Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Thực trạng và giải pháp.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.18 KB, 60 trang )

KCN – KCX

:

Khu công nghiệp – Khu chế xuất

KT – XH

:

Kinh tế - Xã hội

CNH – HĐH

:

Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

KTTĐBB

:

Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

BQLKCN

:

Ban quản lý Khu công nghiệp

GDP



:

CSHT
GPMB

Tổng sản phẩm quốc nội
:

:

Cơ sở hạ tầng

Giải phóng mặt bằng

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. KCN dự kiến thành lập mới và mở rộng đến 2015 ..................... 22
Bảng 1.2. Nguồn vốn đầu tư và số dự án KCN qua các năm.......................
31
Bảng 1.3. Số liệu về sử dụng đất..................................................................
45


DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 1.1. Cơ cấu nguồn vốn.........................................................................
34
Biểu 1.2. Tỷ lệ vốn thực hiện các năm.........................................................
36
Biểu 1.3. Số dự án và tổng vốn đầu tư trong, ngoài nước ...........................
37

Biểu 1.4. Vốn giải ngân trên vốn đăng ký....................................................
38
Biểu 1.5. Kết quả hoạt động các KCN ........................................................
40
Biểu 1.6 : Giá trị SXCN .............................................................................. 40
Biểu 1.7 : Giá trị xuất khẩu........................................................................ 40
Biểu 1.8 : Giá trị nhập khẩu........................................................................ 41
Biểu 1.9 : GT nộp ngân sách.......................................................................
42
Biểu 1.10. Số lao động qua các năm ........................................................... 49

MỞ ĐẦU

Trước bậc thềm của thế kỷ XXI, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt
Nam nói riêng đang từng bước tạo những dấu ấn cho một thời kỳ phát triển
đầy năng động. Đặc biệt hơn, Đảng và Nhà nước ta đã và đang chủ trương


phát triển đất nước, tạo một bước nhảy lớn để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước cơng nghiệp.
Để làm được điều đó, chúng ta phải khơng ngừng phấn đấu trong mọi khía
cạnh xã hội nhất mà biểu hiện rõ nhất là tốc độ phát triển kinh tế. Tuy vậy,
những năm 2008 -2009 là giai đoạn mà toàn thế giới đang phải đối mặt với
những thách thức của cuộc khủng hồng tài chính – kinh tế tồn cầu diễn ra
ngoài mong đợi. Bắt nguồn từ Mỹ, cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan
rộng ra tồn thế giới với quy mơ và mức độ nghiêm trọng. Theo đó, Việt
Nam cũng khơng nằm ngồi tầm ảnh hưởng của cuộc đại khủng hoảng này.
Khó khăn chồng chất khó khăn, con đường tiến tới mục tiêu của chúng ta
đến năm 2020 lại càng trở lên gồ ghề hơn bao giờ hết. Thực tế đó địi hỏi
chúng ta phải hết sức tỉnh táo, thận trọng trong từng bước đi, các nhà quản lý

kinh tế cần đưa ra được các giải pháp hữu hiệu cho những vấn đề còn tồn tại
nhằm “một bước đi đôi”, đưa nền đất nước chúng ta đạt được mục tiêu đã
định.
Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ
Kế Hoạch và Đầu tư, em nhận thấy hoạt động phát triển các KCN – KCX
hiện nay có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm: KCN – KCX đã và đang là một
bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong bức tranh chung của toàn nền
kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh sự đóng góp khơng nhỏ vào q trình tăng
trưởng, quá trình thành lập và hoạt động của các KCN đã bộc lộ khơng ít
những bất cập, hạn chế cần khắc phục. Từ nhận thức này, trong khi hoàn
thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp tại Vụ, em đã lựa chọn cho mình đề tài
nghiên cứu: “Đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng Kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ. Thực trạng và giải pháp” những mong nâng cao được sự hiểu biết
về thực trạng phát triển các KCN – KCX cả nước nói chung và vùng
KTTĐBB nói riêng. Đồng thời từ đó từng bước đề ra các giải pháp nhằm xử
lý các vấn đề còn tồn tại nhằm tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ các KCN –
KCX cả nước nói chung và vùng KTTĐBB nói riêng trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng nhưng khơng thể tránh
khỏi những thiếu sót, hạn chế do thiếu thông tin và kinh nghiệm thực tiễn có
hạn. Bởi vậy, rất mong thầy Nguyễn Hồng Minh chỉ bảo, góp ý để chun
đề của em được hồn thiện hơn!
Em cũng xin chân thành cảm ơn quá trình hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
thầy Nguyễn Hồng Minh, sự nhiệt tình và thiện chí giúp đỡ từ các cơ chú,


anh chị tại Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp em
hoàn thành chyên đề này!

Nguyễn Văn Đảm


CHƯƠNG 1 : THỰC TRẠNG
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
CÁCKCN-KCX TẠI VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ.
1.1. Những nét khái quát về Khu công
nghiệp, Khu chế xuất.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm KCN - KCX.
1.1.1.1. Khái niệm.
Xuất phát từ các quốc gia ven bờ Đông và Nam Địa Trung Hải vào đầu thế
kỷ XIX, mơ hình KCN đã manh nha sang Châu Á dưới hình thức hải cảng tự
do. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư, KCN dần
xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như khu mậu dịch tự do, khu quá
cảng, các đặc khu kinh tế…
KCN, KCX ở nước ta được hình thành và phát triển từ năm 1991, khởi đầu
là KCX Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh, đến nay đã trải qua 17 năm
phát triển. Các KCN đã góp phần thúc đẩy cơng nghiệp phát triển, tăng
trưởng kinh tế, hình thành các trung tâm cơng nghiệp gắn liền với phát triển
đơ thị, đẩy nhanh q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH HĐH, góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương, đào tạo cán bộ
quản lý, công nhân lành nghề, tạo điều kiện để xử lý các tác động tới mơi
trường một cách tập trung. Các KCN thực sự đóng vai trị tích cực trong
cơng cuộc CNH-HĐH đất nước.
Theo luật Đầu tư 2005, định nghĩa về KCN, KCX như sau:


Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập theo quy định của Chính Phủ.
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới
địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính Phủ.

Hai định nghĩa này đã cho chúng ta có một quan niệm đúng đắn, chính xác,
từng bước hồn thiện cơ chế quản lý tiến tới phát triển một cách mạnh mẽ
các KCN, KCX, góp phần trong tăng trưởng chính của đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm.
Cho đến nay, các KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia,
đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa
điểm và phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng nói chung, các KCN có
những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Về tính chất hoạt động: KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà khơng có dân cư;
là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc
các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Theo điều
6, Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm Nghị định 36CP thì doanh
nghiệp KCN có thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần
kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi hoặc các bên tham gia Hợp
đồng hợp tác kinh doanh, các doanh nghiệp này được quyền kinh doanh các
lĩnh vực sau:
+ Xây dựng và kinh doanh các cơng trình kết cấu hạ tầng.
+ Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu
dùng ở trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, quy trình cơng nghệ.
+ Nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng và tạo
ra sản phẩm mới.
+ Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp.


- Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ
thống điện nước, điện thoại…Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng
trong KCN do một công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm.

