Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của vamc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 31 trang )

Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC


Phân tích động cơ các bên
tham gia giải quyết nợ xấu theo
cơ chế mua bán nợ của VAMC
GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
Nhóm 2- Cao Học Ngân Hàng Đêm 2







MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

1
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC

MỤC LỤC



DANH SÁCH NHÓM 2- CAO HỌC NH ĐÊM 2 2
1.Thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam 3
2. Tổng quan về VAMC 8
2.1. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trên thế giới: 8
2.2 Khung pháp lý và cơ chế giám sát: 12
2.3 Cơ chế hoạt động của VAMC : 16


3. Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của
VAMC 19
3.1 Về phía VAMC 19
3.2 Về phía các Ngân hàng: 20
3.3 Về phía các doanh nghiệp 23
4. Kết luận và giải pháp: 26
4.1 Giải pháp về phía VAMC: 26
4.2 Giải pháp về phía các Ngân hàng: 27
4.3 Giải pháp về phía các doanh nghiệp : 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30



MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

2
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
DANH SÁCH NHÓM 2- CAO HỌC NH ĐÊM 2

1.Võ Tuấn Vũ
2.Võ Duy Minh
3.Lý Thế Lam
4.Ngô Thị Thu Hương
5.Nguyễn Hoàng Hà Ngân
6.Đàm Thị Phương Thảo
7.Chu Thị Kim Hương






MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

3
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
1.Thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Tín dụng ngân hàng từ những năm 1990 trở lại đây, luôn đóng vai trò là mạch
máu chính của nền kinh tế cả nước. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chịu
tác động tiêu cực và kinh tế vĩ mô có nhiều yếu tố không thuận lợi, các tài sản dài hạn
(Bất động sản, chứng khoán) bị giảm giá mạnh, nợ xấu của các ngân hàng được
thường xuyên nhắc đến như là “cục máu đông” của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, nợ xấu của hệ thống
các tổ chức tín dụng có chiều hướng gia tăng nhanh. Trong thực tế, các ngân hàng và
tổ chức tín dụng Việt Nam có xu hướng tận dụng những khe hở của qui định nhằm nới
lỏng phạm vi hoạt động, đạt tăng trưởng tín dụng cao, huy động và cho vay vốn cao
hơn nhiều lần vốn pháp định, tham gia các hoạt động đầu tư rủi ro để thu lợi nhuận
cao.
Theo số liệu của Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước, từ năm 2008
đến nay, nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Trung
bình giai đoạn 2008 -2011, dư nợ xấu bình quân khá cao, khoảng 51%. Đặc biệt, từ
năm 2011, tổng cầu của nền kinh tế giảm mạnh, tiêu thụ hàng hoá gặp nhiều khó khăn,
hàng tồn kho lớn, thị trường bất động sản đóng băng, năng lực tài chính của doanh
nghiệp giảm sút…Điều này đã làm cho tốc độ tăng dư nợ tín dụng năm 2011 chậm lại
đáng kể. Trong 7 tháng đầu năm 2012, dư nợ tín dụng của Việt Nam chỉ tăng 1,02%
nhưng nợ xấu lại tăng tới 45,5%. Và đến tháng 12/2012 thì con số này là 8.8%. Tuy
nhiên nhiều nguồn số liệu độc lập khác cho thấy con số này thực tế cao hơn rất nhiều
lần (20% nếu theo Barclays).


MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

4
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
Hình1.1-Tỷ lệ nợ xấu trong tổng tín dụng đối với nền kinh tế do NHNN đưa ra

()
Trong nửa đầu năm có một số NH có tỷ lệ nợ xấu giảm. Cụ thể, có 5 ngân hàng
thương mại tỷ lệ nợ xấu tính đến 30/6/2013 đã giảm so với 31/12/2012. Gồm: BIDV
giảm từ 2,77% xuống 2,57%; VPBank từ 2,72% còn 2,62%; TienPhong Bank từ
3,47% xuống 2,77%; OCB từ 2,8% xuống 2,5% và Southern Bank từ hơn 3% xuống
còn 2,77%. Ngoài 5 trường hợp giảm nói trên, còn lại là những mức độ tăng đáng kể.
Điểm chung, tốc độ tăng trưởng nợ xấu đều cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng
tín dụng. Cụ thể tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2012 và đến 30/6/2013: Vietcombank
từ 2,26% lên 2,81%; VietinBank từ 1,46% lên 2,1%; Eximbank từ 1,32% lên 1,49%;
Sacombank từ 1,89% lên 2,5%; MB từ 1,86% lên 2,45%; ACB từ 2,5% lên gần 3%;
SHB từ 8,51%lên 9,04%; Techcombank từ 2,69% lên 5,28%; Navibank từ 5,6% lên
6,1%.
2.17%
2.20%
2.14%
3.30%
8.80%
6%
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%

4.00%
5.00%
6.00%
7.00%
8.00%
9.00%
10.00%
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Thng
12/2012
Thng
2/2013

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

5
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
Hình 1.2 - Tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2012 và đến 30/6/2013

(Nguồn: NHNN)
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN, ngày 22/4/2005, nợ xấu là những khoản nợ thuộc nhóm 3 (dưới
chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ), và nhóm 5 (có khả năng mất vốn), được xác định theo 2
yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày, và (ii) khả năng trả nợ đáng lo ngại. Quy định này
tương đồng với định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên Hợp quốc.
Theo báo cáo tài chính bán niên năm 2013 của 10 ngân hàng đã công bố báo
cáo tài chính hợp nhất, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) của các ngân hàng này đã
tăng đến 33% trong sáu tháng đầu năm. Tổng nợ có khả năng mất vốn của 10 ngân
hàng này tính đến cuối tháng 6-2013 là 15.315 tỉ đồng, tăng 33% so với mức 11.525 tỉ

đồng cuối năm 2012. Mười ngân hàng này là Á Châu (ACB), Nam Việt (NVB),
Phương Nam (PNB), BIDV, Eximbank (EIB), Sacombank (STB), Vietcombank
(VCB), Sài Gòn - Hà Nội (SHB), Quân đội (MBB), Techcombank (TCB).Có tốc độ
tăng cao nhất trong số các ngân hàng này là Sacombank với mức tăng đến 67%, từ
897 tỉ đồng lên mức 1.500 tỉ đồng. ACB với mức tăng nợ có khả năng mất vốn là 55%.
SHB là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cuối tháng 6 cao nhất trong số các ngân hàng là 9%,
riêng nợ có khả năng mất vốn của ngân hàng này trong sáu tháng đầu năm tăng 54%,
từ 2.067 tỉ đồng lên 3.186 tỉ đồng, cao nhất về số tuyệt đối trong số 10 ngân hàng.
0.00%
1.00%
2.00%
3.00%
4.00%
5.00%
6.00%
7.00%
8.00%
9.00%
10.00%
31/12/2012
30/06/2013

