Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phân tích thống kê TSCĐ và đầu tư dài hạn của công ty cổ phần thiết bị điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.47 KB, 24 trang )

1
CHƯƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THỐNG KÊ TSCĐ VÀ
ĐẦU TƯ DÀI HẠN TRONG DOANH NGHIỆP
1. Lý thuyết về TSCĐ và quản lý TSCĐ ở doanh nghiệp
1.1 Khái niệm và đặc điểm của TSCĐ
Để có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh doanh bất cứ doanh nghiệp nào
cũng cần có đầy đủ ba yếu tố về lao động là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và
sức lao động. Khác với các đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản xuất dở dang,
bán thành phẩm…) thì các tư liệu lao động (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
phương tiện vận tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động biến đổi nó theo mục đích của mình. Đó là các tư liệu
lao động chủ yếu được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh
doanh như: máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến
trúc, các khoản đầu tư mua sắm TSCĐ hữu hình… TSCĐ của doanh nghiệp là những
tài sản có giá trị lớn, thông thường một tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải đồng
thời thảo mãn hai tiêu chuẩn cơ bản:
- Một là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ 1 năm trở lên
- Hai là, phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức cố định, tiêu chuẩn này được quy định
riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá của từng
thời kỳ.
Ở nước ta hiện nay theo quy định 206/2009/QĐ - BTC của Bộ tài chính quy định.
* Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ hữu hình.
Mọi tư liệu lao động là tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống
gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ kết hợp với nhau để cùng thực hiện một hay một số
chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống
không hoạt động được, nên nếu thoả mãn đồng thời 4 tiêu chuẩn sau thì được coi là tài
sản cố định:
- Chắc chắn thu được lợi ích trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó
- Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
- Có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên
- Nguyên giá tài sản được xác định một cách tin cậy


Trong trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với
nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một
bộ phận nào đó hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do
2
yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài
sản thì những bộ phận đó được coi là TSCĐ hữu hình độc lập.
* Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ vô hình:
Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời 4 điều
kiện trên mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Nếu
khoản chi phí này không đồng thời thoả mãn cả 4 tiêu chuẩn trên thì được hạch toán trực
tiếp hoặc được phân bổ vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ những nội dung trên có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ như sau:
Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất còn giá trị của nó thì được chuyển dịch dần từng
phần vào giá trị của sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Đặc điểm chung của TSCĐ là khi sử dụng bị hao mòn dần và giá trị hao mòn
dần được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm hàng hoá và được bù đắp khi doanh nghiệp
tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá. Trong quá trình sử dụng TSCĐ không thay đổi về
hình thái vật chất bên ngoài và đặc tính sử dụng ban đầu của nó. TSCĐ biểu hiện trình
độ và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện cơ sở vật chất kỹ
thuật của doanh nghiệp và có vai trò quyết định đến việc tăng năng suất lao động và hạ
giá thành sản phẩm. Thêm vào đó, thông qua việc trích khấu hao TSCĐ đã góp phần vào
việc hình thành khả năng tự tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Do vậy với doanh nghiệp
thực hiện sản xuất vật chất, TSCĐ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, đối với sự ra
đời và tồn tại của doanh nghiệp.
1.2. Phân loại TSCĐ
Do TSCĐ có những đặc điểm khác nhau nên cần phải phân loại TSCĐ thành
những loại nhất định, phục vụ cho nhu cầu quả lý và sử dụng TSCĐ trong các doanh
nghiệp. Hiện nay TSCĐ thường được phân loại theo một số tiêu thức sau:
* Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện.

Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
- TSCĐ hữu hình
Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng hình thái vật chất cụ thể có
giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
mà vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà xưởng, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, vật kiến trúc…
- TSCĐ vô hình
3
Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã
được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như
chi phí thành lập doanh nghiệp , chi phí sử dụng đất…
Ý nghĩa: Cách phân loại này cho ta thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình
và vô hình từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hoặc cơ cấu dầu tư cho phù hợp và
hiệu quả nhất.
* Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
- TSCĐ đang dùng: Là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, hoặc các hoạt động phúcc lợi, sự nghiệp hay an ninh quốc phòng
của doanh nghiệp.
- TSCĐ chưa dùng: Là những tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh
hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, song hiện tại chưa cần dùng còn dự trữ để sử
dụng sau này.
- TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: Là những TSCĐ đã hết thời hạn sử dụng
hay những TSCĐ không cần thiết, không phù hợp với nhiệm vụ sản xuát kinh doanh của
doanh nghiệp cần thanh lý, nghượng bán để thu hồi vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
Ý nghĩa: Cách phân loại này giúp các nhà quản lý biết được tình hình tổng quát về
số lượng, chất lượng TSCĐ hiện có, VCĐ tiềm tàng, hoặc ứ đọng, từ đó tạo đIũu kiện
cho phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần khai thác và tìm cách thu hồi.
* Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng.
- TSCĐ định thco mục đích sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ hữu hình và vô
hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp.

- TSCĐ phục vụ cho sự nghiệp phúc lợi, an ninh quốc phòng
- TSCĐ bảo quản giữ hộ, cất hộ: Là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ
doanh nghiệp khác hoặc nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước có thêm quyền.
Ý nghĩa: Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp they được cơ cấu TSCĐ của
mình theo mục đích sử dụng của nó, từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử
dụng sao cho có hiệu quả.
* Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu
- TSCĐ tự có: Là các TSCĐ mua sẵm và hình thành từ nguốn vốn ngân sách nhà
nước cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguốn vốn liên doanh, các quỹ của doanh
nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu…
- TSCĐ thuê ngoài: Là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo
4
hợp đồng đã ký. Tuỳ theo điều khoản của hợp đồng mà TSCĐ đi thuê được chia thành
TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động.
ý nghĩa: Phân loại TSCĐ theo phương pháp này giúp cho việc quản lý và tổ chức
hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, và sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao nhất.
* Phân loại TSCĐ theo đặc trưng kỹ thuật
TSCĐ hữu hình được chia thành các loại sau: Nhà cửa vật kiến trúc, máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị dụng cụ quản lý…
TSCĐ vô hình được chia thành các loại sau: Quyền sử dụng đất, chi phí thành lập
và chuẩn bị sản xuất, bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về
lưọi thế thương mại và các TSCĐ vô hình khác.
Ý nghĩa: Cách phân loại này cho they công dụng cụ thể của tổng loại TSCĐ trong
doanh nghiệp, tạo đIều kiện thuận lợi cho việc sử dụng TSCĐ và trích khấu hao TSCĐ
một cách chính xác.
1.3. Vai trò của TSCĐ trong doanh nghiệp
* Đối với nền kinh tế
TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói
riêng. Đó là một yếu tố không thể thiếu được đối với sự tồn tại của bất cứ một quốc gia
nào, một doanh nghiệp nào. Vì nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là những tư liệu