Ở Việt Nam, những công ty này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các
công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó
cho sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại.
- Về tổ chức quản lý: Mỗi KCN đều thành lập hệ thống BQL KCN cấp tỉnh
tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực hiện các chức
năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KCN.
Ở tầm vĩ mơ, quản lý các KCN cịn gồm có nhiều Bộ như Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Cơng nghiệp.
1.1.2. Vai trị của khu cơng nghiệp, khu chế xuất.
Hiện nay KCN - KCX đã và đang có những vai trị to lớn trong q
trình phát triển kinh tế đất nước. Dưới đây là một số vai trị tiêu biểu:
1.1.2.1. Đóng góp lớn vào thành tựu phát triển chung của kinh tế cả nước,
thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Đây có lẽ là một trong những vai trị hàng đầu và cũng là mục tiêu phát triển
các KCN của nhà nước ta. Nếu như trước đây, các đơn vị sản xuất cơng
nghiệp hình thành một cách manh mún, chưa có tổ chức. Điều đó khơng chỉ
tạo cho việc khó khăn trong việc quản lý, quy hoạch mà cịn khơng tạo được
đà trong quá trình phát triển vì mạnh ai người ấy làm, không xem xét đến sự
ảnh hưởng chung như đầu ra của sản phẩm, môi trường, xã hội. Thì nay,
việc quy hoạch các đơn vị đó thành các khu cơng nghiệp, có sự quản lý chặt
chẽ của nhà nước, các KCN đã và đang tạo ra một lượng sản phẩm lớn, góp
phần khơng nhỏ vào tăng trưởng GDP chung của cả nước. Cụ thể như trung
bình giai đoạn 2001-2005, các KCN có tốc độ phát triển trung bình 7,5%,
riêng năm 2006 đạt 8,17% tổng GPD toàn xã hội, ước đạt 61,7 tỷ USD, GDP
bình quân đầu người đạt 11,5 triệu đồng, tương đương 720USD…
Các KCN đã và đang tạo nhân tố chủ yếu trong việc tăng trưởng công
nghiệp theo quy hoạch, tăng khả năng thu hút đầu tư, đẩy mạnh nguồn hàng
xuất khẩu, tạo việc làm và hạn chế tình trạng ơ nhiễm do chất thải cơng

nghiệp gây ra. Chính sự phát triển các KCN cũng đã thúc đẩy việc phát triển


các đô thị mới, phát triển các cơ sở phụ trợ và dịch vụ, tạo điều kiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế xã hội chung. Ảnh hưởng tích cực tác động của các KCN
có thể xác định rõ trên một số khía cạnh chủ yếu như:
Tạo điều kiện mặt bằng thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp cơng
nghiệp mới, tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư cho sản xuất công nghiệp
(bao gồm cả vốn trong và ngoài nước, bao gồm cả vốn đầu tư mở rộng quy
mô sản xuất).
Tạo điều kiện để tập trung xử lý chất thải, bảo vệ môi trường thuận lợi hơn,
hợp lý hơn, đặc biệt là đảm bảo việc hình thành một đô thị hợp lý, bền vững.
Trên cơ sở thuận lợi về mặt bằng sản xuất, các doanh nghiệp có điều kiện
phát triển sản xuất, thu hút thêm lao động, tạo thêm nhiều việc làm cho
người lao động (kể cả làm việc tại các KCN, các việc làm phụ trợ ngoài
KCN, các dịch vụ cần thiết để hỗ trợ cho sự phát triển KCN).
Tạo điều kiện để thực hiện các liên kết, hỗ trợ kinh tế mới (hỗ trợ về công
nghệ, hỗ trợ về quản lý. Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ thông tin,
hiện nay sự gắn kết hỗ trợ các ngành cơ khí, điện, điện tử với nguyên lý điều
khiển số, xử lý tri thức).
Trên cơ sở các kết quả nêu trên sẽ đóng góp đáng kể vào sự phát triển ngành
công nghiệp và đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của bản thân
các địa phương có KCN và cả nước nói chung.
Q trình phát triển các KCN ở Việt Nam thời gian qua đã có những tác
động tích cực đối với nền kinh tế nói chung và cơng cuộc CNH - HĐH nói
riêng. Vai trị quan trọng của các KCN trong q trình CNH - HĐH đã được
thể hiện rõ trong sự đóng góp của các KCN trong việc tạo tốc độ tăng trưởng
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế (khối lượng vốn đầu tư cho công
nghiệp, giá trị doanh thu và xuất khẩu của các KCN, số việc làm tạo ra, trình
độ cơng nghệ và kinh nghiệm quản lý.) tạo nên một số ngành cơng nghiệp có

năng lực cạnh tranh, một vài ngành công nghệ cao (sản xuất các phụ tùng,
phụ kiện cho máy bay Airbus) cũng như sự chuyển giao công nghệ tiên tiến
hơn, kỹ năng quản lý và tiếp thị, đào tạo tay nghề cho người lao động Việt
Nam (kể cả tâm lý xã hội và phong cách lao động công nghiệp - một yếu tố
không nhỏ trong quá trình phát triển).
1.1.2.2. Phát triển KCN, KCX cũng là hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ
tầng


Việc phát triển các KCN trong thời gian qua không những thúc đẩy các
ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy CNH - HĐH nơng nghiệp nơng thơn, mà
cịn đẩy nhanh tốc độ đơ thị hóa, góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ
thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN. Điều này được thể hiện qua một
số khía cạnh sau:
Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự phát
triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa
nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Điều này có thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh
như Biên Hòa, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn
(Bắc Ninh), cùng với quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ
tầng trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia
tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong
vùng.
Cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và cơng tác quản lý thuận lợi
của nhà nước, có thể nói việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn
thiện và đồng bộ các kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trị quyết định trong
việc thu hút đầu tư. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế
(doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh) tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN
không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt

động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng hóa thành phần doanh nghiệp tham
gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn trong việc thu hút doanh nghiệp
cơng nghiệp vào KCN.
Việc đầu tư hồn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các
dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy
mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu
đông dân cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm,
bảo vệ môi trường đơ thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục
đích khác của cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (thành phố Hồ
Chí Minh), Việt Hương (Bình Dương).
Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngồi hàng rào KCN cịn
đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển
các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành cơng
nghiệp phụ trợ, dịch vụ, các cơng trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống


người lao động và cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện,
khu giải trí.
1.1.2.3. KCN, KCX góp phần trong việc nâng cao trình độ cơng nghệ, hiện
đại hóa cách thức quản lý sản xuất.
KCN, KCX là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng
với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây chính là điểm đến lý
tưởng của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngồi. Một số cơng nghệ
tiên tiến, hiện đại trên thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ
doanh nghiệp, trình độ tay nghề của cơng nhân theo các chuẩn mực quốc tế
đã được áp dụng tại Việt Nam. Đây cũng là những nhân tố quan trọng góp
phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
KCN là nơi tiếp nhận cơng nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dịng
vốn đầu tư nước ngồi đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN,

các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với cơng
nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó có cả những dự án cơng nghiệp kỹ thuật
cao (phần lớn của Nhật Bản), như Công ty TNHH Canon Việt Nam,
Mabuchi Motor, Orion Hanel, những lĩnh vực mà chúng ta cịn yếu kém và
cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử.
Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp sử dụng
và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản xuất, nắm
vững cơng nghệ, có tác động lan tỏa và nâng trình độ tay nghề của đội ngũ
lao động Việt Nam lên một bước. Một lượng đáng kể người lao động Việt
Nam được đảm nhận các vị trí quản lý doanh nghiệp, được tiếp xúc với
phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại, kỹ năng marketing,
quản lý tài chính, tổ chức nhân sự. Việc được trực tiếp làm việc trong mơi
trường có kỷ luật cao, u cầu tay nghề cao, dã rèn luyện được những kỹ
năng và bản lĩnh làm việc giúp người lao động Việt Nam thích ứng với một
nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
1.1.2.4. KCN, KCX đã góp phần bảo vệ mơi trường sinh thái.
Hiện nay, với tốc độ phát triển nóng của kinh tế trong nước nói riêng
cũng như thế giới nói chung, vấn đề giải quyết ơ nhiễm mơi trường do q
trình sản xuất cơng nghiệp để lại đã và đang trở lên cấp thiết hơn lúc nào.
Bởi nếu chúng ta cứ chăm chú phát triển mà quên đi vấn đề môi trường,