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

6
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
Nam Việt, SHB, và Techcombank có nợ xấu (nhóm 3, 4, 5 tức nợ quá hạn từ 91 ngày
trở lên) cao hơn 3%. Phương Nam (PNB) có nợ nhóm 5 giảm đến 19%, từ mức 797 tỉ
đồng xuống còn 649 tỉ đồng vào cuối tháng 6, và Ngân hàng Eximbank có nợ có khả

năng mất vốn giảm nhẹ 1% xuống còn 782,5 tỉ đồng.
Hình 1.3-Nợ có khà năng mất vốn của 10 ngân hàng ( Triệu đồng)


Về lợi nhuận trước thuế, chỉ riêng BIDV và Phương Nam có lợi nhuận trước
thuế nửa đầu năm nay tăng so với cùng kỳ năm ngoái, còn tám ngân hàng kia đều sụt
giảm lợi nhuận, mức sụt giảm mạnh nhất là Nam Việt với 91% và kế đến là Eximbank
với mức giảm lợi nhuận là 60%.


MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

7
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
Hình 1.4 - Lợi nhuận nửa đầu năm 2013 so với cùng kỳ năm trước


Mặc dù các tổ chức tín dụng của Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cấp tín
dụng khá cao, có chiều hướng gia tăng cảnh báo về chất lượng tín dụng và an toàn
hoạt động tín dụng hiện nay, nhưng nếu so với nhiều nước trong khu vực cũng đã từng
đối mặt với vấn đề nợ xấu trong cuộc khủng hoảng tài chính giai đoạn 1998-2000,
buộc chính phủ phải xử lý thì tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cấp tín dụng của Việt Nam vẫn
thấp hơn: Thái Lan là 47%, Hàn Quốc là 17%, Indonesia là hơn 20%. Theo thống lệ
quốc tế, ngưỡng an toàn của tỷ lệ nợ xấu là dưới 3%, một mức khó đạt trong điều kiện
nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay.
Vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng không phải do riêng bản thân ngành
ngân hàng gây ra nên để xử lý dứt điểm nợ xấu cần phải có những giải pháp tổng thể.
Trong thực tế, nợ xấu là sự tồn tại tất yếu trong hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Với mong muốn xử lý nợ xấu, thúc đẩy tín dụng nền kinh tế phát triển, ngày

18/05/2013, Chính phủ ban hành nghị định 53/2013/NĐ-CP về việc thành lập Công ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) để giải quyết, tái cơ cấu
nợ xấu của tổ chức tín dụng. Câu hỏi đặt ra là VAMC có khả năng giải quyết nợ xấu
cho nền kinh tế không?



MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

8
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
2. Tổng quan về VAMC
2.1. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trên thế giới:
Các công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng quốc gia đã trở thành một
phần của các chiến lược giải quyết vấn đề nợ xấu của hệ thống ngân hàng trên thế giới.
Các mô hình xử lý nợ xấu sử dụng công ty quản lý tài sản quốc gia thường chỉ chọn
một trong 2 nhiệm vụ hoặc tập trung thanh lý tài sản hoặc tập trung tái cơ cấu nợ để
đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu. Và các công ty này chỉ tồn tại trong khoản thời gian
nhất định, vừa tạo áp lực khẩn trương để hoàn thành nhiệm vụ, vừa dẹp bỏ tâm lý ỷ lại
tiếp tục dựa dẫm các AMC của các tổ chức tín dụng sau khi giải quyết nợ xấu.
Một số mô hình AMC điển hình trên thế giới:
*Korean Asset Management Corporation - KAMCO (Hàn Quốc)
Tính đến năm 1998, nợ xấu của toàn bộ hệ thống tài chính Hàn Quốc lên tới
118 ngàn tỉ won, bằng 18% tổng dư nợ (tương đương khoảng 27% GDP của Hàn
Quốc năm 1998), trong đó có 42% là nợ quá hạn từ 3 – 6 tháng, và 58% là nợ quá hạn
trên 6 tháng.
Để giải quyết lượng nợ xấu khổng lồ, Chính phủ Hàn Quốc đã cải tiến lại chức
năng và nhiệm vụ của KAMCO, vốn là một Cty quản lý tài sản nợ thuộc NH phát
triển Hàn Quốc - KDB.

 Nhiệm vụ: giải quyết nợ xấu của hệ thống tín dụng nhằm giúp nền kinh tế lấy
lại đà tăng trưởng. KAMCO có nhiệm vụ điều hành một quỹ quản lý nợ xấu (NPA)
có thời hạn hoạt động năm năm để giải quyết nợ xấu của toàn bộ hệ thống.
 Phương pháp xử lý: KAMCO phân các tài sản mà nó mua thành 2 loại: tài sản
thông thường và tài sản đặc biệt. Tài sản thông thường là những khoản nợ xấu mà khả
năng được thanh toán là không chắc chắn. Tài sản đặc biệt là những khoản nợ xấu cho
các công ty đang trong quá trình tái tổ chức doanh nghiệp, do đó các khoản nợ được
cơ cấu lại với lãi suất thấp hơn và kéo dài thời gian trả nợ. Các loại tài sản này lại tiếp
tục đươc phân thành các khoản vay có đảm bảo và không có đảm bảo. Sau khi mua lại,
KAMCO sẽ nhóm các khoản nợ xấu này lại và bán cho các nhà đầu tư thông qua đấu
giá quốc tế hoặc KAMCO sẽ phát hành các chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản dựa
trên các khoản nợ xấu đã mua. KAMCO cũng có thể tịch thu thế chấp của các tài sản