lao động chủ yếu được ví như “hệ thống xương cốt bắp thịt của quá trình SXKD”.
TSCĐ là khí quan để con người thông qua đó tác động vào đối tượng lao động biến nó,
bắt nó phục vụ cho con người.
* Đối với con người
Con người được hưởng thành quả cuối cùng của một hệ thống TSCĐ tiên tiến. Nhờ
có TSCĐ hiện đại mà quá trình sản xuất sẽ rút ngắn, lao động của con người thuận lợi
hơn, đỡ nặng nhọc hơn và có năng suất lao động cao hơn, kết quả sản xuất lớn hơn, do
đó mà điều kiện làm việc và đời sống được nâng cao.
* Đối với doanh nghiệp
Trình độ trang thiết bị TSCĐ quyết định năng lực sản xuất lao động, chi phí giá
thành, chất lượng sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thương trường. Nếu doanh nghiệp nào trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, áp dụng quy
trình công nghệ tiên tiến sẽ giảm được mức tiêu hao nguyên vật liệu và cho ra những sản
phẩm chất lượng tốt và có sức hút cao đối với khách hàng.
* Đối với xã hội
Trình độ công nghệ sản xuất ở mức độ nào thì nói lên trình độ phát triển của lực
5
lượng sản xuất ở mức độ tương ứng và là căn cứ phân biệt thời đại này với thời đại
khác. Phương thức sản xuất cổ truyền khác phương thức sản xuất hiện đại ở chỗ sản
xuất như thế nào và sản xuất bằng cái gì. Chính lực lưọng sản xuất đã thúc đẩy quan hệ
sản xuất phát triển và làm thay đổi phương thức sản xuất.
Từ những phân tích trên ta càng thấy rõ được vai trò quan trọng của TSCĐ trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà TSCĐ phải luôn được duy trì, kéo dài
tuổi thọ và đầu tư đổi mới công nghệ.
1.4. Kết cấu TSCĐ
Với mỗi cách phân loại trên có ý nghĩa khác nhau nhưng ở chúng có ý nghĩa
chung quan trọng đó là cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp
theo các tiêu thức khác nhau giúp cho nhà quản lý tính toán chính xác số tiền trích lập
quỹ khấu hao. Do vậy kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào
đó chiếm trong tổng nguyên giá toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất

định.
Trong các ngành kinh tế khác nhau hay trong cùng một ngành kinh tế thì kết cấu
của TSCĐ đều không giống nhau. Sự khác nhau về kết cấu trong trong ngành và trong
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là do đặc điểm riêng biệt về hoạt động sản xuất kinh
doanh của chúng quyết định.
1.5. Đánh giá TSCĐ
Đánh giá TSCĐ là biểu hiện giá trị TSCĐ bằng tiền theo những nguyên tắc nhất
định, là điều kiện cần thiết để hạch toán TSCĐ, trích khấu hao và phân tích hiệu quả sử
dụng TSCĐ trong doanh nghiệp. Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu quản lý TSCĐ trong
quá trình sử dụng TSCĐ được đánh giá theo nguyên giá và giá trị còn lại.
- Đánh giá TSCĐ theo nguyên giá
Là toàn bộ các chi phí mà các doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ cho đến
khi đưa TSCĐ vào hoạt động bình thường, bao gồm: giá mua thực tế, lãi vay, đầu tư
TSCĐ khi chưa bàn giao đưa vào sử dụng, thuế, lệ phí trước bạ. Tuỳ theo từng loại
TSCĐ mà nguyên giá của nó được xác định khác nhau.
Cách đánh giá này có thể cho doanh nghiệp thấy được số vốn đầu tư, mua sắm
TSCĐ ở thời điểm ban đầu, là căn cứ để xác định số tiền phải trả khách hàng để tái sản
xuất giản đơn.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại
6
Giá trị còn lại của TSCĐ là phần giá trị chưa chuyển vào giá trị sản phẩm. Giá trị
còn lại có thể tính theo giá trị ban đầu.
Mỗi cách đánh giá đều có ý nghĩa tác dụng riêng, cho phép chúng ta thấy mức độ
thu hồi vốn đầu tư đến thời điểm đánh giá, từ đó đưa ra chính sách khấu hao thu hồi số
vốn đầu tư còn lại để bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ đó ta có công thức sau:
Giá trị còn lại TSCĐ = Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế
1.6. Khấu hao TSCĐ
Khấu hao TSCĐ nhằm để bù đắp giá trị TSCĐ hao mòn trong quá trình sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp phải dịch chuyển dần dần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản

phẩm sản xuất trong kỳ.
Việc khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều
phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Việc lựa chọn
phương pháp khấu hao đúng đắn là nội dung quan trọng trong việc quản lý TSCĐ trong
doanh nghiệp.
Thông thường có những phương pháp tính khấu hao sau:
* Phương pháp khấu hao tuyến tính (khấu hao đường thẳng)
Đây là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian sử dụng. Theo phương pháp
này mức khấu hao cơ bản hàng năm của TSCĐ được tính theo công thức:
Mức khấu hao =
Nguyên giá TSCĐ
Thời gian sử dụng TSCĐ
Ưu nhược điểm:
+ Ưu điểm: Phương pháp này đơn giảm, dễ tính, dễ hiểu. Doanh nghiệp có thể ổn định
chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm do mức khấu hao được phân bổ đều qua các
năm.
+ Nhược điểm: Do TSCĐ phải chịu nhiều các yếu tố tác động tới nên trong những thời
kỳ khác nhau TSCĐ có những hao mòn khác nhau. Vì vậy phương pháp này không đem
lại cho người quản lý những thông tin chính xác về mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ
trong các thời kỳ sử dụng khác nhau.
- Điều kiện áp dụng: Các TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh đều được trích khấu
hao theo phương pháp này. Đây là phương pháp khấu hao khá đơn giản và được áp dụng
hầu hết cho các TSCĐ trong doanh nghiệp.
* Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần.
7
Theo phương pháp này số tiền khấu hao từng năm của TSCĐ được xác định bằng
cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ đầu năm tính khấu hao nhân với một tỷ lệ khấu hao
cố định hàng năm, có thể được xác định qua công thức:
Công thức: Mki = Gđi * Tkh
Trong đó: Tkh = Tk * Hs