chẳng bao lâu chính chúng ta sẽ phải nhận hậu quả. Điều này hiện nay đã và
đang thấy rõ.
KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều
kiện tập trung, xử lý chất thải, tạo điều kiện kiểm soát hoạt động của các
doanh nghiệp do sự tập trung về địa điểm sản xuất.
KCN, KCX góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất ơ
nhiễm ra khỏi thành phố, do đó góp phần giải quyết ô nhiễm đô thị, tạo điều

kiện quy hoạch đô thị hiện đại.
Thực tế cho thấy các một số KCN, KCX thực hiện rất tốt và hài hoà
mục tiêu thu hút đầu tư với giải quyết vấn đề môi trường, thực sự là những
“công viên công nghiệp”, là mẫu hình để các KCN, KCX khác tiếp tục triển
khai áp dụng, điển hình là KCN Biên Hồ II, KCN Bắc Thăng Long, KCX
Tân Thuận.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư phát triển các KCN
– KCX.
1.1.3.1. Các nhân tố vĩ mơ:
- Tình hình phát triển chung của toàn nền kinh tế: Đây một yếu tố dễ thấy
trong sự ảnh hưởng đến sự phát triển của các KCN nói chung. Bởi khi nền
kinh tế có tốc độ phát triển cao đồng nghĩa với cung - cầu linh hoạt, xuất
nhập khẩu cũng có những biểu hiện tích cực, góp phần đẩy nhanh đầu ra mà
cịn dễ dàng trong việc thu hút các đầu vào như vốn, nguồn lực... Ngược lại,
khi nền kinh tế lâm vào suy thoái hoặc trì trệ phát triển. Biểu hiện dễ thấy
nhất là tình hình kinh tế thế giới nói chung và trong nước nói riêng hiện nay.
Điều đó sẽ gây ra nhiều tác động tới quá trình phát triển của nền kinh tế nói
chung và sự phát triển của các KCN nói riêng: các nhà đầu tư dè dặt hơn, lao
động bị cắt giảm, đầu ra sản xuất theo đó cũng giảm sút rõ rệt…Theo đó,
đây là một trong những yếu tố khá quan trọng và có tác động lớn, từ đây đặt
ra u cầu Chính phủ mỗi nước cần có các chính sách hợp lý, tránh để nền
kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng mà nguyên nhân xuất phát từ chính
nội tại nền kinh tế.
- Chính sách thu hút đầu tư và quy hoạch phát triển của Chính phủ: Mỗi
Chính phủ trong quá trình phát triển nền kinh tế của mình sẽ có những kế
hoạch cụ thể. Theo đó việc đưa ra những chiến lược thu hút đầu tư nhiều hay
ít, bằng biện pháp nào sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến


lượng vốn thu hút và tốc độ phát triển các KCN. Khi chúng ta đưa ra được

một quy hoạch chi tiết và một kế hoạch cụ thể trong giai đoạn, việc thực
hiện và đạt được các mục tiêu đề ra đó sẽ đảm bảo cho tính phát triển ổn
định và bền vững các KCN sau này.
- Các cơ chế quản lý: Là hệ thống văn bản pháp luật như Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Đấu thầu…các Nghị định, Thông tư, Chế
tài…nhằm điều chỉnh các quan hệ đầu tư nói chung và đầu tư vào các KCN
nói riêng theo các quy tắc nhất định. Hệ thống các văn bản quy phạm Pháp
luật này sẽ có những tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động đầu tư
tùy theo trình độ xây dựng, soạn thảo của từng quốc gia, trong từng thời kỳ.
Theo đó, khi hệ thống văn bản này được xây dựng và thể hiện khả năng điều
chỉnh thực tiễn tốt, nó sẽ giúp giải quyết hài hịa các quan hệ mâu thuẫn, mặt
khác nó sẽ góp phần tăng thêm lòng tin cho các nhà đầu tư trong quá trình
bỏ vốn, ổn định sản xuất. Bởi vậy quá trình đầu tư cũng sẽ diễn ra nhanh và
ổn định hơn. Thời gian qua chúng ta đang dần hoàn thiện mục tiêu “một cửa,
tại chỗ” với các thủ tục đầu tư, đã góp phần tạo thêm sự thuận lợi và niềm
tin cho các nhà đầu tư. Đây là một bước đi quan trọng trong tiến trình hồn
thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư. Do đó các cơ chế
quản lý cũng là một trong những nhân tố vĩ mô quan trọng ảnh hưởng đến
quá trình đầu tư phát triển các KCN, địi hỏi các nhà quản lý cần có sự linh
hoạt và nhanh nhạy trong việc xây dựng và triển khai một cách hợp lý.
1.1.3.2. Các nhân tố vi mô:
- Cơ sở hạ tầng tại nơi hình thành KCN: Đây là nhân tố có ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình thu hút vốn cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh khi
xây dựng xong hàng rào KCN. Hệ thống CSHT gồm giao thông, điện nước,
thơng tin liên lạc có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các KCN. Một
KCN đặt ở vị trí nơi đường xá đi lại khó khăn, điện nước khơng ổn định,
thơng tin liên lạc kém sẽ làm nản lịng các nhà đầu tư, dần dần sẽ khơng cịn
nhiều nhà đầu tư bỏ vốn. Điều đó cũng giải thích cho tính hấp dẫn các nhà
đầu tư tại các đơ thị lớn, nơi có hệ thống đường xá, điện nước, thơng tin liên
lạc tốt phục vụ quá trình phát triển. Từ đó ta thấy được, trước khi xây dựng

KCN cần nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố có ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất, hoặc đầu tư vào CSHT trước khi xây dựng các KCN, vừa là đảm bảo
cho các KCN phát triển tốt, vừa là tránh được những lãng phí khơng đáng có
khi hình thành lên các KCN.


- Định hướng phát triển KCN và chính sách thu hút nhà đầu tư của địa
phương: Đây là một nhân tố thuộc nội tại địa phương hình thành KCN. Cũng
giống như trên phạm vi vĩ mơ, các chính sách và định hướng phát triển của
địa phương cũng có những ảnh hưởng đáng kể đến mức độ phát triển các
KCN.
- Mức độ phát triển của địa phương: Đây là một yếu tố khách quan có tác
động tích cực hay tiêu cực, giống như nhân tố vĩ mô là tốc độ phát triển của
nền kinh tế, mức độ phát triển của địa phương phải đạt một ngưỡng nhất
định để tạo điều kiện cho phát triển các KCN.
- Tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực: Đây là các nhân tố về nguồn lực
đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của các KCN. Nếu vị trí xây dựng KCN có
tài ngun đầu vào cho quá trình sản xuất phong phú, nguồn lao động đáp
ứng yêu cầu…thì sẽ tạo động lực cho các KCN phát triển mạnh.
- Ngồi ra, một yếu tố khơng thể thiếu khi đề cập đến hiệu quả hoạt động các
KCN, trên phương diện chủ quan, là trình độ quản lý sản xuất của các nhà
đầu tư. Đây là một yếu tố có ảnh hưởng quyết định sự hiệu quả của mỗi dự
án nói riêng mà cịn là hiệu quả của cả KCN nói chung.