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

9
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
có đảm bảo. Đôi khi, KAMCO nắm giữ các khoản nợ xấu và cố gắng tái cơ cấu nợ, tái
tài trợ hay chuyển đổi nợ - vốn chủ nếu KAMCO cho rằng công ty đó có khả năng hồi
phục.
 Kết quả: Bằng việc mua lại và xử lý các khoản nợ xấu, KAMCO đã thành công
trong việc xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tài sản của các ngân hàng. Tỉ lệ an toàn
vốn theo BIS đã tăng đáng kể từ 7% năm 1997 lên 10,8% vào tháng 3 năm 2002, đồng
thời tỉ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của các ngân hàng giảm từ 16,9% vào năm 1998 xuống
còn 2,8% vào năm 2001.
 Giải pháp hỗ trợ: Để khuyến khích khả năng bán các khoản nợ xấu, Chính phủ
Hàn Quốc đã ban hành những luật thuế đặc biệt - một số đã tỏ ra rất có hiệu quả trong
một khoảng thời gian nhất định như:
(1) Giảm thuế trên thặng dư vốn: Thặng dư vốn thu đươc từ việc chuyển đổi các tài

sản sở hữu bởi các tổ chức tài chính như KAMCO đều được giảm 50% thuế.
(2) Tính vào chi phí: Khi tổ chức tín dụng có số nợ xấu nhiều hơn mức dự phòng mất
vốn, tổ chức tín dụng được phép bù phần nhiều hơn đó với dự phòng định giá lại tài
sản. Phần bù đó được tính vào chi phí khi tính thu nhập chịu thuế của tổ chức tín dụng.
(3) Miễn giảm thuế giao dịch chứng khoán: Khi KAMCO hay tổ chức tài chính nào
mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán để tổ chức lại tổ chức
này và chuyển đổi lượng cổ phiếu đó cho bên thứ ba sẽ được miễn giảm thuế.
* Danaharta - Malaysia:
Khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 đã làm đồng Ringgit mất đến 50% giá trị,
niềm tin tiêu dùng suy giảm trầm trọng. Nếu như các khoản nợ xấu tại thời kỳ ngay
trước khủng hoảng dao động từ 2-3% thì khi bong bóng vỡ ra, tỷ lệ nợ xấu tăng lên
hai con số, đỉnh điểm vào tháng 8/1998 khi nợ xấu lên đến 11,4%.
Đối mặt với khủng hoảng kinh tế, tháng 6/1998, Chính phủ Malaysia đã thành lập ra
Danaharta để xử lý nợ xấu, lành mạnh hệ thống tài chính và khôi phục lại đà tăng
trưởng
 Nhiệm vụ: Với tỷ lệ nợ xấu lên 11,4% vào tháng 8/1998, nhiệm vụ của
Danaharta là đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 10%. Tuy nhiên AMC này đặt ra mục tiêu chỉ
mua những khoản nợ xấu trên 5 triệu Ringit, tức là gần 70% tổng nợ xấu trong hệ
thống tài chính. Điều này tương đương với khoảng từ 2.000 đến 3.000 khoản nợ xấu,
một con số khả thi với năng lực xử lý của Danaharta trong thời gian 5 năm.

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

10
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
 Phương pháp xử lý: Danaharta mua lại nợ xấu theo giá trị thị trường và trả
bằng 2 cách: tiền mặt hoặc phát hành trái phiếu với lãi suất coupon bằng 0%. Điều này
gúp Danaharta tổi thiểu hóa chi phí đi mua và khiến cho danh mục tài sản của nó trở
nên đáng tin cậy hơn trong mắt các nhà đầu tư. Cũng nhờ mua nợ theo giá thị trường,

Danaharta nắm rõ đặc điểm của từng món nợ và doanh nghiệp mắc nợ, từ đó có nhiều
cách để thực hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp và thu lợi nhuận lớn sau khi xử lý xong
các khoản nợ xấu này.
 Kết quả: Danaharta đã mua 23.1 tỷ Ringgit Malaysia (RM), tương đương 31.8%
nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đưa nợ xấu của Malaysia về khoảng 12.4% vào giữa
năm 2009. Việc mua bán nợ được thực hiện trong vòng 6 tháng, nhanh hơn cả mục
tiêu đề ra.
 Giải pháp hỗ trợ: Một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng giúp cho Danaharta
thành công đó là bởi nó được sự hậu thuẫn đặc biệt từ chính quyền Malaysia. Vào
tháng 8/1998, Luật Danaharta ra đời đem lại bộ khung pháp lý rất đặc biệt cho tổ chức
này. Đạo luật này cho phép Danaharta những đặc quyền mà không một tổ chức tài
chính nào có thể có được trong lịch sử ngành tài chính quốc gia, đó là: mua lại tài sản
của các tổ chức tài chính; bổ nhiệm lãnh đạo ở các tổ chức đang nợ và có quyền tịch
biên những tài sản thế chấp.
* Thai Asset Management Corporation – TAMC (Thái Lan):
Năm 2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai Asset
Management Corporation (TAMC)
 Nhiệm vụ: xử lý triệt để vấn đề nợ xấu cho tất cả các TCTD.
 Phương pháp xử lý: Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời – lỗ
giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh lời thì ngân hàng bán nợ sẽ
được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ xấu tạo lỗ thì ngân hàng đó sẽ phải chịu
20% khoản lỗ ấy. Hầu hết nợ xấu của các ngân hàng chuyển sang TAMC quản lý xuất
phát từ các doanh nghiệp bất động sản và sản xuất. Đối với các khoản vay có thế chấp
không còn khả năng trả nợ, TAMC thực hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý
để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời-lỗ. Đối với các khoản vay mà
TAMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, TAMC đã chủ động phối hợp với các cơ quan
đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản
xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ.
 Kết quả: tính đến tháng 6/2003, số nợ xấu được TAMC giải quyết là 784,4 tỷ
Baht, đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Thái Lan


MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

11
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
giảm rõ rệt xuống 12,9% năm 2003, 10% năm 2004 và tiếp tục giảm dần ở mức ổn
định qua các quý từ năm 2005 đến nay.

