kiểm soát vĩ
mô thu được thành quả nổi bật, kinh tế quốc dân tiếp tục duy trì đà tăng
trưởng ồn định.Vì vậy Trung Quốc chọn thời điểm này để thực hiện cải cách
tỷ giá.
234
Khi có một thị trường hối đoái và nội tệ phát triển ở mức cao có đầy
đủ công cụ gián tiếp giúp NHTW linh hoạt trong can thiệp và trung hoà giữa
Nhóm 2 Page 15
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
các chỉ tiêu của chính sách tiền tệ.Bản thân nền kinh tế đó cũng phải phát
triển mạnh, có dự trữ đồng tiền có sức mạnh và có khả năng chuyển đổi, ổn
định tương đối, có xu hướng tăng giá.
Nhóm 2 Page 16
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
Ở VIỆT NAM
Đặc trưng chính sách tỷ của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào cơ chế xác
định và cơ chế can thiệp lên tỷ giá mà quốc gia đó áp dụng. Căn cứ vào cơ

chế xác định và cơ chế can thiệp lên tỷ giá, thì chính sách tỷ giá của Việt Nam
kể từ khi có đồng tiền Quốc gia (1955) cho đến nay có thể được chia thành
bốn giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất: 1955-1989
Đặc trưng của thời kỳ này là nhà nước độc quyền về ngoại thương và
ngoại hội, do đó tỷ giá cũng do Nhà nước độc quyền xác định, không tính đến
yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Đây là thời kỳ chế độ tỷ giá cố định,
đa tỷ giá với tính chất phi thị trường sâu sắc.
Giai đoạn thứ hai: 1989-1991
Đặc trưng của thời kỳ này là bãi bỏ chế độ đa tỷ giá, chuyển sang áp
dụng chế độ đơn tỷ giá (tỷ giá chính thức) và được điều chỉnh mạnh theo tín
hiệu thị trường. Chính vì vậy, nhiều người coi thời kỳ này là thời kỳ “thả nổi”
tỷ giá, Nhà nước không có khả năng kiểm soát.
Giai đoạn thứ ba: 1992- 2/1999
Đặc trưng của thời kỳ này là tỷ giá được chính thức ấn định trên các
cơ sở:
Đấu thầu tại trung tâm giao dịch ngoại tệ từ 10/1991 đến
31/12/1994. Do đó nội dung tỷ giá đã hàm chứa yếu tố cung cầu ngoại tệ
trên thị trường
Tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng từ
1/1995 đến 2/1999. Chính vì vậy nội dung tỷ giá đã hàm chứa nội dung cung
cầu ngoại tệ toàn diện và khách quan hơn trước.
Ngoài ra trong giai đoạn này đã nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính- tiền
tệ Đông Nam Á 1997-1998.
Giai đoạn thứ tư: Từ tháng 2/1999 đến nay
Đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là thay vì ấn định và công bố tỷ giá
chính thức, NHNN bây giờ chỉ “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên
ngân hàng. Đây là thời điểm chuyển từ chế độ tỷ giá cố định (tỷ giá chính
thức ) sang chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Trong bốn giai đoạn nêu trên, bài thảo luận này xin được điểm

qua những nét nổi bật trong 3 giai đoạn đầu và đi sâu vào giai đoạn
gần đây nhất với chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết từ 2/1999 đến
nay.
Nhóm 2 Page 17
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
2.1 %)%5-67/898:5; 5)$%#
2.1.1. Bối cảnh kinh tế
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và
hướng nội. Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN trong hội đồng tương trợ
kinh tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các
nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song
phương hay đa phương.
2.1.2. Chính sách tỷ giá (phương pháp xác định, chính sách quản
lý)
Tỷ giá trong giai đoạn này được xác định dựa trên việc so sánh sức
mua giữa hai đồng tiền, sau đó được qui định trong các hiệp định thanh
toán được ký kết giữa các nước XHCN.
Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955
là tỷ giá giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND. 1CNY=1470VND. (Tỷ giá này
được xác định bằng cách chọn ra 34 đơn vị hàng hóa cùng loại, thông dụng
nhất, tại cùng một thời điểm tại thủ đô và có tham khảo thêm giá cả ở một
số tỉnh khác để qui đổi ra tổng giá cả của 34 mặt hàng đó theo hai loại tiền
của 2 nước.)
Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa
VND và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR đã có
từ trước. 1 SUR = 0.5 CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND.
Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời
gian dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là