1.2. Sơ lược về q trình hình thành và
phát triển các KCN, KCX Việt Nam.
Khu công nghiệp (KCN), Khu chế xuất (KCX) hình thành và phát triển gắn
liền với công cuộc Đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986). Đại hội VI đã đánh dấu bước
đổi mới căn bản về nhận thức và tư duy về kinh tế mà trọng tâm là chủ

trương chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế
hàng hố nhiều thành phần. Việc hình thành mơ hình KCN, KCX kiểu mới
đang được áp dụng hiện nay là nơi tập trung và thu hút các thành phần kinh
tế đã thay thế dần mơ hình KCN kiểu cũ là nơi tập trung các doanh nghiệp
quốc doanh thuộc các ngành công nghiệp nặng bắt nguồn từ tư duy đổi mới
về kinh tế tại Đại hội VI.
Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ thứ 20, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và sự
sụp đổ của Liên Xô đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế và đời sống xã
hội nước ta, là một trong những đòi hỏi thực tiễn khách quan để Đại hội VII
đề ra những đường lối, chủ trương đổi mới mạnh mẽ và toàn diện, thực hiện


cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trên cơ sở điều kiện của đất nước và
yêu cầu của thời đại, được cụ thể hoá bằng Chiến lược tổng thể phát triển
kinh tế xã hội 1991 – 2010. Hàng loạt các chương trình kinh tế – xã hội
được triển khai để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, trong đó có chính
sách phát triển KCN, KCX với sự ra đời của KCX Tân Thuận, thành phố Hồ
Chí Minh (1991) và ban hành Quy chế KCX (Nghị định 322/HĐBT ngày
18/10/1991) và Quy chế KCN (Nghị định 192/CP ngày 28/12/1994).
Tiếp đó, định hướng chiến lược về quy hoạch phát triển và phân bố KCN,
KCX đã được Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ
tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII 1-1994: “Quy hoạch các vùng, trước
hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghiệp
tập trung”. Đến Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng, định hướng này được phát triển cụ thể: "Hình thành các khu công
nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa
bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh
công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải
tạo các cơ sở cơng nghiệp hiện có, đưa các cơ sở khơng có khả năng xử lý ơ
nhiễm ra ngồi thành phố, hạn chế việc xây dựng các khu công nghiệp mới

xen lẫn với khu dân cư". Lộ trình thực hiện được nêu ngắn gọn và tổng quát
trong Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII là: "Phát
triển từng bước và nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp". Đây cũng là
những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát
triển các KCN, KCX nhằm thúc đẩy tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tại
Đại hội IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005
tiếp tục khẳng định: "Quy hoạch phân bố hợp lý cơng nghiệp trên cả nước.
Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số
khu cơng nghệ cao, hình thành các cụm cơng nghiệp lớn và các khu kinh tế
mở". Báo cáo chính trị tại Đại hội X một lần nữa khẳng định chủ trương
“Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các
khu công nghiệp, khu chế xuất”, đồng thời khẳng định tư tưởng tăng trưởng
kinh tế đi đôi với phát triển bền vững, trong đó phát triển bền vững KCN,
KCX được thể hiện ở những mục tiêu cụ thể trong Báo cáo phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010: “…tất cả các khu
công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung…”.
Nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình thành
hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN, KCX;
khẳng định vai trò của KCN, KCX trong việc “tạo nền tảng để đến năm


2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như
Nghị quyết Đại hội X đã nêu rõ; đây chính là cơ sở để triển khai xây dựng
quy hoạch, cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX trong 15 năm qua và
trong giai đoạn tới.
Trong năm 2008, có 48 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được
cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 40 KCN với tổng diện tích đất tự
nhiên 15.675,6 ha (tăng 73% so với năm 2007) và mở rộng 8 KCN với tổng
diện tích đất tự nhiên 2.810,8 ha (tăng 41,1% so với năm 2007). Năm 2008

là năm có số lượng KCN được thành lập mới và mở rộng nhiều nhất trong
gần 17 năm xây dựng và phát triển KCN. Kết quả này xuất phát từ nhu cầu
phát triển KCN của các địa phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư
hiện đang tăng cao trên cả nước. Mặt khác, do nhiệm vụ cấp Giấy chứng
nhận đầu tư cho Dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN đã được phân cấp về
địa phương, nên đã tạo điều kiện cho các địa phương chủ động và đẩy nhanh
q trình thực hiện thủ tục đầu tư.
Tính đến cuối tháng 12/2008, cả nước đã có 219 KCN được thành lập với
tổng diện tích đất tự nhiên là 61.472,4 ha, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố
trên cả nước. Trong đó, diện tích đất cơng nghiệp có thể cho thuê theo quy
hoạch đạt gần 40. 000 ha, chiếm 65% diện tích đất cơng nghiệp. Theo quy
hoạch, từ nay đến năm 2015 sẽ thành lập thêm 91 KCN với tổng diện tích
20.839 ha và mở rộng thêm 22 KCN với tổng diện tích 3.543 ha. Dự kiến
đến năm 2015 sẽ có thêm 24.381 ha đất KCN.
Như vậy, sau 17 năm hình thành và phát triển, đến nay các KCN đã và đang
có những đóng góp to lớn vào q trình chuyển biến của nền kinh tế. Từ đó
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy được tầm quan trọng và việc thúc đẩy
phát triển hơn nữa các KCN trong tương lai.

1.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ.
Đảng ta đã có chủ trương phát triển các lãnh thổ trọng điểm ở Việt Nam đã
được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và tiếp
tục được khẳng định trong các Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, lần thứ IX


và lần thứ X, trong đó với việc thành lập các vùng KTTĐBB, miền Trung và
phía Nam nhằm phát huy tối đa các lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra các

