Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

KHẢ NĂNG TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG CỦA NGƯỜI DÂN VỀ VIỆC QUẢN LÝ, BẢO VỆ RỪNG MẪU SƠN TỈNH LẠNG SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.25 KB, 107 trang )

1
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
Danh mục biểu đồ, sơ đồ
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TM-DV
Thương mại dịch vụ
BV&PTR
Bảo vệ và phát triển rừng
Bộ NN&PTNT
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
PCCCR
Phòng cháy chữa cháy rừng
UBND
Ủy ban nhân dân
BVR
Bảo vệ rừng
SPSS Statistical Package For Social Sciences
R Recreational Mathematics
1
2
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.23: Nhận thức về các hoạt động gây ô nhiễm 92
DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Ở ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới WTO ngày 17/01/2007 là cơ hội mở ra cho sự phát triển kinh tế
nước ta, tuy nhiên đã có không ít khó khăn và thách thức mà chúng ta gặp
phải, đặc biệt trong nông lâm nghiệp nông thôn. Hàng nông sản kém sức cạnh
tranh do chất lượng thấp, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, chi phí sản xuất
quá cao và nhiều vấn đề khác.
Trong bối cảnh hội nhập, nông dân Việt Nam đang phải đối mặt với
nhiều thách thức: sự hạn chế trong khả năng tiếp cận thị trường, không tận
dụng được lợi ích do quá trình hội nhập mang lại; áp lực cuộc sống dưới tác
động của sự tăng giá mạnh, những hậu quả có thể của tình trạng biến đổi khí
hậu, áp lực gia tăng dân số và nhu cầu nhiều mặt của con người như: phát
nương làm rẫy, nhu cầu trồng cây công nghiệp, nông nghiệp phục vụ đời
sống, nhu cầu xây dựng các công trình, đường sá giao thông. Những nhu cầu
về cuộc sống của người dân trong xã đã gây áp lực lớn đến cả hệ sinh thái
rừng như nhu cầu gỗ làm nhà, chất đốt, tiền mặt, lương thực, nhu cầu về củi
2
3
gỗ lâm sản… Để kiếm kế sinh nhai người dân đã tác động đến rừng: phá rừng
làm rẫy, khai thác các loại gỗ quý hiếm và săn bắt động vật hoang dã nhằm
mục đích giải quyết một số nhu cầu trong cuộc sống để tồn tại. Điều đó, dẫn
đến việc quản lý rừng ở Mẫu sơn gặp nhiều khó khăn, diện tích rừng và chất
lượng rừng ngày càng bị giảm sút nghiêm trọng, làm mất đi tính bền vững của
các hệ sinh thái rừng. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường đòi hỏi người nông dân
phải có những kiến thức nhất định, nhận thức đúng đắn trong thời kỳ mới để
không bị tụt hậu.
Thông tin thị trường đối với người nông dân là một yếu tố quan trọng,
thế nhưng theo Bộ NN& PTNT mới chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp cận
được với thông tin thị trường. Lực lượng lao động nông thôn chiếm phần

đông trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp (Lê Thị Quý, 2008), thời gian
dành cho lĩnh vực hoạt động sản xuất nhiều nên họ ít được tiếp cận với các
nguồn lực, không có thời gian để tham gia vào hoạt động của cộng đồng, trao
đổi thông tin điều đó càng làm cho khả năng tham gia vào thị trường, nắm bắt
thông tin thay đổi từng ngày là rất hạn chế.
Nhưng với kiến thức thị trường hạn chế và nhiều nguyên nhân khác có
thể làm cho những quyết định trong tham gia thị trường không được chính
xác hoặc lúng túng, và họ chính là những người chịu thiệt thòi trong nền kinh
tế thị trường ngày càng phát triển. Huyện Cao Lộc là một huyện có vị trí địa
lý rất gần với Thành phố Lạng sơn, ở đây có nền sản xuất nông sản phát triển
khá toàn diện như nông nghiệp, TM-DV, trồng trọt, chăn nuôi. Vì vậy những
người dân nơi đây đã rất quen thuộc với công việc buôn bán và trao đổi trong
điều kiện sản xuất hàng hoá hiện nay. Tuy nhiên họ vẫn là những người nông
dân chất phác,chịu thương chịu khó,chịu ảnh hưởng của nền kinh tế nhỏ lẻ
nên khả năng tiếp cận và thích nghi với nền kinh tế thị trường sản xuất hàng
3
4
hoá vẫn chưa được phát huy có hiệu quả. Vậy tính cấp thiết của đề tài này là
đi tìm hiểu và trả lời câu hỏi: Người dân họ đang cần gì khi tham gia vào thị
trường?người dân ở nơi đây họ đang tham gia vào thị trường ở mức độ nào?
Những người dân ở vùng sâu vùng xa thì khả năng tiếp cận thị trường của họ
có gì khác so với người dân ở gần trung tâm? Mức độ thu nhập, cơ hội tìm
việc làm như thế nào? Hiệu quả ra sao? khả năng tham gia vào thị trường của
họ là đến đâu và họ chịu những tác động nào? Và chúng ta cần làm gì để giúp
họ tham gia tốt vào thị trường? Đứng trước những yêu cầu cần được giải đáp
nêu trên nhằm góp phần giải quyết mục tiêu nghiên cứu. Tác giả quyết định
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khả năng tiếp cận thị trường của người dân về
việc quản lý, bảo vệ rừng Mẫu Sơn Tỉnh Lạng sơn”. Với mong muốn tìm
hiểu, đánh giá, phân tích những tập quán canh tác, phương thức sản xuất và
phát triển kinh tế hộ gia đình cùng một số nét văn hóa đời sống, văn hóa sản