việc tồn tại song song nhiều loại tỷ giá: tỷ giá chính thức, phi mậu dịch, kết
toán nội bộ.
- Tỷ giá chính thức: (còn gọi là tỷ giá mậu dịch) là tỷ giá do ngân hàng
nhà nước công bố và dùng để thanh toán mậu dịch với Liên Xô và các nước
XHCN khác. Đây là tỷ giá dùng trong thanh toán có liên quan đến mua, bán
hàng hóa, dịch vụ vật chất giữa các nước trong phe XHCN.
- Tỷ giá phi mậu dịch: là tỷ giá dùng trong thanh toán chi trả hàng
hóa hoặc dịch vụ vật chất không mang tính thương mại . Như: chi về ngoại
giao, đào tạo, hội thảo, hội nghị…
- Tỷ giá kết toán nội bộ: được tính trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng
thêm hệ số phần trăm nhằm bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này
không công bố ra ngoài mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ. Nó thoát ly
tỷ giá mậu dịch nhằm bù đắp những khoản thua lỗ trong kinh doanh xuất
nhập khẩu của các doanh nghiệp nhà nước. Đây thực chất là một hình thức
bù lỗ có tính chất bao cấp thông qua tỷ giá.
Nhóm 2 Page 18
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt
Nam và khối SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ,
việc di chuyển, chuyển giao về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá
hối đoái giữa VND và các ngoại tệ khác chỉ mang tính hạch toán.
Quan hệ về cung cầu ngoại hối trên thị trường đã không được phản
ánh đúng đắn trong tỷ giá. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là việc tồn
tại một thị trường “chợ đen” với một tỷ giá khác xa tỷ giá chính thức.
<10/$%#!= >;6?@-%)%5-/89AB
/898
Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do
1985 15 115
1986 80 425
1987 368 1.270

1988 3.000 5.000
1989 3.900 4.750
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Do đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự
do chuyển đổi nên:
- Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi
trong khi nhập khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội
bị hàng ngoại chèn ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.
- Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị
sản xuất hàng xuất khẩt nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù
đắp chi phí sản xuất.
- Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng
của chính phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và
kiểm soát hàng nhập khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật
tư, hàng hóa, nguyên vật liệu cần thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm
lại, sản xuất trong nước trì trệ, đình đốn lại càng trở nên tồi tệ, sức ép lạm
phát tăng vọt.
1010?%CD/898B/88/E<F%.$%#
2.2.1. Bối cảnh kinh tế
Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, quan hệ ngoại thương được bao cấp với các
thị trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn
bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm
1989. Chính phủ cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài
chính – tiền tệ, trong đó vấn đề tỷ giá được coi là khâu đột phá, có vai trò cực
kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh
tế.
Nhóm 2 Page 19
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
2.2.2. Chính sách tỷ giá.

Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng
Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện
chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức
năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng
được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc
điều chỉnh giảm giá mạnh nội tệ (không khác gì thả nổi). (Bảng dưới)
Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ
yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách
tỷ giá linh hoạt hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường
tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá
được thu hẹp.
<101$%#!= >;6?@-%)%5-/898B
/881
Năm
Tỷ giá ngân hàng
(bình quân)
Tỷ giá thị trường tự do
(bình quân)
1989 3.900 4.750
1990 5.133 5.610
1991 9.274 9.546
1992 11.179 11.334
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Đồng Việt Nam liên tục bị mất giá so với Đô la Mỹ làm giá cả hàng
nhập khẩu tăng nhanh. Chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất tăng lên là
điều kiện thúc đẩy lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng trở lại: từ
34,7% năm 1989 lên 67,5% trong hai năm 1990 và 1991.
2.3. ?%CD/881B1G/888
2.3.1. Bối cảnh kinh tế

Thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp một cách đáng kể.
Về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế
vô cùng khó khăn. Bên cạnh hệ thống thanh toán đa biên đã bị tan rã, tất cả
các nước CNXH đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam
bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi (chủ yếu là USD). Việc chuyển đổi đồng tiền
thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng
ngoại tệ vì trước đó, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam đều bằng
đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một lượng nhỏ bằng ngoại tệ tự do chuyển
đổi.
Điều đó đã dẫn đến cán cân vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt
lớn, nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu. sự thiếu hụt trong cán cân thương mại
được bù đắp bằng các khoản viện trợ, cho vay của các nước CNXH mà chủ
yếu là Liên Xô.
Nhóm 2 Page 20
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á bùng nổ
buộc các nước này phải tiến hành phá giá mạnh đồng nội tệ và Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
2.3.2. Chính sách tỷ giá
- Thời kỳ 1992-1994: tỷ giá chính thức hình thành trên cơ sở đấu thầu tại
trung tâm giao dịch ngoại tệ.
Trong thời gian này, NHNN đề nghị với chính phủ thành lập Quỹ điều hòa
ngoại tệ tại NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn
định tỷ giá. Chính phủ ủy quyền cho Thống đốc được toàn quyền điều hành
quỹ một cách linh hoạt.
Có thể nói, việc thành lập quỹ ngoại tệ tại NHNN đã làm dịu những
biến động thất thường của tỷ giá trên thị trường. NHNN đã sử dụng quỹ
một cách rất linh hoạt và hiệu quả. Quỹ tạo cho NHNN một nguồn lực thực
sự để can thiệp nhằm ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền
kinh tế về ngoại tệ.

Tháng 9/1991 ngân hàng nhà nước đã thành lập một trung tâm
giao dịch ngoại tệ tại thành phố Hồ Chí Minh và tháng 11/1991, một trung
tâm giao dịch thứ hai ở Hà Nội cũng ra đời.
Đối tượng tham gia giao dịch trên các trung tâm này là các ngân
hàng được phép kinh doanh ngoại tệ, các tổ chức XNK kinh doanh trực tiếp
với nước ngoài và NHNN. Ngoài ra các ngân hàng được phép tập hợp các
yêu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng không trực tiếp mua bán tại
trung tâm.
Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc
ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào
tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ
giá mua vào không được vượt quá 0.5% so với tỷ giá ấn định tại phiên
giao dịch trước.
Việc thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ là bước ngoặt đầu
tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng
thị trường. Thông qua hoạt động của hai trung tâm, với vai trò là người tổ
chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị
trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín
hiệu thị trường.
<10H$%#!=%)%5-/881B/88I
Năm Tỷ giá chính thức
1992 10.718
1993 10.840
1994 11.003
Nhóm 2 Page 21
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
-Thời kỳ 1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân
hàng.

Thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (20/10/1994). Có qui mô
lớn hơn, hoạt động linh hoạt hơn nên tỷ giá hối đoái ngày càng phản ánh
đầy đủ hơn quan hệ cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng,
ngân hàng nhà nước nắm bắt dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đoái, công bố
tỷ giá chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương
mại.
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị
trường ngoại hối rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ
luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động
điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch giữa các
ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
<10I$%#!=%)%5-/88AB/888
Năm Tỷ giá chính thức
1995 11.021
1996 11.040
1997 11.175
1998 12.985
1999 14.016
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực,
tỷ giá tăng lên do điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam.
Việc tỷ giá của Việt Nam không tăng quá nhanh như của các nước
khác trong khu vực có tác động tích cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho
người dân, không gây ra một sức ép lớn lên nợ nước ngoài và hạn chế thiệt
hại cho nhập khẩu.
2.4. ?%CD/88853)J<F%K5%L%3
2.4.1. Giai đoạn 1999-2006
2.4.1.1. Bối cảnh kinh tế