vùng kinh tế có tính chất động lực và điều kiện bứt phá, lôi kéo và lan tỏa
phát triển các vùng khác.
Trước năm 2003, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 5 tỉnh Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên và Hải Dương. Sau hội nghị các tỉnh vùng
kinh tế trọng điểm ngày 14-15/7/2003, Thủ tướng Chính Phủ ra quyết định
mở rộng ranh giới vùng KTTĐ Bắc Bộ với việc bổ sung thêm 3 tỉnh Hà Tây,
Bắc Ninh, Vĩnh Phúc. Tuy nhiên đến nay, khi tỉnh Hà Tây đã được sáp nhập
vào Hà Nội thì vùng KTTĐ Bắc Bộ chỉ còn được đề cập đến như 7 tỉnh,
trong đó thủ đơ Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và quan hệ
quốc tế của cả nước. Vùng KTTĐBB nằm trong lưu vực các sông lớn như
sơng Hồng, sơng Cầu, sơng Đuống, sơng Thái Bình; phía Bắc giáp vùng
Đơng Bắc, phía Tây giáp vùng Tây Bắc là cửa ngõ thơng thương với Trung
Quốc; phía Nam giáp vùng Bắc Trung bộ là cửa ngõ thông thương với Lào
và phía Đơng giáp biển Đơng. Trong vùng vừa có đồng bằng, trung du, miền
núi và duyên hải; là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thế về đường biển, đường sắt,
đường bộ và đường hàng không, giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong cả
nước và các quốc gia trên thế giới. Tài nguyên thiên nhiên như đất, nước,
khoáng sản, tài nguyên rừng và đa dạng sinh học trong vùng hết sức đa dạng
và phong phú. Hệ thống đô thị phát triển rộng khắp. Công nghiệp phát triển
sớm, tập trung đội ngũ doanh nhân lớn. Nguồn nhân lực của Vùng KTTĐBB
khoảng 7,48 triệu lao động (chiếm 55,4% tổng dân số - số liệu thống kê năm
2005), là nguồn lao động có chất lượng khá cao so với mức trung bình của
cả nước. So với các vùng kinh tế khác, Vùng KTTĐBB là nơi tập trung
nhiều nhất các viện nghiên cứu, các trường đại học. . Chủ trương và định
hướng phát triển đối với Vùng KTTĐBB đã được đề cập khá rõ trong các
Quyết định số 747/TTg, số 145/2004/QĐ-TTg và Nghị quyết số 54-NQ/TW.
Mặc dù ảnh hưởng của lạm phát và biến động giá cả do trên thị trường thế
giới thường xuyên tạo ra mặt bằng giá mới, song các tỉnh thuộc Vùng KTTĐ
Bắc bộ vẫn tăng trưởng về kinh tế, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể.
Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Vùng năm

2007 đạt 13,2%; thu nhập bình quân đầu người đạt 16,6 triệu đồng, cao gấp
1,4 lần so với mức bình quân chung của cả nước. Tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu đạt 26,2 tỷ USD; thu ngân sách tăng bình quân 19,2%, cao hơn với
mức bình quân của cả nước (18,3%); tổng thu ngân sách đạt 75.260 tỷ đồng,
tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt 34,8%. Trong 2 năm 2006-2007, tổng
vốn đầu tư xã hội để phát triển của Vùng đạt khoảng 237 nghìn tỷ đồng, gần


bằng tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 5 năm 2001-2005 (257 nghìn tỷ đồng),
tốc độ tăng vốn đầu tư bình qn đạt 25,4%/năm.
Tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, Vùng KTTĐ Bắc bộ có 2.220 dự án
cịn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án và 27%
tổng vốn đăng ký và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước. Trong đó Hà Nội
đứng đầu với 987 dự án có tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD, chiếm 51% vốn
đăng ký và 50% vốn thực hiện của cả vùng.
Nhìn chung, vùng KTTĐ Bắc Bộ đã và đang hội tụ đầy đủ các điều kiện về
kinh tế-xã hội cho phát triển kinh tế nói chung và khai thác triệt để lợi thế
của các KCN nói riêng, tiến tới trở thành đầu tầu trong phát triển kinh tế cả
nước.
1.3.2. Nhu cầu phát triển các KCN vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Với lợi thế tập trung các nguồn lực, dễ dàng trong việc quản lý và
triển khai các chính sách kích thích phát triển, các KCN vùng KTTĐ đã và
đang góp phần khơng nhỏ trong tốc độ phát triển chung của kinh tế toàn
vùng. Trước hiệu quả đó, nhu cầu phát triển, phát triển nhanh, bền vững các
KCN đang ngày càng trở lên bức xúc. Dưới đây là bảng các KCN dự kiến
mở rộng và thành lập mới với các tỉnh trong Vùng:

Bảng 1.1. KCN dự kiến thành lập mới và mở rộng đến 2015

Tỉnh, thành

phố

KCN dự kiến thành lập mới đến 2015
STT
1
2

Bắc Ninh

Tên KCN
KCN trong KCN, đô thị,
dịch vụ Nam Sơn - Hạp
Lĩnh (1.000 ha)
KCN trong KCN, đô thị,
dịch vụ Yên Phong II
(1.200 ha)

KCN dự kiến mở rộng đến 2015

Diện tích
(ha)

STT

197.5

1

KCN Tiên Sơn


100

1000

2

KCN Đại Đồng Hồn Sơn

300

3

KCN Thuận Thành

200

4

KCN trong KCN, đơ thị,
dịch vụ Đại Kim (1.000
ha)

766

Tên KCN

Diện tích
(ha)



5

300

6

KCN Sóc Sơn

300

7

KCN Bắc Thường Tín

162

8

KCN Phú Thái

72

3

KCN Đại An

37

9


KCN Quốc Tuấn - An
Bình

180

4

KCN Phúc Điền

200

10

KCN Kim Thành

150

5

KCN Tân Trường

100

11

KCN Lương Điền Ngọc Liên

150

6


KCN Việt Hịa Kenmark

90

12

KCN Bình Giang

150

13

KCN Thanh Hà

150

14

KCN Hồng Diệu

250

15

KCN Hưng Đạo

200

16


KCN Đị Nống - Chợ
Hỗ

150

7

KCN Đình


200

17

KCN Nam Cầu Kiền

100

8

KCN
Normura

200

18

KCN Tàu thuỷ An Hồng


30

19

KCN thị xã Hưng Yên

60

20

KCN Vĩnh Khúc

200

21

KCN Minh Quang

350

22

KCN Đông Mai

200

23

KCN Tàu thuỷ Cái Lân


70

24

Hà Nội

KCN Đơng Anh

KCN Chấn Hưng

80

9

KCN Quang
Minh

95

25

Bình Xưn II

700

Hải Dương

Hải Phòng

Hưng Yên


Quảng Ninh

Vĩnh Phúc


Qua bảng trên ta thấy được tổn tồn Vùng có 25 KCN dự kiến thành
lập mới với tổng diện tích 6167,5 ha và 9 KCN dự kiến mở rộng với tổng
diện tích 1322 ha. Điều đó cho thấy nhu cầu phát triển các KCN của toàn
Vùng rất lớn. Nếu trong 17 năm hình thành và phát triển, mới có 52 KCN
được hình thành trên tồn Vùng thì chỉ tính từ nay đến 2015, trong 6 năm sẽ
có 25 KCN được thành lập mới (tăng 48,1%) và nhiều KCN được mở rộng.
Với tốc độ và xu thế phát triển kinh tế hiện nay, nhu cầu này cũng là dễ hiểu.
Tuy nhiên cùng với đó cũng sẽ nảy sinh khơng ít vấn đề tồn tại cần giải
quyết đòi hỏi các nhà quản lý cần có cái nhìn bao qt, tồn diện và những
biện pháp triệt để khắc phục. Dưới đây là phần nghiên cứu thực trạng hiện
nay, qua đó khơng chỉ thấy được hiệu quả đầu tư phát triển các KCN mà cịn
thấy được các tồn tại để từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục.
1.3.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng KTTĐ Bắc
Bộ.
1.3.3.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các KCN.
a) Sự phù hợp về quy hoạch KCN:
Quy hoạch là một trong những vấn đề đang được đề cập nhiều đến hiện nay.
Sở dĩ như vậy là vì quy hoạch là một phần tất yếu của quá trình phát triển.
Chúng ta cũng thấy được là khi một nền kinh tế phát triển đến một trình độ
nhất định, nó sẽ kéo theo địi hỏi một sự quy hoạch tốt, từ đó có thể dễ dàng
triển khai các công nghệ quản lý, đáp ứng được u cầu phát triển. Bên cạnh
đó, quy hoạch tốt cịn mang lại nhiều lợi ích trên phương diện tổng thể như
tiết kiệm chi phí, đảm bảo yêu cầu về thẩm mỹ kiến trúc thành phố…Về vấn
đề này, thực trạng quy hoạch các KCN Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có