Mki : Số tiền khấu hao TSCĐ năm i
Gđi: Giá trị còn lại của TSCĐ năm thứ i
Tkh: Tỷ lệ khấu hao hàng năm của TSCĐ
Tk: Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp tuyến tính
Hs: Hệ số điều chỉnh
Hệ số: + 1,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 3 đến 4 năm
+ 2,0 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 5 đến 6 năm
+ 2,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 6 năm trở lên
* Phương pháp khấu hao theo tổng số: Theo phương pháp này, số khấu hao của từng
năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao của từng
năm:
Công thức: Mkt = NG * Tkt
Với:
Tkt =
Số năm sử dụng
Tổng số các năm sử dụng còn lại của TSCĐ
Trong đó:
Mkt: Số tiền khấu hao TSCĐ năm thứ t (t = 1,n)
NG: Nguyên giá TSCĐ
Tkt: Tỷ lệ khấu hao TSCĐ năm thứ t
2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSCĐ VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG TSCĐ
2.1. Hiệu quả sử dụng TSCĐ
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó quản lý và sử
dụng TSCĐ là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến kết quả và hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Qua đó, thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh,
khả năng khai thác các khả năng sẵn có, biết mình đang ở giai đoạn nào trong quá trình
phát triển, đang ở vị trí nào trong quá trình đua tranh với các doanh nghiệp khác.

Hiệu quả sử dụng TSCĐ là một phần của công tác đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
8
doanh nhưng để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp
phải cố gắng tối đa trên nhiều lĩnh vực trong đó phải tìm ra cách nâng cao hiệu quả sử
dụng TSCĐ của mình.
Vậy: ‘Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ khai thác, sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời tối đa với chi phí thấp “.
2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay là rất cần thiết, nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ các
lý do chủ yếu sau đây:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Bất kỳ một
doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nhất nói lên kết quả nhiều mặt
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là nguồn tích luỹ cơ bản để
doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của TSCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh. TSCĐ
là thành phần cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong vốn sản xuất. Do đó việc nâng cao hiệu
qủa sử dụng TSCĐ sẽ làm cho hiệu quả vốn sản xuất tăng lên. Đó cũng chính là mục
tiêu và đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. Bởi hiệu quả
sử dụng TSCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh những cố gắng, những biện pháp hữu
hiệu về kỹ thuật, về tổ chức quản lý trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất phát
triển. Hiệu quả sử dụng TSCĐ thể hiện ở việc nâng cao hiệu suất sử dụng vốn cố định,
tài sản cố định, tăng tỷ suất lợi nhuận vốn cố định,… nhằm tăng lợi nhuận.
Ngoài ra, nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ chính là việc thực hiện yêu cầu của
Nhà nước về việc hạch toán đầy đủ của các doanh nghiệp.

Qua đó thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ có ý nghĩa vô cùng to
lớn đối với sự tồn tại, phát triển của nền sản xuất nói chung và mỗi doanh nghiệp nói
riêng trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
2.3. Các chỉ tiêu để phân tích, đánh giá tình hình trang bị và sử dụng TSCĐ
9
2.3.1. Trình độ trang bị chung về TSCĐ
Xét tình hình trang bị TSCĐ là tính đến mức độ phù hợp của việc trang bị TSCĐ
cho từng lao động. Đây là căn cứ đề ra các dự án cho việc đầu tư máy móc không chỉ
phù hợp về mặt trình độ kỹ thuật mà còn phù hợp với sức quản lý của từng lao động.
Việc trang bị cho người lao động vượt quá khả năng của họ không chỉ tạo ra sức ép cho
người lao động mà còn có thể gây lãng phí do người lao động không sử dụng hết số máy
móc đó.
Trình độ trang bị chung TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ bq trong kỳ
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp
sản xuất. Thông qua chỉ tiêu này ta vừa đánh giá được mức độ trang bị TSCĐ đồng thời
thấy được sự hợp lý hay bất hợp lý của số lượng lao động tham gia vào quá trình sản
xuất.
2.3.2. Trình độ trang bị kỹ thuật về TSCĐ
Trình độ trang bị kỹ thuật về TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ HH thuộc phương tiện kt
Số công nhân sản xuất bình quân
2.3.3. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ (thông qua hệ số hao mòn)
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Số tiền KH lũy kế tại thời điểm đánh giá
NG TSCĐ tại thời đểm đánh giá
Chỉ tiêu này một mặt phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp,
mặt khác nó phản ánh tổng quát tình trạng về năng lực của TSCĐ ở thời điểm đánh giá.
2.4. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng từ quan điểm kinh tế

Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Doanh thu thuần
Nguyên giá TSCĐ bình quân
Hiệu quả sử dụng TSCĐ =
Lợi nhuận
Nguyên giá TSCĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho ta thấy rõ hơn về tính hiệu quả của việc sử dụng TSCĐ, cứ một
đồng nguyên giá TSCĐ sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Thông qua hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trên ta thấy nâng cao hiệu quả sử dụng
TSCĐ chính là việc khai thác triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp như: phát huy
hết công suất của máy móc thiết bị, tăng cường công tác quản lý và sử dụng tài sản cố
định để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho
10
doanh nghiệp.
2.5. Biện pháp chủ yếu nhằm tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ
trong doanh nghiệp
- Làm tốt công tác đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định, xem xét kỹ hiệu quả
kinh tế của vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
Hiệu quả sử dụng TSCĐ trước hết phụ thuộc vào chất lượng của công tác đầu tư
mua sắm TSCĐ. Bởi vậy, trước khi đầu tư phải nghiên cứu kỹ lưỡng, kiểm tra về điều
kiện khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, điều kiện cung cấp vật tư, khả năng
tận dụng và công suất của TSCĐ. TSCĐ được đầu tư mới phải phù hợp với trình độ phát
triển của khoa học kỹ thuật theo hướng tiên tiến hiện đại, và phải phù hợp với yêu cầu
và khả năng khai thác của doanh nghiệp.
Căn cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các loại máy móc thiết bị, giữa các
khâu của quy trình công nghệ và tổng số TSCĐ hiện có để lập ra kế hoạch điều chỉnh cơ
cấu và kế hoạch đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị sẵn có, cải tạo thiết bị máy móc
cũ, thải loại những máy móc thiết bị mà chi phí sửa chữa lớn hơn mua sắm lớn (không
có hiêu quả kinh tế) đồng thời có kế hoạch đầu tư mua sắm mới thay thế một phần hoặc
toàn bộ tài sản cố định. Bên cạnh đó xác định chính xác những tài sản cố định không