Đây là thời kỳ mới bắt đầu chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Chế
độ tỷ giá đã linh hoạt nhưng vẫn có sự kiểm soát của nhà nước(hàng ngày
NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng của VND/USD trên các phương tiện thông tin đại chúng, thay cho việc
công bố tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân mua vào,bán ra trên các thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng).
Nhóm 2 Page 22
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
2.4.1.2. Chính sách tỷ giá
Là một hệ thống các công cụ dùng để tác động vào cung cầu ngoại tệ
trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá nhằm đạt được những mục tiêu
cần thiết,
Trong giai đoạn dự trữ ngoại tệ thấp, tâm lý sùng bái ngoại tệ thể
hiện ở nạn đô la hoá cao, sự ổn định của đồng nội tệ chưa có cơ sở vững chắc
thì việc thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái có tính chất hành chính và tương
đối ổn định là một phương thức hiệu quả. Tuy nhiên, việc quản lý tỷ giá hối
đoái một cách hành chính làm cho giá đối ngoại của đồng nội tệ không phản
ánh đúng thực lực của nền kinh tế luôn gắn với những tác động tiêu cực cố
hữu. Cụ thể là nếu đồng nội tệ bị đặt trên giá trị thì hiệu quả kinh tế của một
quốc gia trên thị trường quốc tế bị bóp méo, cán cân thương mại không có
điều kiện cân bằng, kỳ vọng phá giá và các tâm lý găm giữ, đầu cơ ngoại tệ
xuất hiện. Những vấn đề đó, đến lượt nó, chính là các nhân tố cản trở việc
quản lý lành mạnh và gây ra những bất ổn đối với môi trường kinh tế. Chính
vì thế, việc theo đuổi một cơ chế điều tiết tỷ giá phản ánh đúng giá trị của
đồng nội tệ luôn là mục tiêu của quản lý vĩ mô. Việt Nam cũng không nằm
ngoài quỹ đạo kinh tế đó. Sự ra đời của Quyết định số 64/1999/QĐ - NHNN7
ngày 25/2/1999 là sự khởi đầu cho cơ chế điều tiết tỷ giá trên cơ sở thị
trường.
Tính hành chính của tỷ giá chính thức trong giai đoạn này được thể

hiện rõ nét hơn thông qua phản ứng của thị trường đối với các đợt điều
chỉnh tăng biên độ và giảm tỷ giá chính thức của NHNN. Tất cả các đợt điều
chỉnh đều có chung một xu thế diễn biến là sự giảm đến mức tối đa cho phép
của tỷ giá VND. Điều đó có nghĩa là tỷ giá chính thức đã không phản ánh
đúng giá trị của đồng nội tệ trên thị trường, nên khi có cơ hội, tỷ giá đã liên
tục giảm đến mức tối đa được phép. Sự mở rộng biên độ giao động trong
thời gian qua thực sự là một cuộc kiểm nghiệm hiệu quả đối với tỷ giá chính
thức do NHNN công bố. Chỉ khi tỷ giá chính thức được điều chỉnh đúng bằng
tỷ giá thị trường liên ngân hàng, ở mức tỷ giá chính thkức cộng với biên độ
giao động tối đa cho phép vào ngày 7/8/1998, tỷ giá giao dịch thực tế mới
giao động tương đối ổn định trong khung cho phép (thấp hơn trần) so với tỷ
giá chính thức. Điều đó khẳng định rằng tỷ giá chính thức lúc này đã phần
nào phản ánh được tình hình thị trường ngoại tệ có tổ chức.
 J1MG1G/888: Nhà nước chấm dứt tỷ giá chính thức và giảm biên độ tỷ
giá xuống còn 0,1%. Và biên độ tỷ giá được nới rộng dần từ năm 1999 đến
nay.
N1MG1G/888BHOGMG1OO1 áp dụng biên độ giao động 0,1%.
- Trong năm 2002 tỷ giá bình quân VNĐ/USD trên thị trường liên ngân hàng
tăng 1,97%, so với năm 2001.
Nhóm 2 Page 23
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
- Năm 2003 tỷ giá tăng khoảng 1% so với năm 2002
Nguồn : Ngân hàng phát triển Châu Á-ADB)
%P5Q10/R67+%35S$%#%)%5-NT*/888B1OO1
Tuy nhiên, giai đoạn này (1999-2002), mặc dù tỷ giá tăng nhưng mức
độ giảm giá trị của Việt Nam đồng vẫn còn thấp hơn nhiều so với một số
nước trong khu vực nên tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu làm cho tăng dần mức thâm hụt trong cán cân thương
mại.
<10AS":U%>%)%5-/888B1OO1

Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002
Lãi suất (%) 7,2 6,24 6,84 7,8
Dự trữ ngoại tệ cả vàng (tỷ USD) 2,711 3,030 3,387 3,692
Cán cân TKVL (%GDP) 2,6 2,1 1,5 -1,9
Nguồn: NHNN, IMF, Tổng cục thống kê
Bên cạnh đó, sự ổn định của đồng Việt Nam so với đồng đô la Mỹ, kết
hợp với cơ chế lãi suất tự do ổn định, qua đó dự trữ ngoại hổi tiếp tục tăng
từ 2711 tỷ USD năm 1999 đến 3692 tỷ USD năm 2002 ( tăng 36,19%). Tình
hình cán cân tài khoản vãng lai được cải thiện từ thâm hụt 3,9% năm 1998
sang thặng dư 2,6% năm 1999 và năm 2000 đã tiếp tục cải thiện được cán
cân thanh toán quốc tế.
N1MG1G/888BHOGMG1OO1:: biên độ 0,25% được cố định, tỷ giá năm 2003
tăng 3% so với năm 2002 và ổn định với việc đồng Việt Nam được định giá
thấp đã cải thiện rõ rệt tình trạng thâm hụt cán cân thương mại từ -12,8%
GDP năm 2003 xuống còn -8,8% /GDP năm 2006, góp phần cải thiện cán cân
tài khoản vãng lai từ -4,9% GDP năm 2003 xuống còn -0,3% GDP năm 2006,
đã tiếp tục cải thiện được cán cân thanh toán quốc tế, qua đó dự trữ ngoại tệ
tiếp tục tăng. Đồng thời, sự ổn định của tỷ giá đã góp phần tăng thu hút đầu
Nhóm 2 Page 24
Đề tài: Thực trạng vận hành tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
tư nước ngoài, từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng, tốc độ tăng
trưởng GDP ổn định.
 J/GVG1OO1, Ngân hàng Việt Nam công bố nới rộng biên dộ lê 0,25% so
với giá giao dịch bình quân trên thị trường bình quân trên thị trường liên
ngân hàng. Đối với các ngoại tệ khác không phải là USD, các NHTM được
quyền chủ động tự định tỷ giá giữa VNĐ và ngoại tệ đó.
<10MS":U%>C%3W)'%()*N1OOH531OOM
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006
Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 7,3 7,8 8,4 8,2
Lạm phát (%) 4,3 7,8 8,4 6,6

FDI ( tỷ USD) 3,15 4,22 6,43 10,2
Cán cân thương mại (%GDP) -12,8 -12,1 -8,1 -8,8
Cán cân TK vãng lai (%GDP) -4,9 -3,4 -0,9 -0,3
Dự trữ ngoại tệ (tỷ USD) 5,6 6,3 8,5 11,5
Nguồn:Tổng cục Thống kê
Sau khủng hoảng tài chính 1998, một số nước châu Á đã học được
một bài học đau đớn về quản lý dự trữ ngoại hối. Từ kinh nghiệm đó, các
nước đã gia tăng nhanh chóng mức dự trữ ngoại hối của mình và Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu thế đó.
<10VX-%:%'%()*%)%5-/888B1OOI
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Dự trữ quốc tế chính
thức và vàng
2,711 3,030 3,387 3,692 5,620 6,357
Tỷ lệ tăng hàng năm
%
53,6 11,7 11,8 9 50,6 13,1
Dự trữ ngoại hối tính
trên tuần nhập khẩu
8,1 8,9 8,3 7,5 10,4 9,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong vòng 6 năm ( từ 1999 đến 2004) dự trữ ngoại hối đã tăng gấp
3,42 lần, mức tăng hằng năm bình quân là 11,3%. Đặc biệt, năm 1999 và
2003, dự trữ ngoại hối đã có mức tăng đột biến, lên tới hơn 50%. Nếu chỉ xét
trên chỉ tiêu này, ta thấy mức tăng lên của dự trữ ngoại hối là tương đối tốt.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, kim ngạch nhập khẩu của nước ta cũng
liên tục tăng lên. Điều đó dẫn đến mức tăng lên của dự trữ ngoại hối vẫn
không đảm bảo được tiêu chuẩn về khả năng thanh toán trong thương mại
quốc tế.
Mặc dù dự trữ ngoại hối của nước ta vẫn còn mỏng, điều mà chúng ta

đạt được trong giai đoạn này là đã đưa ra những quy định riêng biệt về quản
lý dự trữ ngoại hối trong vai trò là một tấm đệm bảo vệ khi nền kinh tế đối
mặt với những tình trạng bất ổn.
Nhóm 2 Page 25

×