những nét tương đồng với thực trạng của cả nước. Theo đó, người ta thường
xem xét từ 2 khía cạnh: Quy hoạch tổng thể và Quy hoạch chi tiết. Về Quy
hoạch tổng thể, cho đến nay, chúng ta đã xây dựng được Quy hoạch tổng thể
phát triển các KCN Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến 2020. Ưu điểm
cơ bản của quy hoạch tổng thể là đã cho chúng ta một cái nhìn tồn cục về
sự phân bố và định hướng phát triển các KCN trên phạm vi cả nước trong
những năm tới; thể hiện được quan điểm ưu tiên tập trung phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời vẫn chú trọng việc phát triển hợp lý
những vùng khác; đưa ra được nhiều giải pháp có tính khả thi cao và đề xuất
các cơ chế, chính sách cũng như tiến độ cụ thể để thực hiện quy hoạch. Đối
với các công ty quy hoạch chi tiết, trước khi triển khai đầu tư xây dựng hạ
tầng và kêu gọi các nhà đầu tư, mỗi KCN đều phải xây dựng và phê duyệt


quy hoạch chi tiết; trong đó, dự kiến tỉ lệ đất đai và vị trí cụ thể cho xây
dựng nhà máy, kho bãi, các cơng trình hạ tầng nội bộ KCN, khu vực xử lý
chất thải tập trung, khu hành chính, quản lý, khu cây xanh, đồng thời cũng
đề ra các giải pháp di dân, tái định cư (nếu có), đền bù, giải phóng mặt bằng,
tiến độ đầu tư và dự kiến các ngành cơng nghiệp sẽ bố trí trong KCN để làm
căn cứ kêu gọi đầu tư. Như vậy, có thể thấy việc xây dựng các KCN hình
thành dựa trên nguyên tắc phải tuân thủ quy hoạch.
Xét về tính chất, quy hoạch tổng thể các KCN có thể coi là quy hoạch
“cứng”, tức là chỉ có thể đầu tư xây dựng KCN và được hưởng các khuyến
khích, ưu đãi theo quy hoạch của Chính phủ nếu nó có tên trong quy hoạch
được duyệt. Đối với quy hoạch chi tiết, độ mở có lớn hơn, tức là tỉ lệ diện
tích đất đai dành cho các phân khu chức năng thì phải tn thủ khá chặt chẽ,
cịn loại hình, quy mơ, số lượng doanh nghiệp, cơ cấu sản phẩm dự kiến khi
lập quy hoạch thì chỉ mang tính định hướng. Cả 2 loại quy hoạch “ tổng thể
và chi tiết” đều dựa trên nguyên tắc sau khi được phê duyệt đều phải được
công bố rộng rãi để không chỉ các nhà đầu tư mà cả nhân dân địa phương

đều biết.
Nhìn chung, trong những năm qua, về cơ bản công tác quản lý thực hiện quy
hoạch các KCN ngày càng cao, các KCN ngày càng mang dáng vẻ chính
quy và sự đóng góp của chúng vào sự nghiệp phát triển của ngành công
nghiệp ngày càng rõ nét. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, công tác quy
hoạch các KCN thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể
như sau:
- Đối với quy hoạch tổng thể:
Công tác quy hoạch tổng thể chưa đảm bảo tính “đi trước” do được
xây dựng khá muộn, khi đã hình thành một loạt KCN. Nói cách khác, quy
hoạch của chúng ta trên thực tế là chạy theo để khắc phục việc đã rồi. Do mơ
hình KCN cịn khá mới mẻ nên suốt một thời gian dài (hơn 10 năm) các
KCN đều được thành lập trên cơ sở các quyết định riêng biệt của Thủ tướng
Chính phủ mà khơng có quy hoạch. Chính vì vậy, quy hoạch tổng thể được
xây dựng trước hết trên cơ sở hợp thức hóa sự tồn tại của những KCN đã có
hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận về mặt chủ trương, chỉ bổ
sung thêm một số khu mới. Ngồi ra, do nhu cầu (đơi khi thiếu cơ sở) và áp
lực của các địa phương mong muốn sớm có KCN nên tính hợp lý và khoa
học của quy hoạch tổng thể chưa cao, chưa dựa trên các phân tích, đánh giá
một cách tổng thể về tiềm năng, lợi thế, khả năng huy động các nguồn lực


tổng hợp khơng chỉ của từng địa phương mà cịn cả tồn vùng, dẫn đến tình
trạng hiệu quả sử dụng đất đai chung chưa cao, một số KCN không phát huy
được tác dụng mong muốn, tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong đầu tư còn
khá phổ biến, nhiều KCN đã phải mở rộng, trong khi khơng ít KCN khác
khơng tìm được nhà đầu tư, thậm chí phải giải thể (như KCN Đài Tư (Hà
Nội), KCN Đồ Sơn (Hải Phòng).
Thiếu sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với các quy hoạch liên quan khác trong
quá trình xây dựng, trước hết là quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch tổng

thể phát triển công nghiệp, quy hoạch hạ tầng, quy hoạch dân cư , đơ thị,
quy hoạch lao động, bên cạnh đó, khả năng dự báo lại chưa cao nên dẫn đến
tình trạng bố trí các KCN nhìn trên bình diện tổng thể cịn bất hợp lý, vừa có
tình trạng dàn trải, vừa có biểu hiện tập trung quá cao ở một số vùng, địa
phương, lãng phí vốn đầu tư, lựa chọn địa diểm không hợp lý , không hấp
dẫn nhà đầu tư (vùng hoang vu, đồi núi, đầm lầy), bố trí KCN nhưng khơng
tính đến khả năng mở rộng đơ thị, chiếm dụng quá nhiều đất sản xuất nông
nghiệp, thiếu lao động được đào tạo trong khi người dân bị thu hồi đất lại
khơng có việc làm, thiếu nhà ở cho cơng nhân.
Tính định hướng của quy hoạch tổng thể về phân loại trình độ (loại hướng
tới tiêu chuẩn quốc tế, loại đạt tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn quốc gia) và
tính chất của các KCN (tổng hợp hay chuyên ngành) chưa rõ ràng. Chính
những điểm khiếm khuyết này cộng với tâm lý nơn nóng đầu tư của các địa
phương đã dẫn đến các hệ quả là khơng có sự khác biệt về mức độ ưu tiên và
hỗ trợ của Chính phủ. Vì thế, nhiều địa phương tự đưa ra các cơ chế, chính
sách vượt khung và khi tiến hành xây dựng quy hoạch chi tiết các KCN, hầu
hết các địa phương đều thiên về hướng xây dựng KCN tổng hợp trong đó
bao gồm nhiều loại ngành nghề sản xuất, đơi khi tác động xấu lẫn nhau và
làm giảm khả năng liên kết, hợp tác.
- Đối với quy hoạch chi tiết:
Lựa chọn quy mơ khơng thích hợp, khơng tính tốn đầy đủ đến khả năng thu
hút các dự án đầu tư, cả đầu tư và kinh doanh hạ tầng KCN cũng như đầu tư
sản suất trong KCN. Điều này dẫn đến nhiều bất cập khác: KCN đưa vào
hoạt động không đồng bộ, tỉ lệ lấp đầy thấp, lãng phí vốn đầu tư, thiếu căn
cứ để tính tốn quy mơ, cơng suất hợp lý của các cơng trình hạ tầng kỹ thuật
phục vụ (cấp điện, nước, xử lý chất thải). Ví dụ, căn cứ vào tổng công suất
điện tiêu thụ dự kiến trong quy hoạch chi tiết, ngành điện có trách nhiệm
phải đầu tư điện đi trước một bước (trạm biến áp, đường dây), song trên thực