cần dùng để có thể nhanh chóng tiến hành thanh lý hay nhượng bán để thu hồi vốn
nhanh.
- Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ vào trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Để có thể thực hiện được điều này thì trước tiên phải thực hiện đánh giá đúng giá
trị của TSCĐ, tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định,
quy mô vốn phải bảo toàn. Điều chỉnh kịp thời giá trị của tài sản cố định để tạo điều
kiện tính đúng tính đủ chi phí khấu hao, không để mất vốn cố định.
Tiếp theo là phải tiến hành phân loại cũng như phân cấp TSCĐ. Tiến hành phân
giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân một cách rõ ràng nhằm nâng cao tinh thần
trách nhiệm cho từng người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong
kinh doanh để hạn chế tổn thất TSCĐ do các nguyên nhân khách quan như: mua bảo
hiểm tải sản, lập quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng giảm giá các
khoản đầu tư tài chính.
- Tổ chức thực hiện tốt việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có hiệu
11
quả. Trích khấu hao cơ bản là hình thức thu hồi VCĐ phục vụ cho việc đổi mới TSCĐ,
nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng mỗi đồng vốn bỏ ra.
- Tổ chức tốt hạch toán nội bộ trong doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng TSCĐ phải
được tính toán từ khi lập kế hoạch sử dụng đến quá trình thực hiện. Trong quá trình
sản xuất việc sử dụng TSCĐ luôn gắn với mục đích cụ thể do đó thực hiện hạch toán
kinh tế nội bộ là một biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỐNG KÊ TSCĐ VÀ ĐẦU TƯ DÀI HẠN TRONG
12
DOANH NGHIỆP
I.Khái quát về công ty cổ phần thiết bị bưu điện
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Vốn là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện là đơn vị
hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, theo điều lệ tổ

chức và hoạt động của Tổng công ty được phê chuẩn tại Nghị định số 51/CP ngày
1/8/1995 của Chính Phủ. Công ty là một bộ phận cấu thành của hệ thống tổ chức và hoạt
động của Tổng công ty trong các lĩnh vực khác nhau nhằm tăng cường tích tụ tập trung
phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất để thực hiện những mục tiêu kế
hoạch của Nhà nước do Tổng công ty giao cho.
Tên giao dịch: “POST & TELECOMMUNICATION EQUIPMENP COMPANY
(POSTEF)”
Tên viết tắt : “POSTEF”
Điện thoại : 04.8621269
Fax : 04.8621268
Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện - Hà Nội là một Doanh nghiệp được thành lập
từ năm 1954 với tên gọi ban đầu là: Nhà máy Thiết Bị Bưu Truyền Thanh.
Năm 1967 theo quyết định số 389/QĐ ngày 16/6/1967 của Tổng cục Bưu Điện đã
tách rời nhà máy Bưu Truyền thanh ra làm 4 nhà máy trực thuộc bao gồm nhà máy 1, 2,
3, 4.
Đầu những năm 70, do yêu cầu phát triển thông tin của Tổng cục bưu điện đã sát
nhập nhà máy 1, 2, 4 thành một nhà máy hạch toán độc lập theo quyết định số 157/QĐ.
Đến tháng 12/1986 do yêu cầu của Tổng cục Bưu Điện nhà máy lại một lần nữa
tách ra thành 2 nhà máy sản xuất kinh doanh ở cả 2 khu vực:
+ Nhà máy thiết bị Bưu Điện ở 61 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội
+ Nhà máy vật liệu điện tử loa âm thanh 63 Nguyễn Huy Tưởng – Thanh Xuân - Hà Nội
Sau khi có quyết định 217/HĐBT, Công ty thực hiện hoạt động kinh doanh tự
chủ về mặt tài chính một cách năng động và có hiệu quả.
Đến đầu năm 1995, Công ty trở thành một thành viên độc lập thuộc Tổng công
ty Bưu chính - viễn thông, theo quyết định thành lập doanh nghiệp số 202/QĐ - TCBĐ
ngày 15/3/1995, giấy phép kinh doanh số 105.985 ngày 20/3/1995 do trọng tài kinh tế
13
cấp, số hiệu tài khoản TK 10A009 Ngân hàng công thương Ba Đình - Hà Nội.
Căn cứ quyết định số 46/2/2010/QĐ - BBCVT ngày 15/11/2010 của Bộ Bưu chính
viễn thông chuyển Nhà máy thiết bị Bưu Điện thành Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.

Các sản phẩm của Công ty tương đối đa dạng (từ 350 đến 400 loại) chủ yếu bao
gồm: máy điện thoại ấn phím cố định, máy điện thoại di động GMS, máy fax, thiết bị
đấu nối cáp đồng và cáp quang, nguồn viba và nguồn tổng đài, ống cáp viễn thông,
cabin đàm thoại
1.2. Nhiệm vụ, đặc điểm và quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty trong những
năm gần đây.
* Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện trong giai
đoạn này bao gồm:
- Quản lý vốn hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của Công ty được Tổng công ty giao cho bao gồm cả phần vốn đầu tư vào
doanh nghiệp khác nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời trả các
khoản nợ mà Công ty trực tiếp vay hoặc các khoản tín dụng được Tổng công ty bảo lãnh
vay theo quy định của pháp luật.
- Đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng mục đích ngành nghề đã đăng ký, chịu
trách nhiệm trước khách hàng và pháp luật về sản phẩm do Công ty thực hiện.
- Thực hiện chế độ báo cáo kế toán thống kê, báo cáo định kỳ, bất thường, chế
độ kế toán theo quy định của Nhà nước và tổng công ty, chịu trách nhiệm về tính xác
thực của báo cáo.
- Thực sự kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ các quy định về thanh tra, kiểm tra của
tổng công ty và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định…
1.3. Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
Hiện nay Công ty có trên 595 cán bộ công nhân viên trong đó có hơn 00 người là cán bộ
trực tiếp sản xuất và nhân viên quản lý phân xưởng. Lao động của Công ty hầu hết được
đào tạo qua trường vô tuyến viễn thông và các trường dạy nghề khác, lao động giản đơn
rất ít và hầu như không có, đội ngũ cán bộ quản lý là kỹ sư vô tuyến điện tin học.
Để đáp ứng yêu cầu chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, Công ty tổ
chức bộ máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu là Giám đốc, toàn bộ cơ
cấu quản lý và sản xuất của Công ty được sắp xếp bố trí thành các phòng ban, phân
14
xưởng, giữa các phân xưởng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Ban giám đốc đưa ra