Để các AMC thành công thì kinh nghiệm quốc tế cho thấy,
Quy trình xử lý nợ xấu của các AMC gồm 2 khâu chính quan trọng là khâu thu mua
các khoản nợ xấu và khâu xử lý các khoản nợ xấu đã được mua lại. Dù rằng mục đích
của các AMC thường được cho là làm trong sạch bảng cân đối của các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính thông qua nghiệp vụ mua lại nợ xấu, nhưng trong
thực tế nó còn phải tìm cách phục hồi giá trị của các tài sản thanh lý và nợ xấu đã mua
ở mức cao nhất có thể.
Thứ nhất, để làm được điều này thì một trong những yếu tố quan trọng là phải đưa
nền kinh tế ra khỏi tình trạng ảm đạm và suy thoái. Nếu không làm được điều đó thì
nợ xấu của các ngân hàng sẽ không thực sự mất đi mà nó chỉ chuyển lòng vòng trong
nền kinh tế.
Thứ hai, nhà nước cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể điều tiết
toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một môi trường hoạt
động minh bạch, bình đẳng, thông suốt. Chứ không chỉ hỗ trợ nguồn vốn ban đầu rồi
để các AMC tự xử lý nợ xấu.
Thứ ba, cơ chế định giá các khoản nợ xấu một cách công khai và minh bạch giảm bất
cân xứng thông tin giữa AMC và các ngân hàng, bởi vì các ngân hàng luôn có nhiều
thông tin hơn AMC về những khoản nợ xấu để không thất thoát vốn nhà nước mà
không đạt được hiệu quả. Và các quyết định mua bán nợ cần phải được độc lập về
chính trị để đảm bảo các AMC có thể đạt mục tiêu xử lý nợ.
Thứ tư, các AMC phù hợp về qui mô, phải có đầy đủ các nguồn lực về vốn, nhân sự,

năng lực đánh giá được rủi ro và xếp loại các tài sản, nợ xấu mà các ngân hàng mang
đến bán cho mình. Đồng thời phải ngăn ngừa được rủi ro đạo đức, tâm lý ỷ lại của các
ngân hàng khi bán nợ xấu cho AMC. Không để phát sinh nhiều nợ xấu mới trong nền
kinh tế trong khi nợ xấu cũ vẫn chưa xử lý xong.




MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

12
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
2.2 Khung pháp lý và cơ chế giám sát:
VAMC là doanh nghiệp đặc thù do Nhà nước sở hữu 100% vốn, chịu sự quản lý
nhà nước, thanh tra, giám sát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước.
*Nghị định 53/2013/NĐ-CP, ngày 18/05/13: Chính phủ ban hành về việc thành lập
VAMC, có hiệu lực từ ngày 09/07/13, trong đó nêu rõ:
 Thẩm quyền của NHNN đối với việc thành lập, tổ chức của VAMC: Thành
lập Công ty; Phê duyệt Điều lệ và nội dung sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty; Cấp
đủ vốn điều lệ; Bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch và các thành viên Hội đồng Thành
viên, Trưởng ban kiểm soát và các thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và các
Phó Tổng giám đốc của công ty;
 Phạm vi hoạt động của VAMC: Mua nợ, thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ,
tài sản bảo đảm; Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành
vốn góp, vốn cổ phần của khách hàng vay; Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra,
giám sát tài sản bảo đảm có liên quan đến khoản nợ xấu; Tư vấn, môi giới mua, bán
nợ và tài sản;…
 Điều kiện đối với các khoản nợ xấu được VAMC mua: có đủ 5 điều kiện:
khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng; khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm; khoản nợ xấu,

tài sản bảo đảm phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ; khách hàng vay còn tồn tại;
số dư của khoản nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách hàng vay không thấp hơn mức quy
định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cụ thể về điều kiện
các khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua.
 Về phương thức mua nợ xấu: mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị
ghi sổ hoặc mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị thị trường.
 Các quyền của VAMC trong hoạt động xử lý nợ xấu.
 Về biện pháp xử lý nợ xấu và cơ cấu lại nợ xấu.
 Về xử lý tài sản bảo đảm của VAMC.
 Về việc phát hành trái phiếu đặc biệt.
 Về tổ chức thực hiện: Ngân hàng Nhà nước, các Bộ ngành có liên quan cần
phải ban hành các quy định và văn bản hướng dẫn của cụ thể để Công ty Quản lý tài
sản có thể đi vào hoạt động và thực hiện tốt nhiệm vụ.

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

13
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
*Thông tư số 19/TT-NHNN và thông tư số 20/TT-NHNN, ngày 06/09/2013 và
ngày 09/09/2013: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lần lượt ban hành là những cơ sở
pháp lý, hướng dẫn cụ thể việc mua bán, xử lý nợ xấu kể từ khi bắt đầu ký kết hợp
đồng mua bán nợ cho đến khi thanh toán chấm dứt hợp đồng mua bán nợ. Cả 2 thông
tư này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/09/2013.
 Thông tư số 19/TT-NHNN qui định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC):
 Mua nợ thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt. Công ty sẽ lên phương án phát
hành hành trái phiếu đặc biệt và trình NHNN xem xét phê duyệt. Giá trị trái
phiếu đặc biệt tương ứng với một khoản nợ xấu được mua bán. Trong trường
hợp khoản nợ xấu được mua bán là khoản cấp tín dụng hợp vốn, thì VAMC

phát hành TPĐB cho từng TCTD tham gia cấp tín dụng hợp vốn tương ứng với
giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu sau khi khấu trừ số tiền dự phòng.
Cụ thể, số tiền này đã trích lập, chưa sử dụng cho khoản nợ xấu đó và đang
được theo dõi tại TCTD tham gia cấp tín dụng hợp vốn.
TCTD bán nợ phải trích lập dự phòng rủi ro đối với TPĐB vào chi phí hoạt
động. Hệ số rủi ro của TPĐB là 20% khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của
TCTD. Hàng năm TCTD phải trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) cho TPĐB
không thấp hơn 20%. Như vậy đảm bảo sau 5 năm khoản nợ xấu sẽ được trích
lập đầy đủ. Số tiền trích lập DPRR bằng mệnh giá/thời hạn của TPĐB.
 Các khoản nợ xấu trong hoạt động cấp tín dụng gồm cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bao thanh toán và các khoản nợ xấu theo quy định của NHNN;
khoản mua trái phiếu DN chưa niêm yết trên thị trường chứng khoản hoặc chưa
đăng ký giao dịch; khoản nợ xấu có tài sản đảm bảo
Trong trường hợp đặc biệt, nếu khoản nợ xấu của TCTD không đáp ứng đủ các
điều kiện để VAMC mua, NHNN sẽ xem xét trình Thủ tướng quyết định việc
VAMC mua lại các khoản nợ trên nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của các
TCTD và xử lý nhanh nợ xấu. Riêng đối với các TCTD có tỷ lệ nợ xấu từ 3%
so với tổng dư nợ trở lên là đối tượng bắt buộc phải bán nợ cho VAMC. Nếu
TCTD nào không bán nợ, NHNN sẽ áp dụng các biện pháp quy định tại khoản
5 Điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP. Trên cơ sở kết quả thanh tra, định giá,