tế do phụ tải thấp (khơng có dự án đầu tư), trạm biến áp chỉ sử dụng một
phần nhỏ công suất, gây tổn thất rất lớn.
Phần lớn các KCN đều mang tính tổng hợp, có mục tiêu thu hút nhiều loại
hình doanh nghiệp, kinh doanh các ngành nghề khác nhau. Vì vậy, cơ cấu
đầu tư đề ra trong nhiều trường hợp khơng hợp lý, khơng xuất phát từ việc
phân tích đầy đủ, sâu sắc những tiềm năng, thế mạnh của địa phương (kể cả
tiềm năng, thế mạnh sẵn có cũng như có thể chủ động tạo ra trong tương lai)
và mối liên kết liên vùng. Đặc điểm này sẽ gây khó khăn cho cơng tác quản
lý về sau, chứa đựng nhiều nguy cơ ảnh hưởng xấu lẫn nhau (ví dụ: nhà máy
hóa chất hoặc luyện kim sẽ tác động xấu đến nhà máy chế biến thực phẩm,
may mặc, lắp ráp điện tử), gây khó khăn cho việc xử lý mơi trường và khó
thu hút đầu tư theo đúng mục tiêu dự kiến.
Xây dựng quy hoạch chi tiết KCN, nhưng không tính tốn đầy đủ đến khả
năng cung cấp lao động hoặc coi việc tuyển dụng, đào tạo lao động là việc
của nhà đầu tư hoặc của Ban Quản lý KCN. Vì vậy khơng thu hút được các
nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài.
Trước đây, khi xây dựng quy hoạch chi tiết KCN thường ít chú đến vấn đề
nhà ở và các cơng trình phúc lợi cho cơng nhân, do đó, phát sinh rất nhiều
vấn đề phức tạp. Vài năm gần đây, nhược điểm này đã được chú trọng khắc
phục khi xây dựng quy hoạch chi tiết các KCN mới.
Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa công tác xây dựng quy hoạch với công tác
xúc tiến, vận động đầu tư.
Những tồn tại, bất cập nêu trên có nguyên nhân chủ yếu là do năng lực của
các tổ chức tư vấn xây dựng quy hoạch cũng như cơ quan thẩm định quy
hoạch cịn hạn chế, thiếu tầm nhìn, thiếu kinh nghiệm. Bên cạnh đó, các yếu
tố khác như tâm lý nơn nóng phát triển các KCN, coi KCN như một “phép
màu” thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn của một số cấp chính
quyền địa phương; sự chậm trễ, thiếu đồng bộ trong việc xây dựng các quy
hoạch liên quan; sự thiếu quan hệ hợp tác, liên kết giữa các địa phương trong
cùng một vùng cũng góp phần khơng nhỏ tạo ra những tồn tại, bất cập đó.

Ngồi ra, cịn phải kể đến một ngun nhân nữa là chúng ta tiến hành xây
dựng quy hoạch các KCN trong khi khái niệm, tiêu chí về KCN cịn nhiều
điểm chưa rõ ràng. Nghị định số 36/CP ngày 24-4-1997 của Chính phủ về
Quy chế Khu cơng nghiệp, Khu chế xuất và Khu công nghệ cao đã bộc lộ


khá nhiều bất cập, không phù hợp với yêu cầu của tình hình mới song chưa
được điều chỉnh, sửa đổi.
Trên bình diện QLNN, việc tồn tại quá nhiều đầu mối hiện nay cũng là một
trong những yếu tố hạn chế chất lượng của cơng tác quy hoạch các KCN. Ví
dụ, theo các quy định hiện hành, việc xây dựng các quy hoạch tổng thể các
KCN do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm, trong khi đó chỉ đạo,
hướng dẫn xây dựng và phê duyệt quy hoạch chi tiết lại do Bộ xây dựng
thực hiện, còn chỉ đạo việc phát triển các ngành nghề trong KCN lại là việc
của Bộ Cơng nghiệp. Đó là chưa nói đến việc thu hút, vận động đầu tư vào
các KCN, có nơi thì giao cho Ban quản lý KCN làm đầu mối, có nơi giao
cho Sở Kế hoạch và Đầu tư, một vài địa phương lại giao cho Sở Công
nghiệp.
Trên đây là những nét chung trong bức tranh quy hoạch phát triển KCN cả
nước, trong đó có các KCN vùng KTTĐ Bắc Bộ. Một số KCN có trong
Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt (tại các Quyết định số 519/TTg ngày 6/8/1996 và số
194/1998/QĐ-TTg ngày 01/10/1998 của Thủ tướng Chính phủ) hoặc đã
được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương xây dựng KCN trước
năm 2000 nhưng hiện chưa được thành lập gồm: KCN Đông Anh (Hà
Nội), KCN Minh Đức (Hải Phòng). Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc
KCN không được thành lập là do khơng có chủ đầu tư hạ tầng KCN.
Ngồi ra, vị trí quy hoạch của KCN Tam Điệp nằm sát với thị xã Tam
Điệp, sản lượng khai thác khí mỏ Tiền Hải giảm đã có tác động đáng kể
tới tình hình phát triển của các KCN này.

b) Tình hình thu hút đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng KCN:
- Tình hình kết cấu hạ tầng:
Sau 17 năm hình thành và phát triển, đến nay các KCN trên cả nước nói
chung và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói riêng đã hình thành được
một hệ thống kết cấu hạ tầng nhất định. Theo số liệu thống kê, nguồn vốn
đầu tư và số dự án KCN được hình thành qua các năm trong bảng dưới
đây:


Bảng 1.2. Nguồn vốn đầu tư và số dự án KCN qua các năm.
Năm
Số DA
Vố
n
ĐK

1998 1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005


2006

2007

2008

12

12

12

12

14

19

20

23

25

34

52

Triệu
USD


661.63

661.63

565.63

565.63

589.38

562.93

562.93

562.93

490.93

847.73

1974.77

Tỷ
VNĐ

615.90

615.90


2055.90

2055.90

2899.10

2497.43

3820.60

4767.11

6028.19

10352.54

16706.68

(Nguồn: Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ KH & ĐT)