quyết định thực hiện quản lý vĩ mô chỉ đạo chung toàn bộ hoạt động của Công ty, các
phân xưởng là các bộ phận trực tiếp tham gia sản xuất sản phẩm.
* Ban giám đốc
- Giám đốc Công ty: là người lãnh đạo cao nhất của Công ty, chịu trách nhiệm
cao nhất về hoạt động của Công ty, chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả sản xuất
kinh doanh trước pháp luật, có nghĩa vụ đối với Nhà nước trong quản lý tài sản, tránh
để thất thoát tài sản.
- Phó giám đốc: gồm có phó giám đốc kỹ thuật và phó giám đốc sản xuất, là
người đại diện lãnh đạo về chất lượng sản phẩm, là người trợ giúp cho giám đốc về
mặt kỹ thuật, chỉ đạo trực tiếp các đơn vị thực hiện IOS trong Công ty. Các phó
giám đốc là người trợ lý cho Giám đốc và theo dõi điều hành các công việc dựa trên
quyền quyết định của Giám đốc.
* Các phòng ban
Công ty có 12 phòng ban, đây là hệ thống quản lý theo chức năng, thông qua
trưởng phòng đến từng nhân viên.
* Phòng đầu tư - phát triển
* Phòng vật tư
* Phòng công nghệ kỹ thuật
* Phòng tổ chức lao động tiền lương
* Phòng kế toán tài chính
* Phòng điều động sản xuất
* Ban nguồn
* Phòng marketing (trọng tâm tiếp thị)
* Phòng KCS
* Phòng kế hoạch kinh doanh
* Trung tâm bảo hành sản phẩm
* Phòng hành chính, bảo vệ
Qua cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty ta thấy công tác tổ chức quản lý tương đối
hợp lý nhằm chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm,
phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Công ty có tới 3 trung tâm tiếp thị Bắc, Trung, Nam

15
được chia theo khu vực và theo ngành hàng. Theo khu vực có ưu điểm là giải quyết kịp
thời cho mạng lưới bưu chính viễn thông toàn quốc, chia theo ngành có ưu điểm là nắm
bắt kỹ thuật, hướng dẫn khách hàng chuyên sâu.
1.4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán
Công ty thuộc loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, nghiệp vụ kinh tế phát sinh
nhiều và phức tạp nhưng phòng kế toán thống kê của Công ty vẫn được bố trí gọn, nhẹ,
hợp lý, công việc được phân công cụ thể, rõ ràng cho từng nhân viên kế toán. Với đội
ngũ kế toán có tay nghề vững vàng, nhiệt tình và có trách nhiệm cao, phòng đã thực hiện
công tác kế toán đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý Công ty.
Công tác kế toán được tổ chức khá chặt chẽ và khoa học, Công ty áp dụng mô
hình kế toán tập trung, mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được thực hiện ở phòng kế
toán Công ty. Tại các phân xưởng không có tổ chức bộ máy kế toán riêng mà bố trí các
nhân viên kinh tế, thống kê, theo dõi việc đưa vật liệu vào sản xuất cho đến khi giao
thành phẩm cho kho thành phẩm.
Phòng kế toán thống kê của Công ty gồm 9 người đảm nhiệm các phần hành kế
toán khác nhau bao gồm 1 kế toán trưởng và 8 kế toán nghiệp vụ.
- Kế toán trưởng (trưởng phòng): có nhiệm vụ tổ chức bộ máy kế toán trên cơ sở
xác định đúng khối lượng công tác kế toán nhằm thực hiện 2 chức năng cơ bản của kế
toán là thông tin và kiểm tra hoạt động kinh doanh, điều hành và kiểm soát hoạt động
của bộ máy kế toán chịu trách nhiệm về nghiệp vụ chuyên môn kế toán và tài chính của
đơn vị. Kế toán trưởng là người giúp việc trong lĩnh vực chuyên môn kế toán, tài chính
cho giám đốc…
- Kế toán tổng hợp (phó phòng): Tổng hợp số liệu kế toán, đưa ra các thông tin
cuối cùng trên cơ sở số liệu, sổ sách do kế toán các phần hành khác cung cấp. Kế toán
tổng hợp còn đảm nhiệm công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm,
đình kỳ lập các báo cáo kế toán.
- Kế toán TSCĐ, kiêm kế toán thu chi: Theo dõi tình hình biến động của tài sản cố
định. Ngoài ra còn theo dõi tình hình thu chi quỹ tiền mặt.
- Kế toán tiền lương, thanh toán tạm ứng, kế toán nguyên vật liệu và tổng hợp vật

tư: Tính lương trên cơ sở đơn giá tiền lương do phòng tổ chức lao động tiền lương gửi
lên, hạch toán lương và trích bảo hiểm, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định, thanh
toán lương, phụ cấp cho công nhân viên Công ty.
16
- Kế toán thành phẩm và tiêu thụ: Theo dõi tình hình nhập - xuất - tồn kho thành
phẩm trên cơ sở các chứng từ, xác định kết quả kinh doanh, theo dõi thuế gía trị gia tăng
đầu ra.
- Kế toán vật tư và thống kê tài sản: Theo dõi chi tiết, tổng hợp tình hình nhập -
xuất - tồn kho vật liệu, công cụ dụng cụ theo từng kho. Do đặc điểm sản xuất sản phẩm
của Công ty đòi hỏi nhiều chủng loại vật tư khác nhau nên công tác kế toán vật liệu có
khối lượng công việc khá lớn.
Hệ thống sổ kế toán của Công ty: Thông tin trên báo cáo đảm bảo độ tin cậy.
Hình thức và các chỉ tiêu trên báo cáo đúng theo chế độ kế toán quy định. Tuy nhiên
việc áp dụng hệ thống sổ kế toán theo hình thức NKCT chưa thực sự thống nhất.
Hiện nay, Công ty áp dụng hình thức kế toán NKCT nhưng hệ thống sổ kế toán
Công ty một số sử dụng theo hình thức nhật ký chung. Điều này có thể thuận tiện cho
công tác kế toán nhưng việc sử dụng không thống nhất sẽ gây khó khăn cho những
người có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra sổ sách của Công ty.
II. Phân tích thống kê TSCĐ và đầu tư dài hạn của công ty cổ phần thiết bị điện
1. Kết quả sản xuất kinh doanh trong những năm gần đây
Trong thời gian gần đây tình hình hoạt động của Công ty vẫn còn gặp nhiều khó
khăn do bỡ ngỡ và còn lúng túng trong cơ chế thị trường, sản phẩm trong nước chưa đáp
ứng được nhu cầu của người thành phố, thêm vào đó sản phẩm nội địa bị cạnh tranh
khốc liệt với hàng Trung Quốc, Thái Lan. Tuy vậy với sự nỗ lực của Ban Giám Đốc và
toàn thể cán bộ công nhân viên nên mọi người đều có việc làm ổn định, thu nhập cao,
doanh thu tăng đều qua các năm. Trên thực tế Công ty đã không ngừng đào tạo nguồn
lực, có các biện pháp khuyến khích người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần nên ngân
sách lao động ngày càng cao dẫn đến chất lượng lao động ngày càng tăng. .
17
2. Thực trạng TSCĐ của công ty