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

14
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
kiểm toán độc lập, NHNN yêu cầu các TCTD phải bán nợ cho VAMC. Thậm
chí có thể áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định pháp luật để đảm bảo nợ
xấu ở mức an toàn.
 Cơ chế bán nợ: VAMC bán nợ xấu đã mua theo hình thức đấu giá hoặc chào

giá cạnh tranh với sự tham gia của ít nhất 3 bên mua không có liên quan với
nhau. Trường hợp không thể đấu giá, chào giá cạnh tranh thì VAMC bán khoản
nợ xấu trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp với bên mua nợ.
 Chuyển nợ thành vốn: VAMC có thể bán nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc
biệt hoặc chuyển nợ xấu đã mua bằng trái phiếu thành vốn điều lệ, vốn cổ phần
tại các doanh nghiệp mua nợ. Tuy nhiên, tổng mức đầu tư, cung cấp tài chính
và bảo lãnh đối với một khách hàng không vượt quá 50% vốn điều lệ
củaVAMC (không quá 250 tỉ đồng).
 Thông tư số 20/2013/TT-NHNN qui định về cho vay tái cấp vốn trên cơ sở
trái phiếu đặc biệt của VAMC:
 Việc tái cấp vốn chỉ dành cho các TCTD trong nước, không dành cho tổ chức
100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh. Để được tái cấp vốn, TCTD phải có trái
phiếu đặc biệt do VAMC phát hành chưa được thanh toán và phải trích lập dự
phòng rủi ro đối với TPĐB.
 Mức tái cấp vốn đối với TCTD trên cơ sở mệnh giá trái phiếu đặc biệt do
Thống đốc NHNN quyết định căn cứ vào mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ,
kết quả trích lập dự phòng rủi ro đối với trái phiếu đặc biệt và kết quả xử lý nợ
xấu nhưng không vượt quá 70% so với mệnh giá TPĐB.
 Lãi suất tái cấp vốn đối với TCTD do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong
từng thời kỳ; Lãi suất tái cấp vốn quá hạn bằng 150% lãi suất tái cấp vốn ghi
trên hợp đồng tín dụng giữa NHNN và TCTD.
 Thời hạn tái cấp vốn dưới 12 tháng nhưng không vượt quá thời hạn còn lại của
trái phiếu đặc biệt. NHNN xem xét, quyết định gia hạn tái cấp vốn đối với
TCTD, thời gian gia hạn mỗi lần không vượt quá thời hạn tái cấp vốn lần đầu
của khoản tái cấp vốn đó.
 Ngoài ra, Thông tư cũng quy định cụ thể về trình tự xem xét tái cấp vốn hoặc
gia hạn tái cấp vốn; Trả nợ vay tái cấp vốn; Xử lý đối với việc TCTD không trả

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2


15
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
nợ đúng hạn; Trách nhiệm của TCTD, VAMC và trách nhiệm của các đơn vị
thuộc NHNN.

* Quyết định số 2134/QĐ-NHNN, ngày 24/9: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ký ban hành công bố năm thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động mua, bán và xử
lý nợ xấu của VAMC, bao gồm: thông báo việc ban hành/sửa đổi, bổ sung/thay thế
các chính sách quản lý, quy định nội bộ về mua, bán, xử lý nợ xấu của VAMC; chấp
thuận phương án phát hành trái phiếu đặc biệt của VAMC; chấp thuận phương án mua
nợ theo giá trị thị trường của VAMC; chấp thuận phương án hỗ trợ tài chính cho
khách hàng vay của VAMC; chấp thuận phương án góp vốn điều lệ, vốn cổ phần của
khách hàng vay là doanh nghiệp của VAMC.


MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

16
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
2.3 Cơ chế hoạt động của VAMC :
* Cơ cấu nhân sự của VAMC : Cơ cấu tổ chức của VAMC tương đối đơn giản, và
do NHNN quyết định. Về cơ cấu tổ chức VAMC có trụ sở chính ở Hà Nội và văn
phòng đại diện, chi nhánh ở một số tỉnh, thành phố. Bộ máy quản trị gồm có : Hội
đồng thành viên (tối đa 7 người), Ban kiểm soát (tối đa 3 người), Tổng giám đốc và
một số Phó tổng giám đốc do NHNN bổ nhiệm, miễn nhiệm. Các Phó tổng giám đốc
của VAMC được điều chuyển từ NHNN và các ngân hàng BIDV, Agribank,
LienVietPostBank, SHB.
Hội đồng thành viên của VAMC gồm 3 nhân vật đến từ NHNN và Agribank,

bao gồm Chủ tịch Đặng Thanh Bình, Phó Chủ tịch Nguyễn Quốc Hùng và Thành viên
Nguyễn Hữu Thủy. Trong đó, ông Nguyễn Hữu Thủy sẽ kiêm nhiệm thêm chức vụ
Tổng Giám đốc VAMC.
Cơ cấu nhân sự của VAMC như sau :
Họ tên
Chức vụ hiện nay
Chức vụ tại VAMC
Ông Đặng Thanh Bình
Phó Thống đốc NHNN
Chủ tịch HĐTV
Ông Nguyễn Quốc
Hùng
Phó Tổng Giám đốc Agribank
Phó Chủ tịch thường
trực HĐTV
Ông Nguyễn Hữu Thủy
Phó Vụ trưởng Vụ Thanh tra-
NHNN
Thành Viên HĐTV
kiêm Tổng Giám Đốc
Ông Lê Quang Châu
Giám Đốc Ban Quản lý tín dụng
BIDV
Phó Tổng Giám đốc
Ông Đoàn Văn Thắng
Phó Tổng Giám đốc
LienVietPostBank
Phó Tổng Giám đốc
Ông Bùi Tín Nghị
Phó Tổng Giám đốc SHB

Phó Tổng Giám đốc
Bà Lê Thị Mai Hương
Trưởng phòng Xây dựng
chương trình và thẩm định
BCKT-NHNN
Trưởng Ban Kiểm soát




MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

17
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
* Nguyên tắc hoạt động của VAMC ( điều 5):
 Lấy thu bù chi và không vì mục tiêu lợi nhuận.
 Công khai, minh bạch trong hoạt động mua, xử lý nợ xấu.
 Hạn chế rủi ro và chi phí trong xử lý nợ xấu.
Hình 2- Sơ đồ cơ chế hoạt động của VAMC :

Về cơ chế hoạt động, VAMC là công ty trực thuộc Chính phủ nhưng
NHNN sẽ chịu trách nhiệm giám sát và quản lý. Nguồn vốn ban đầu của
VAMC do Nhà nước cấp khoảng 500 tỷ đồng nhỏ hơn nhiều so với quy mô nợ
xấu (xấp xỉ 260,000~400,000 tỷ đồng). Bên cạnh đó, VAMC sẽ phát hành trái
phiếu có bảo lãnh của Chính phủ để thực hiện giao dịch mua-bán nợ xấu với
các TCTD.
* Phương thức mua nợ của VAMC ( điều 7):
 Mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc
biệt do công ty quản lý tài sản phát hành.

 Mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá thị trường bằng nguồn vốn
không phải trái phiếu đặc biệt.

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

18
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
* Các biện pháp xử lý nợ xấu ( điều 16):
Theo Điều 16 nghị định, VAMC thực hiện việc hoán chuyển nợ xấu, có thể mua và
bán nhanh các khoản nợ xấu, vừa thực hiện việc tái cơ cấu các khoản nợ xấu.
- VAMC mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng và giúp làm sạch bảng cân
đối kế toán của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng có thể đem trái phiếu
đến chiết khấu với ngân hàng nhà nước để cải thiện thanh khoản của
mình.
 Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm.
 Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn
góp, vốn cổ phần của khách hàng vay.
 Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm
đã được Công ty Quản lý tài sản thu nợ.
 Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có
liên quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến
khoản nợ xấu và bảo đảm tiền vay.
 Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản.
 Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần.
 Tổ chức bán đấu giá tài sản.
 Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của tổ chức tín
dụng.
 Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Công ty Quản lý
tài sản sau khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.

 Công ty Quản lý tài sản được ủy quyền cho tổ chức tín dụng bán nợ thực
hiện các hoạt động được quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 1 điều
này 12 nghị định 53/2013/NĐ-CP .
Một vấn đề đáng lưu ý ở đây là không có qui định về thời gian hoạt động của VAMC.
Đồng thời, nguyên tắc thu mua nợ không dựa trên tối đa hoá lợi ích cho các ngân hàng
mà chỉ tập trung vào lấy thu bù chi và hạn chế rủi ro.


MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

19
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
3. Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán
nợ của VAMC
3.1 Về phía VAMC
Nguyên tắc hoạt động của VAMC không vì mục tiêu lợi nhuận, khi các
món nợ xấu được VAMC xử lý thành công thì VAMC sẽ được hưởng một tỷ lệ nhất
định (tỷ lệ này hiện vẫn chưa được ban hành, nhưng theo dự thảo là 2%) trên số nợ
đòi được, phần còn lại sẽ được ngân hàng hưởng toàn bộ. Khi thành lập VAMC, kỳ
vọng của ngân hàng nhà nước là VAMC sẽ xử lý được khoảng từ 80 -100 nghìn tỷ nợ
xấu trong 5 năm và tỷ lệ dự kiến thu hồi được từ 20%-40%, nếu tỷ lệ VAMC được
nhận là 2% thì số phí VAMC nhận được hàng năm khoảng từ 60-160 tỷ
1
, số tiền này
chỉ duy trì hoạt động bình thường của VAMC. Trường hợp khi trái phiếu đặc biệt đến
hạn mà VAMC vẫn không xử lý được khoản nợ xấu này thì VAMC sẽ trả lại cho ngân
hàng và ngân hàng phải thanh toán lại cho Ngân hàng nhà nước số tiền đã được tái cấp
vốn thông qua trái phiếu đặc biệt.
Là một công ty quản lý tài sản, các khoản nợ xấu được chuyển sang VAMC

không phải nằm yên đó, mà VAMC sẽ tìm cách để thu hồi được các khoản nợ bằng
cách bán các tài sản mà người vay đã không có khả năng trả nợ, đối với doanh nghiệp
có khả năng hoạt động sinh lời thì VAMC tái cơ cấu chúng: khoanh nợ, giãn nợ,
chuyển nợ thành vốn… để thực hiện điều này VAMC cần phải đánh giá hiệu quả
những món nợ nào còn có khả năng tái cơ cấu, những món nào buộc phải bán thanh lý.
Nhưng chúng ta không thấy được động cơ khuyến khích của việc phải xử lý nợ
xấu một cách quyết liệt của VAMC, bởi hoạt động của VAMC không phải là đơn vị
kinh doanh mà như một đơn vị sự nghiệp, khi VAMC hoạt động tốt thì nó sẽ nhận
được một khoản tiền trả công, khoản này chỉ dùng để duy trì hoạt động của VAMC,
và cũng như vậy khi VAMC hoạt động không hiệu quả, các khoản nợ xấu vẫn không
có dấu hiệu biến chuyển thì đấy cũng không phải là vấn đề phải lo lắng, bởi rủi ro sẽ
được chuyển lại cho các ngân hàng những người bán nợ cho nó sau một thời gian khi
mà trái phiếu đặc biệt hết hạn.


1


MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

20
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
VAMC hoạt động không xác định thời hạn, khiến VAMC không có
động cơ xử lý nhanh nợ xấu và chúng ta cũng không có bất kỳ công cụ đo lường
nào để đánh giá hiệu quả hoạt động của VAMC Việc không có chế tài có thể dẫn đến
tình trạng VAMC không đánh giá các món nợ một cách chính xác để xem cần áp dụng
biện pháp nào, hoặc tái cấu trúc các doanh nghiệp theo hướng tồi tệ hơn mà không hề
cân nhắc đến hiệu quả, bởi họ chẳng có lý do gì phải lo ngại đến hiệu quả của hoạt
động tái cơ cấu này: doanh nghiệp hoạt động hiệu quả ngân hàng sẽ thu hồi được nợ,

doanh nghiệp không hiệu quả sau một thời gian VAMC cũng sẽ trả lại ngân hàng.
Như phân tích trên, chúng ta thấy thiết kế thành lập VAMC đã không hành
động vì mục tiêu tối đa hóa lợi ích của các ngân hàng, với nguồn lực hiện tại cùng với
động cơ không rõ ràng, khả năng lớn nhất là VAMC chỉ lưu giữ các khoản nợ xấu của
ngân hàng một thời gian bằng cách phát hành trái phiếu đặc biệt, hết thời gian trái
phiếu thì VAMC trả lại khoản nợ đó cho ngân hàng, nền kinh tế vẫn không có những
hay đổi căn bản trong xử lý nợ xấu.
NHNN yêu cầu việc kinh doanh nợ xấu của VAMC chỉ được hòa hoặc
lãi,điều này làm cho mặc dù nợ xấu đã trở thành hàng hóa, nếu muốn xử lý nhanh thì
cần phải phát triển thành thị trường hàng hóa nhưng VAMC không thể triển khai.
3.2 Về phía các Ngân hàng:
*Ngân hàng thương mại:
Việc bán các khoản nợ xấu cho VAMC có những thuận lợi cũng như những tồn
tại như sau:
, các ngân hàng giảm được áp lực trích lập dự phòng do không phải trích
lập dự phòng tất cả số tiền ngay mà việc trích lập dự phòng sẽ được rải đều tối đa 5
năm.
Hai là, khi nhận được trái phiếu đặc biệt của VAMC, ngân hàng có thể được tái
cấp vốn từ ngân hàng nhà nước để bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của mình. Do
vậy, các ngân hàng sẽ tận dụng được nguồn vốn góp phần đưa vào kinh doanh hiệu
quả hơn.