Qua bảng trên ta thấy: Trước năm 2003, vùng KTTĐ Bắc Bộ mới gồm có
5 tỉnh, thời gian này cũng là có thể coi là khoảng thử nghiệm phát triển
các KCN nên cả số dự án và số vốn đều còn khá khiêm tốn. Kể từ khi
thành lập đến hết năm 2003 mới có 19 dự án KCN được triển khai thực
hiện, chiếm 19,79% số KCN toàn quốc với tổng số vốn đầu tư tương
đương 11504,31 tỷ đồng. Giai đoạn sau năm 2003 vùng KTTĐ Bắc Bộ có
thêm 3 tỉnh và cũng là giai đoạn tăng nhanh cả về số lượng và vốn đầu tư
các dự án KCN. Tính trung bình giai đoạn 2003 – 2008 số dự án KCN
tăng qua các năm bằng 485,7% giai đoạn 1998 – 2003. Như vậy, tính đến
12/2008, vùng KTTĐ Bắc Bộ đã có 52 KCN, trong đó có 30 khu đang

hoạt động và 22 khu đang trong thời kỳ triển khai xây dựng cơ bản. Tổng
diện tích đất quy hoạch phát triển KCN đã thành lập đạt 6.455 ha trong đó
diện tích đất cơng nghiệp có thể cho thuê chiếm 66,3%. So với cả nước,
tổng diện tích đất quy hoạch phát triển KCN của vùng KTTĐ Bắc Bộ
chiếm 16,5%. Tất cả các KCN đã được thành lập thuộc vùng KTTĐ đều
có trong Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2000 được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt (tại các Quyết định số 519/TTg ngày 6/8/1996, số
713/TTg ngày 30/8/1997 và số 194/1998/QĐ-TTg ngày 01/10/1998 của
Thủ tướng Chính phủ), Quy hoạch phát triển KCN ở Việt Nam đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định 1107/2006/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 hoặc đã được Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương xây dựng KCN. Ngồi ra, các
KCN đó được thành lập đều phự hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội và Quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm
của các địa phương. Khoảng 53% diện tích đất cơng nghiệp của các KCN
được thành lập đã xây dựng xong kết cấu hạ tầng. Một số KCN đã đầu tư
hoàn chỉnh các hạng mục kết cấu hạ tầng, cơng trình xử lý nước thải tập


trung, cơng trình tiện nghi, tiện ích cơng cộng (trung tâm điều hành, cây
xanh) gồm: KCN Cái Lân, Nomura, Nam Sách, Thăng Long, Hà Nội-Đài
Tư. Đối với các KCN đang hoạt động khác chủ yếu đang tập trung vào
việc hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đầu tư xây dựng công trình xử lý nước
thải tập trung, trồng cây xanh...Một số KCN trước đây triển khai chậm
nay đang khẩn trương triển khai cơng tác đền bù, giải phóng mặt bằng và
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng gồm: KCN Nam Thăng Long, Bắc Phú
Cát, Đồ Sơn và Kim Hoa. Trong q trình triển khai một số dự án KCN
có thực hiện điều chỉnh về diện tích (KCN Cái Lân, Phúc Điền, Đồng
Văn, Bắc Phú Cát), chủ đầu tư (KCN Cái Lân, Nam Sách, Phúc Khánh,
Kim Hoa, Hà Nội-Đài Tư), vốn đầu tư đăng ký (Thăng Long, Hà Nội Đài Tư, Bắc Phú Cát).

Phần lớn các KCN đều nằm bên cạnh các trục đường quốc lộ chính nên dễ
dàng kết nối với hệ thống giao thông đối ngoại. Tuy nhiên KCN Nam
Thăng Long và KCN Việt Hưng cịn gặp nhiều khó khăn về giao thơng do
đường giao thơng chính nối vào KCN chưa được đầu tư đồng bộ.
- Tình hình thu hút vốn đầu tư:
Về tổng mức đầu tư: Với lợi thế về vị trí địa lý, nguồn nhân lực và chính
sách khuyến khích đầu tư, các KCN trong Vùng là địa bàn được khá nhiều
nhà đầu tư lớn trong nước, nước ngồi có kinh nghiệm và khả năng tài chính
quan tâm. Theo số liệu thống kê, tổng mức đầu tư đăng ký của 52 dự án
phát triển kết cấu hạ tầng KCN năm 2008 thuộc Vùng KTTĐBB đạt
16706.68 tỷ đồng và 1974.77 triệu USD. Vốn đầu tư thực hiện kể từ khi
khởi công đạt 4372.62 tỷ đồng và 324 triệu USD. Tính trung bình từ khi
thành lập và phát triển các đến nay, tổng số vốn đầu tư đăng ký trong và
ngoài nước mà các KCN Vùng KTTĐ Bắc Bộ thu hút được chiếm khoảng
30% của cả nước. Đây là một con số khơng nhỏ, tuy nhiên nó chưa phải là
một con số tương xứng với tiềm năng và vai trò của Vùng KTTĐBB. So
với sự phát triển của VKTTĐ phía Nam, chúng ta cịn đi sau về tính hấp
dẫn các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Với sự góp mặt của Thủ Đơ
Hà Nội, chúng ta phải phấn đấu hơn nữa để trở thành đầu tầu kinh tế của
cả nước.
Về cơ cấu vốn đầu tư, số liệu thống kê các năm qua cho thấy: chủ trương
phát triển các KCN trong nước của Chính phủ ta ngay từ những ngày đầu
đã được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm mạnh mẽ. Hơn nữa, họ cũng
là những nước phát triển hơn nên dễ dàng hơn trong việc huy động nguồn


vốn. Theo đó, xét trên tổng thể nguồn vốn huy động cho phát triển CSHT
KCN, trong những năm đầu các nhà đầu tư nước ngoài chiếm phần lớn, tỷ
lệ này đến nay đang ngày được giảm xuống. Một cách trực quan, ta có thể
quan sát cơ cấu vốn đầu tư này trong bảng dưới đây:


Biểu 1.1. Cơ cấu nguồn vốn
Nguồn: Tính tốn từ số liệu của Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ KH & ĐT

Trong cơ cấu vốn đầu tư, phần lớn nguồn vốn đầu tư hạ tầng đều do chủ đầu
tư kinh doanh hạ tầng tự huy động. Tuy nhiên cũng có một phần nguồn vốn
ngân sách địa phương chủ yếu để đầu tư kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào
KCN. Tổng số vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các KCN trong vùng là
660,7 tỷ đồng. Cụ thể như sau:
+ Phần đầu tư hạ tầng bên trong các KCN của Hà Nội và Hải Phòng đều do
các chủ đầu tư kinh doanh tự bỏ vốn và huy động từ các nguồn khác để đầu
tư, khơng có sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước . Tuy nhiên, UBND thành phố
Hà Nội cũng đã hỗ trợ xây dựng các cơng trình phúc lợi và kết cấu hạ tầng
ngoài hàng rào KCN để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. UBND
thành phố Hải Phòng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư bằng một số chính
sách ưu đãi để hỗ trợ các chủ đầu tư có điều kiện thu hồi vốn.
+ Phần lớn nguồn vốn đầu tư hạ tầng của các KCN của tỉnh Quảng Ninh do
các chủ đầu tư tự bỏ ra và tự huy động. Riêng KCN Cái Lân được ngân sách
tỉnh hỗ trợ 17 tỷ đồng để trả lãi vay trong thời gian xây dựng KCN từ 2001
đến 2006 và 100% chi phí đền bù, GPMB.
+ Ngân sách tỉnh Hải Dương tính đến 2007 đã hỗ trợ 19,4 tỷ đồng cho các
KCN của tỉnh với các hạng mục cụ thể như: hệ thống đường gom KCN Tân
Trường, cấp nước KCN Đại An, cấp nước KCN Phúc Điền, giải phóng mặt
bằng và đường nội bộ KCN Việt Hồ, giải phóng mặt bằng KCN Nam Sách.
Ngồi ra, ngân sách tỉnh cịn hỗ trợ xây dựng đường gom quốc lộ 5, rà phá
bom mìn, đền bù hành lang xăng dầu với tổng kinh phí 92,5 tỷ đồng.
+ Ngân sách tỉnh Hưng Yên đã đầu tư trên 12 tỷ đồng xây dựng một số
tuyến đường tại KCN Phố Nối A như đường gom quốc lộ số 5, đường 206,
đường vào KCN trước khi có chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN.



×