Bảng nguyên giá TSCĐ chia theo nguồn hình thành
Nguồn
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Chênh lệch
(2010-2009)
Chênh lệch
(2011-2010)
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọn
g
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền % Số tiền %
Ngânsách 6.298.422 5.78 6.298.422
5,72 6.298.422 4,95
- -
- -
Tự bổ
xung
15.600.422 14.32 15.643.036
14,22 19.318.247 15,18
42.532 0.27
3.675.211 23,49
Nguồn
khác

86.996.061 79.9 87.996.545
80,06101.572.690 79,87
1.000.484 1.15
13.576.145 15,42
Tổng 108.894.987 100 109.938.003
100127.189.359 100
1.043.016 0.95
17.251.356 15,69
(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Qua bảng trên cho thấy TSCĐ của Công ty được hình thành từ ba nguồn chính: nguồn
ngân sách, tự bổ xung, nguồn khác. Tính đến ngày 31/12/2011 thì tổng nguồn TSCĐ là
127,189 tỷ đồng trong đó nguồn đóng góp của các cổ đông là chủ yếu, chiếm 79,87%.
Nguồn ngân sách chiếm 4,95%, còn nguồn tự bổ xung chiếm 15,18%. Điều này chứng
tỏ Công ty hoàn toàn chủ động không phụ thuộc nhiều vào nguồn Ngân sách cấp nên có
nhiều thuận lợi trong việc sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới Công ty cần huy
động nhiều TSCĐ hơn nữa để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển.
3. Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ
3.1. Tình hình mua sắm TSCĐ
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc tăng cường đổi mới trang thiết bị
được coi là một lợi thế để chiếm lĩnh thị trường. Một hệ thống được trang bị máy móc
hiện đại, đồng bộ sẽ góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp đối
với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp trong ngành bưu chính viễn thông cũng
không nằm ngoài số đó. Nắm bắt được tình hình này Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
đã nỗ lực cố gắng không ngừng để hoàn thiện và đổi mới trang thiết bị của mình.
18
Bảng II: Tình hình tăng giảm TSCĐ năm 2011
STT
Chỉ tiêu Số tiền
1 Nguyên giá TSCĐ đầu năm 127.189.561
2 TCSĐ tăng trong năm 17.982.469


Do mua sắm, sửa chữa, đầu tư mới 10.122.511
Do đánh giá tăng TSCĐ xác định giá trị DN cổ phần hoá 7.859.957
3 TSCĐ giảm trong năm 118.763.628
Do thanh lý 6.467.904
Do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng 23.188.849
Do góp vốn liên doanh 16.542.762
Lý do khác 72.564.143
4 Nguyên giá TSCĐ cuối năm 26.408.401
(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Năm 2011 TSCĐ của Công ty tăng lên 17,982 tỷ đồng trong đó mua sắm mới là
10,122 tỷ đồng và đánh giá tăng TSCĐ xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá là
7,859 tỷ đồng, đồng thời trong năm 2011 TSCĐ của Công ty cũng giảm đi đáng kể
118,163 tỷ đồng. Nguyên giá TSCĐ cuối năm của Công ty giảm còn 26,408 tỷ đồng.
3.2. Tình hình khấu hao TSCĐ và quản lý quỹ khấu hao của Công ty
Bảng III: Bảng tổng hợp hao mòn TSCĐ năm 2011(Đơn vị: 1000đ)
Chỉ tiêu Số tiền
Số khấu hao lũy kế đầu năm 82.929.980
2. Số khấu hao lũy kế tăng trong năm
- Do trích khấu hao TSCĐ
- Do trích khấu hao TSCĐ tăng mới
- Do điều chuyển
14.227.313
8.031.671
763.733
0
- Lý do khác 5.431.909
3. Số khấu hao lũy kế giảm trong năm
- Do thanh lý
- Do góp vốn liên doanh

- Do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng
- Do chuyển thành công cu dụng cụ
- Lý do khác
74.929.638
3.502.351
9.619.326
22.994.431
517.115
38.296.415
4. Số khấu hao lũy kế cuối năm 22.229.655
19
Qua bảng tổng hợp tăng giảm hao mòn TSCĐ của Công ty thì số tiền khấu hao luỹ
kế đầu năm của Công ty là 82.929.980 ngàn đồng, trong năm số khấu hao luỹ kế tăng
lên 14.227.313 ngàn đồng trong đó các lý do chính như: do trích khấu hao TSCĐ là
8.013.671 ngàn đồng, do trích khấu hao TSCĐ tăng mới là 763.733 ngàn đồng và một
số lý do khác là 5.431.909. Tuy nhiên số khấu hao luỹ kế giảm trong năm lại rất lớn
(74.929.638 ngàn đồng), trong đó do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng là
22.994.431 ngàn đồng, do góp vốn liên doanh 9.619.326 ngàn đồng và một số lý do
khác. Qua phân tích ở bảng V cho thấy TSCĐ của Công ty đã quá cũ kỹ, Công ty cần có
biện pháp đổi mới nhanh chóng để phục vụ sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn
4. Cơ cấu TSCĐ
Để có được đánh giá về cơ cấu TSCĐ của Công ty, ta sử dụng bảng số liệu sau:
Bảng IV cơ cấu TSCĐ của Công ty
Chỉ tiêu
Năm 2009
Năm 2010 Năm 2011
1.TSCĐ hữu hình
-Nguyên giá
-Hao mòn
-Giá trị còn lại

2.TSCĐ thuê tài chính
3.TSCĐ vô hình
127.100.600
82.000.000
45.100.600
3.000.000
127.189.561
82.929.980
44.259.581
3.270.873
-
99.943.670
56.727.588
43.216.082
4.947.557
-
Tổng TSCĐ
48.000.600
47.530.454 48.163.639
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002 - 2011)
Qua bảng số liệu ta thấy:
TSCĐ hữu hình của Công ty là TSCĐ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn cố định
gồm chủ yếu là máy móc, thiết bị, và các trang thiết bị văn phòng nhằm phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng qua các năm là:
Như vậy, năm 2010 TSCĐ của Công ty giảm mạnh nhưng lại tăng trở lại vào năm
tiếp theo, chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn. Năm 2010 TSCĐ của
Công ty tăng mạnh đánh dấu sự đổi mới trang thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh,
nó phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường hiện nay.
20
5. Tình hình trang bị và đầu tư TSCĐ tại công ty