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

21
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
Ba là, bảng cân đối tài sản của ngân hàng sẽ đẹp hơn, các chỉ tiêu về an toàn
vốn được đáp ứng và được phép mở rộng tín dụng theo quy định.
Đối với các ngân hàng đã thực hiện trích lập đầy đủ dự phòng đối với các

khoản nợ, việc bán nợ cho VAMC sẽ làm tăng thêm số trích lập dự phòng, bởi lúc này
giá trị tài sản của tài sản đảm bảo sẽ không được tính đến khi phải trích lập lại dự
phòng. Thanh khoản của các ngân hàng đến tháng 7/2013 vẫn bình thường qua việc
lãi suất liên ngân hàng năm 2013 dao động ở mức từ 3% -6%/năm(theo báo cáo thị
trường trái phiếu của VCBS tháng 6-7/2013), cho thấy nhu cầu thanh khoản của các
ngân hàng không bức thiết và họ ít có động cơ khuyến khích bán nợ xấu cho VAMC.
Ngoài ra vẫn còn một số điểm ngân hàng phải cân nhắc khi bán nợ cho VAMC:
Thứ nhất, ngân hàng và khách hàng giao dịch với nhau dựa trên nền tảng sự tin
tưởng và khả năng quản trị rủi ro của chính ngân hàng, do đó những ngân hàng phải
bán nợ cho VAMC sẽ giảm uy tín đáng kể trong mắt khách hàng. Vì vậy các ngân
hàng đều không muốn mình thuộc danh sách yếu kém buộc phải bán nợ cho VAMC.
Thứ hai, những nợ xấu mà VAMC mua đều là những khoản nợ có tài sản bảo
đảm, khi bán nợ ngân hàng sẽ không còn quyền xử lý các khoản nợ này nữa, trong khi
đó có nên đặt cược hết niềm tin vào VAMC không? Liệu cơ quan này có tích cực xử
lý các khoản nợ này hay không, nếu không xử lý triệt để, tích cực thì sau đó bản thân
ngân hàng vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng về các khoản nợ này và buộc phải
hoàn trả lại số tiền đã được ngân hàng nhà nước tái cấp vốn. Như vậy, những món nợ
mà VAMC trả lại do không xử lý được thì khả năng thu hồi gần như bằng không. Chi
phí cơ hội của việc xử lý nợ trong trường hợp này là rất lớn.
Thứ ba, VAMC chuyển giao cho ngân hàng chủ yếu là trái phiếu đặc biệt, đây
là một loại hình trái phiếu chưa có tiền lệ ở Việt Nam cũng như không được sự bảo
lãnh từ Chính phủ, dù nó nhận được sự bảo lãnh ngầm từ phía NHNN, điều này sẽ tạo
nên rủi ro cho ngân hàng bán nợ trong trường hợp NHNN từ chối tái cấp vốn từ đó sẽ
đưa các ngân hàng vào thế bị động; hơn nữa các ngân hàng chưa biết được cụ thể tỷ lệ
tái cấp vốn đối với từng khoản nợ là bao nhiêu (Mức tái cấp vốn đối với TCTD trên

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

22

Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
cơ sở mệnh giá trái phiếu đặc biệt do Thống đốc NHNN quyết định căn cứ vào mục
tiêu điều hành chính sách tiền tệ, kết quả trích lập dự phòng rủi ro đối với trái phiếu
đặc biệt và kết quả xử lý nợ xấu nhưng không vượt quá 70% so với mệnh giá trái
phiếu đặc biệt), đây là yếu tố cực kỳ quan trọng để ngân hàng cân nhắc bài toán giữa
lợi ích và chi phí, nếu tỷ lệ tái cấp vốn trên trái phiếu đặc biệt phù hợp thì đương nhiên
các ngân hàng thương mại sẽ chấp nhận bán nợ và chuyển giao công tác cơ cấu các
khoản nợ này cho VAMC.
Thứ tư, VAMC chỉ xử lý những khoản nợ có tài sản đảm bảo, thế nhưng phần
lớn nợ xấu của ngân hàng là các khoản vay không có bảo đảm của các doanh nghiệp
nhà nước. Hiện tại, các ngân hàng thương mại đang gặp bế tắc trong việc xử lý các
khoản nợ này.
Như vậy, về cơ bản các ngân hàng tuy đã bán nợ cho VAMC nhưng vẫn phải
trích lập dự phòng hàng năm 20% trên mệnh giá trái phiếu đặc biệt, và có khả năng rất
cao sẽ nhận lại khoản nợ xấu đã bán sau 5 năm. Do vậy, các ngân hàng sẽ không mặn
mà với VAMC mà lại phát sinh động cơ giấu nợ xấu bằng cách giãn nợ, đảo nợ… để
tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng đạt dưới 3% và không phải bán nợ xấu cho VAMC. Khi
buộc phải bán nợ thì khoản vốn nhận được từ tái chiết khấu ngân hàng sẽ cho vay
những món nợ có rủi ro cao nhằm đạt lãi suất cao thay vì thận trọng để bù vào những
khoản bị buộc phải trích lập. Đây là sự lựa chọn ngược dễ dẫn đến vòng xoáy nợ xấu
lặp lại và làm cho vấn đề nợ xấu ngày càng trầm trọng hơn.
*Ngân hàng nhà nước
NHNN như là một người trọng tài điều khiển cuộc chơi khi đặt ra những qui
định và giám sát việc thực hiện các qui định liên quan đến xử lý nợ xấu, mục đích
nhằm khơi thông tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng, nhưng hiện nhiều qui định chưa được
cập nhật đầy đủ như là chưa có thông tin về điều kiện tái cấp vốn khi sử dụng trái
phiếu đặc biệt, hoặc tỷ lệ tái cấp vốn, quản lý vốn được tái cấp như thế nào…nếu
những quy định này không chặt chẽ, minh bạch có thể dẫn đến cơ chế xin cho, ưu ái
trong xử lý nợ cho các doanh nghiệp, tập đoàn Nhà nước,…gây biến dạng thị trường
cũng như tiềm ẩn đâu đó lợi ích nhóm. Ngoài ra, nếu Ngân hàng nhà nước không xem


MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

23
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
xét thấu đáo cũng như quản lý không chặt chẽ trong việc tái cấp vốn sẽ dẫn đến dư
thừa tiền trong nền kinh tế gây ra lạm phát, hoặc vốn được tái cấp không sử dụng
đúng mục đích sẽ dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn trong tương lai. Trong khi nợ cũ chưa được
giải quyết một cách triệt để và chắc chắn lại phát sinh thêm nợ mới thì hiệu quả chưa
đạt được mà hậu quả trong tương lai có thể trầm trọng hơn.
Từ việc phân tích động cơ của 3 bên liên quan đến quá trình xử lý nợ xấu là
VAMC, ngân hàng và các doanh nghiệp vay nợ, chúng ta chưa thấy được động cơ nảo
rõ ràng trong việc thúc đẩy xử lý nợ xấu, bởi doanh nghiệp không được hưởng lợi gì
mà việc xử lý nợ xấu nếu không đúng hướng có thể dẫn đến không thu hồi được, do
vậy họ xem đây là trách nhiệm của ngân hàng. VAMC gần như là đơn vị sự nghiệp,
hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả đều chưa đánh giá được rõ ràng, trong khi các
ngân hàng thương mại thì lại có động cơ che giấu và không muốn bán nợ cho VAMC.
Như vậy, bước đầu tiên của việc VAMC có thể xử lý được nợ xấu chúng ta cần
phải tạo động cơ khuyến khích cho các bên tham gia xử lý nợ xấu, loại bỏ được tâm lý
ỷ lại nhằm tăng tốc độ giải quyết những món nợ xấu, giải cứu cả ngân hàng lẫn doanh
nghiệp.
3.3 Về phía các doanh nghiệp
Theo quy định mua nợ của VAMC chúng ta thấy rằng, VAMC chỉ xử lý 1/3 số
nợ xấu, 1/3 nợ xấu còn lại là NHTM tự xử lý, và 1/3 cuối cùng là do Bộ Tài Chính tự
xử lý(Nợ xây dựng cơ bản,nợ của DNNN)
Theo thẩm quyền của mình VAMC chỉ mua các khoản nợ lớn hơn 1 tỷ đối với
khách hàng cá nhân và hơn 3 tỷ với khách hàng doanh nghiệp, và các khoản nợ này
phải có tài sản đảm bào, 65% trong số đó là bất động sản. Như vậy với điều kiện này
VAMC thu hẹp phạm vi của mình đến các doanh nghiệp lĩnh vực bất động sản nhiều

hơn
Đối với những doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản
nếu các khoản nợ ngân hàng được chuyển giao cho VAMC, với quyền hạn được quy
định của mình VAMC có thể tái cơ cấu lại khoản nợ theo hướng điều chỉnh kỳ hạn trả

MÔN: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
NHÓM 2- CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 2

24
Phân tích động cơ các bên tham gia giải quyết nợ xấu theo cơ chế mua bán nợ của VAMC
nợ, áp dụng lãi suất trong khả năng trả nợ của doanh nghiệp, giảm hoặc miễn toàn bộ
các khoản lãi quá hạn, hoặc trở thành cổ đông góp vốn với vốn góp là những khoản nợ
của doanh nghiệp… đây có lẽ là những điểm lợi của doanh nghiệp.
Tuy nhiên điểm khó khăn nhất trong xữ lý nợ xấu là làm thế nào xử lý được nợ ,
vừa đưa được những doanh nghiệp có khả năng phục hồi trở lại. Có hai cách mà
VAMC tác động vào tình hình của doanh nghiệp là đầu tư tài chính vào các doanh
nghiệp bằng hình thức: Một là, biến nợ thành vốn góp và trả lại toàn bộ thế chấp, khi
đó doanh nghiệp có thể vay vốn trở lại vì có tài sản đảm bào, và vừa có cổ đông “ngon”
VAMC; Hai là,VAMC có thể cho doanh nghiệp vay vốn lưu động hoặc đầu tư vào các
dự án, hay có thể đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp vay ngân hang.
Dù vậy, rất khó hy vọng vào điều này diễn ra tại Việt Nam, tiền lệ cho thấy
không có nhiều hy vọng vào việc các đơn vị nhà nước tham gia sẽ cải thiện tình hình
quản trị và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dù là khỏe mạnh, huống chi những
doanh nghiệp buộc phải bán nợ đều gặp nhiều khó khăn.
Tuy vậy, trong điều kiện kinh tế vĩ mô ảm đạm, cả nền kinh tế đình đốn sản
kinh doanh, sức mua của nền kinh tế giảm sút, nhu cầu vay thêm của doanh nghiệp rất
thấp, thể hiện qua lãi suất cho vay hiện rất thấp nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn không
khả quan, điều đó thể hiện doanh nghiệp cần giải cứu đầu ra chứ không phải việc tiếp
cận thêm tín dụng. Đối với các doanh nghiệp đang trong giai đoạn phải xử lý nợ xấu
thì khả năng tiếp cận tín dụng rất thấp, mặc dù VAMC có quyền bảo lãnh các doanh

nghiệp vay nợ, nhưng liệu sẽ có ngân hàng nào cho các doanh nghiệp này vay nợ khi
họ đã không thanh toán được các khoản nợ cũ, còn nếu ngân hàng cho vay, doanh
nghiệp không trả được nợ thì VAMC sẽ lấy tiền ở đâu để thanh toán các khoản bảo
lãnh, hay lại phát hành trái phiếu đặc biệt cho chính mình? Điều này có thể dẫn đến
tình trạng nợ xấu cũ chưa được xử lý thì đã phát sinh thêm nợ xấu mới. Ngay cả
trường hợp lạc quan, doanh nghiệp tiếp cận được tín dụng thì đầu ra của sản phẩm vẫn
không thể giải quyết nếu tăng trưởng kinh tế vẫn thấp, bởi lúc này việc thoát khỏi khó

×