5.1. Tình hình trang bị TSCĐ
Bảng V: Tình hình trang bị TSCĐ
Chỉ tiêu Năm 2009
Năm 2010 Năm 2011
So Sánh
2010-2009 2011-2010
Nguyên gia TSCĐ(đ)
128.077.123
127.189.561 99.943.607
-887.562
-27.245.954
Số công nhân sx bình
quân (người)
650
601 586
-49
-15
Trình độ trang bị chung
T TSCĐ (đ/người)
222.169,5
211.629,9 170.552,2
-10.539,6
- 41.077,7
Qua bảng trên ta thấy: trình độ trang bị chung TSCĐ từng năm của Công ty có
chiều hướng giảm dần. Năm 2010 hệ số này đạt 211.629,9 (VNĐ/người), nhưng đến
năm 2011 hệ số này giảm xuống còn 170.552,2 (VNĐ/người), điều này có thể được lý
giải như sau:
- Năm 2009 nguyên giá TSCĐ bình quân là 127.189.561 ngàn đống, đến năm 2011
chỉ tiêu này giảm xuống còn 99.943.607 ngàn đồng (giảm 27.245.954 ngàn đồng).
- Số công nhân sản xuất giảm do một số cán bộ đã đến tuổi về hưu và trong thời gian

này Công ty chưa tuyển dụng thêm được đội ngũ công nhân mới. Tính đến năm 2011 số
công nhân trong là 586 người giảm 15 người so với năm 2010.
Tác động của việc giảm nguyên giá và giảm số lượng công nhân đã dẫn tới hệ số trong
bị chung TSCĐ của Công ty năm 2011 giảm
5.2. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ
Được biểu hiện cụ thể như sau:
- Nhà xưởng, vật kiến trúc năm 2010 hệ số hao mòn là 0,73 đến năm 2011 hệ số
này tăng lên 0,83
- Máy móc thiết bị cũng tương đối cũ, năm 2010 hệ số hao mòn là 0,69 thì đến
năm 2011 con số này lên tới 0,86 (tăng 0,17).
- Về phương tiện vận tải thì hệ số này ở mức rất cao, 0,81 năm 2009 và 0,92 năm
2010.
- Mặc dù hệ số hao mòn của một số TSCĐ trên tăng khá cao thì ở TSCĐ thiết bị
phục vụ quản lý lại có phần giảm, năm 2010 hệ số này là 0,46 đến năm 2011 giảm
xuống còn 0,42. Điều này chứng tỏ Công ty đã chú trọng vào công tác phục vụ quản lý,
góp phần cải tiến trạng kỹ thuật cho cán bộ quản lý.
- Về TSCĐ thuê tài chính năm 2010 hệ số hao mòn là 0,28 mặc dù còn khá mới
xong đến năm 2011 hệ số này cũng đã giảm xuống còn 0,25.
21
Nhìn chung tình trạng kỹ thuật của TSCĐ thuộc Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
không có sự thay đổi nhiều, tuy nhiên là một Công ty mà hoạt động sản xuất đóng vai
trò chủ yếu thì Công ty cần chú trọng hơn đến công tác quản lý và sử dụng TSCĐ.
Những TSCĐ đã quá cũ kỹ, lạc hậu Công ty cần có biện pháp thay đổi kịp thời để có thể
nâng cao sức lao động của công nhân, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng sản
phẩm. Ngoài ra đối với những TSCĐ khác Công ty cũng cần có sự quan tâm đúng mức,
có như vậy mới tạo được sự đồng bộ trong hoạt động sản xuất cũng như trong kinh
doanh.
5.3. Tình hình đầu tư TSCĐ
Về tình hình đầu tư TSCĐ năm 2010, năm 2011 có thể thấy một số nét khái quát như
sau:

Do nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, từ năm 2010 Công ty đã tiến hành xây
dựng mới một số nhà xưởng phục vụ cho việc sản xuất các mặt hàng chủ yếu. Năm
2011 Công ty đã đầu tư xây mới và mua sắm TSCĐ với số tiền 1.814.546 ngàn đồng,
đến năm 2010 con số này tăng lên đáng kể (5.072.056 ngàn đồng).
Đồng thời với việc mở rộng quy mô, Công ty cũng đã không ngừng đầu tư cho
máy móc thiết bị dùng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nhằm đưa ra thị trường những
sản phẩm chất lượng tốt, tính cạnh tranh cao. Năm 2010 Công ty đã đầu tư mua sắm
mới một số máy móc thiết bị với trị giá là 2.715.844 ngàn đồng, đến năm 2011 thì
con số này tăng lên mức 4.063.275 ngàn đồng.
Riêng đối với TSCĐ thuê tài chính Công ty cũng đã đầu tư xây mới với số tiền
822.988 ngàn đồng, tuy nhiên đến năm 2011 do chưa được tận dụng triệt để TSCĐ
thuê tài chính nên Công ty đã giảm số tiền này xuống còn 748.171 ngàn đồng.
5.4. Tình hình sử dụng TSCĐ
Bảng VI: Tình hình sử dụng TSCĐ
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011
So sánh
Chênh lệch %
Giá trị sản xuất công nghiệp 238.460.508 245.010.307 6.549.799 2,7
Doanh thu thuần 282.771.093 298.876.706 16.105.613 5,69
Tổng lợi nhuận trước thuế 21.030.798 18.067.416 -2.963.382 -5,9
Nguyên giá bình quân TSCĐ 127.189.561 99.943.607 -27.245.954 -8,57
Mức giá trị SXCN tính cho 1 đồng
NG
1,87 2,45 0,58 1,31
Mức doanh thu thuần tính cho 1
1đồng NGBQ
2,22 2,99 0,77 0,34
Mức lợi nhuận trước thuế tính
1 đcho 1 đồng NGBQ
0,165 0,18 0,015 0,9

22
Qua bảng ta thấy: Giá trị sản xuất công nghiệp của Công ty chiếm tỷ trọng chủ
yếu trong tổng doanh thu, điều này hoàn toàn phù hợp với Công ty mà hoạt động sản
xuất là chủ yếu. Năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp là 238 tỷ đồng tăng hơn 6,5 tỷ
đồng (tăng 2,7%) vào năm 2011. Nhìn chung giá trị sản xuất qua 2 năm 2010 và 2011 có
sự gia tăng tuyệt đối, điều này cho thấy việc đầu tư máy móc thiết bị đữ thu được một số
hiệu quả đáng kể.
Tuy nhiên, do một số yếu tố khách quan trong 2 năm qua thì tổng lợi nhuận
trước thuế của Công ty lại có chiều hướng giảm, năm 2010 đạt 21 tỷ đồng giảm xuống
còn 18 tỷ đồng năm 2011. Điều này dẫn tới nguyên giá TSCĐ cũng giảm theo, năm
2009 đạt 127 tỷ đồng đến năm 2011 giảm xuống còn gần 100 tỷ đồng (giảm 27 tỷ
đồng).
Mức giá trị sản xuất công nghiệp tính cho một đồng nguyên giá bình quân, cứ
một đồng nguyên giá thì thu được 1,87 đồng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 và
2,45 đồng năm 2011 (tăng 0,58 đồng). Mức doanh thu thuần tính cho một đồng nguyên
giá bình quân, năm 2010 là 2,22 đồng tăng 0,77 đồng vào năm 2011. Mức lợi nhuận
trước thuế tính cho một đông nguyên giá bình quân, năm 2010 là 0,165 đồng tăng lên
0,18 đồng năm 2011.
Từ những số liệu chi tiết ở bảng trên ta có thể thấy việc đưa TSCĐ mới vào chưa
thực sự được tận dụng hết công suất và TSCĐ cũ vẫn chưa được khấu hao hết do đó dẫn
tới chất lượng sản phẩm không cao. Những con số này ban đầu cho thấy hướng đi của
Công ty không sai, nhưng để có thể thu được lợi nhuận nhiều hơn nữa ngoài việc chú ý
đào tạo mới các cán bộ công nhân viên, Công ty cần phải không ngừng đầu tư, đổi mới
TSCĐ hiện đại thay thế những TSCĐ đã cũ kỹ, lạc hậu. Có như vậy Công ty mới ngày
càng phát triển và đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng tốt nhằm đáp ứng
nhu cầu người tiêu dùng không chỉ trong nước mà còn trên quốc tế.
6. Đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ của công ty
* Những kết quả đạt được:
Kể từ ngày được thành lập, Công ty đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất,
tăng cường đổi mới máy móc trang thiết bị, dây chuyền lẵp ráp hiện đại, nâng cao tay

nghề công nhân và nghiệp vụ của cán bộ quản lý để nâng cao năng suất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm. Công ty luôn chứng tỏ là một đơn vị năng động và không
ngừng vươn lên thông qua các kết quả tăng trưởng đạt được. Với số vốn ban đầu của
tổng công ty cấp và được bổ sung từ lợi nhuận để lại hàng năm, Công ty đã mở rộng quy
23
mô sản xuất. Mặc dù vốn cố định có tỷ trọng thấp nhưng Công ty vẫn huy động tối
đa mọi nguồn lực để đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy móc phương tiện vận tải
truyền dẫn, nhà xưởng… Trong năm 2010, Công ty đã tăng cường đầu tư cho TSCĐ
một khoản rất lớn: 78,054 tỷ đồng, tăng 22,244 tỷ đồng (23,49%) so với năm 2009. Các
loại máy móc hiện đại như máy cắt, đột dập, máy băng chuyền, các dây chuyền sản
xuất PVC cứng, dây chuyền phục vụ phân xưởng bưu chính cũng được đầu tư đổi mới.
Trong các phòng quản lý, Công ty hầu như trang bị toàn bộ máy vi tính, máy fax và các
máy móc chuyên dụng khác, giúp cho cán bộ quản lý làm việc hiệu quả hơn và công tác
giao dịch, tiếp cận khách hàng cũng thuận lợi hơn.
- Với bề dày gần 50 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành trong thời gian qua
toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty đã tự mình đạt được một bề dầy thành
tích đáng khích lệ. Nhờ đó Công ty đã hoà nhập tốt cơ chế thị trường mới, từng bước
nắm bắt được nhu cầu thị trường, cải tiến máy móc thiết bị, đào tạo tay nghề cho công
nhân và trình độ lãnh đạo của đội ngũ quản lý năng động sáng tạo. Phần lớn đội ngũ cán
bộ của Công ty là các kỹ sư về điện tử, tin học, vô tuyến điện, các cử nhân kinh tế và
Công ty hầu như không có lao động giản đơn.
* Những tồn tại:
Do sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã làm sản phẩm bưu chính
viễn thông luôn thay đổi và để theo kịp với sản phẩm ngoại nhập Công ty phải đầu tư
liên tục và khấu hao nhanh khiến sản phẩm phải bán với giá cao mới có lãi hoặc chịu
giảm lợi nhuận, tăng tiêu thụ. Điều này gây áp lực với Công ty trong việc quản lý chặt
chẽ chi phí, Hơn nữa Công ty có nhập về một số vật tư từ nước ngoài nên chi phí
nguyên vật liệu lớn, từ đó cũng đội chi phí sản xuất của Công ty lên cao hơn…
Trong năm 2011 mặc dù có sự tăng lên trong đầu tư cho TSCĐ nhưng hiệu quả
sử dụng TSCĐ và vốn cố định có bị giảm sút. Điều này là do công suất của máy móc

thiết bị không phát huy hết tác dụng và việc sử dụng máy móc thiết bị không đồng bộ.
Bên cạnh đó, giá trị còn lại của TSCĐ của Công ty còn rất thấp (phần lớn đã khấu hao
gần hết) do đó ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm
của Công ty. Điều này cho thấy mặc dù tăng về quy mô nhưng nhìn chung tình trạng kỹ
thuật của TSCĐ vẫn chưa được cải thiện, công tác đổi mới dây chuyền thiết bị chưa
đồng bộ và toàn diện làm cho hiệu suất sử dụng TSCĐ trong năm qua giảm xuố
24
PHẦN III: KẾT LUẬN
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong sản xuất kinh doanh có ý nghĩa rất quan
trọng đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Việc sử dụng TSCĐ sao có hiệu
quả là điều kiện bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và phát triển. Do
vậy, việc tìm ra nguyên nhân tồn tại, thiếu sót từ đó đưa ra phương hướng giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ là một đòi hỏi đối với mỗi DN trong điều
kiện hiện nay. Để đánh giá các mặt khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh từ giá
thành tới doanh thu, lợi nhuận, từ chất lượng sản phẩm tới nâng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường … cuối cùng đều được thể hiện các chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp.

×