xuất của đa số bộ phận người dân ở Huyện Cao Lộc. Từ đó đưa ra những giải
pháp, đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho
người dân trong xã là điều rất cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 . Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng khả năng tiếp cận thị trường của người dân về
quản lý, bảo vệ rừng hiện nay và những nhân tố ảnh hưởng đến sự tiếp cận đó
của người dân xã Công Sơn, xã Hải Yến, xã Hợp Thành huyện Cao Lộc, Tỉnh
Lạng sơn. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu tăng cường năng lực tiếp
cận thị trường trong việc quản lý, bảo vệ rừng cho hộ nông dân trên địa bàn
xã Công Sơn, xã Hải Yến, xã Hợp Thành huyện Cao Lộc, Tỉnh Lạng sơn.
2.2 . Mục tiêu cụ thể
4
5
• Đánh giá khả năng tiếp cận của người dân với thị trường.
• Đánh giá thực trạng công tác quản lý, bảo vệ rừng.
• Mức độ tham gia, phụ thuộc của người dân tới các hoạt động từ rừng và các
sản phẩm từ rừng.
• Phân tích thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức tới tiếp cận thị trường.
• Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng khả năng tiếp cận thị trường của
hộ về việc quản lý, bảo vệ rừng bền vững.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
• Các hộ dân sinh sống trong khu vực xã Công sơn Tỉnh Lạng sơn.
• Môi trường tự nhiên và xã hội thuộc khu vực xã Công sơn Lạng sơn.
• Các nguồn lực tại khu vực xã Công sơn Lạng sơn.
• Các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhóm hộ nghiên cứu.
• Nghiên cứu năng lực tiếp cận thị trường trong việc quản lý, bảo vệ rừng của
họ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Nghiên cứu trên phạm vi là 3 xã: Xã Công sơn, Hải Yến,
Hợp Thành thuộc huyện Cao Lộc Tỉnh Lạng sơn.
Về thời gian: Nghiên cứu từ ngày 01/08/2009 đến ngày 30/08/2010
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng tiếp cận thị trường của người dân về quản lý, bảo
vệ rừng và những nhân tố ảnh hưởng đến sự tiếp cận đó của người dân xã
Công Sơn.
Xem xét khả năng duy trì và phát triển các nguồn lực: Nguồn lực tự
nhiên, nguồn lực về con người, nguồn lực về xã hội, nguồn lực về vật chất,
nguồn lực tài chính của các hộ gia đình trên địa bàn nghiên cứu. Từ việc
5
6
nghiên cứu đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng khả năng tiếp cận
thị trường của hộ về việc quản lý, bảo vệ rừng bền vững.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn được
chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng quản lý, bảo vệ rừng và tiếp cận thị trường của
người dân
Chương 3:Những giải pháp chủ yếu nhằm khai thác tốt mối quan hệ
tiếp cận thị trường và quản lý, bảo vệ rừng Mẫu sơn.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở khoa học về đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm, định nghĩa trong đề tài
* Khái niệm về Thị trường: Thị trường ra đời và phát triển gắn với sự
phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Từ đó đến nay, nền sản xuất hàng hoá
đã phát triển và trải qua nhiều thế kỷ, có nhiều thay đổi mang tính hiện đại và

có những lưu giữ mang tính truyền thống. Việc tiêu thụ sản phẩm của người
sản xuất, thực hiện các dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ cũng như bán
hàng của các danh nghiệp thương mại đều diễn ra trên thị trường. Trong khi
đó, cạnh tranh lại đòi hỏi người sản xuất phải ra sức cố gắng giành vị thế cao
trên thị trường. Dựa trên cơ sở chi phí kinh doanh tính trên một đơn vị sản
6
7
phẩm sản xuất ra, người sản xuất có thể xác định được mức giá sản phẩm mà
người sản xuất có thể chấp nhận được và phải nhất thiết tiêu thụ trên thị
trường vì các lý do.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần, nền
kinh tế thị trường, mỗi người sản xuất là một đơn vị sản xuất hàng hoá với
mục đích là để bán và kiếm được nhiều lợi nhuận.
Muốn duy trì và phát triển hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, mỗi
người sản xuất phải thực hiện cho được vấn đề tái sản xuất mở rộng với bốn
khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Vì vậy bốn khâu này vận
động một cách thông suốt thì sản phẩm hàng hoá của người sản xuất nhất thiết
phải được tiêu thụ trên thị trường.
Mỗi người sản xuất khi tiến hành xây dựng và thực hiện chiến lược, kế
hoạch sản xuất kinh doanh và phản ánh sản phẩm của mình phải quán triệt
phương châm:
+ Tiêu - cung - sản.
+ Chỉ đưa ra chiến lược, kế hoạch và phương án những mặt hàng sản
phẩm đã ký kết được hợp đồng tiêu thụ hoặc chắc chắn sẽ tiêu thụ.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, mỗi người sản xuất phải quán
triệt quan điểm marketing: chỉ sản xuất những cái mà thị trường cần, chứ
không phải sản xuất kinh doanh những cái mình có sẵn.
Những luận cứ nêu trên là hoàn toàn đúng đắn, vừa có cơ sở khoa học,
vừa có thực tiễn sâu sắc. Thị trường phát triển đa dạng và phong phú ở nhiều
lĩnh vực khác nhau nên cũng có nhiều định nghĩa khác nhau.

7
8
Thị trường là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá và được nhiều nhà
kinh tế định nghĩa khác nhau.
- Thứ nhất: Thị trường là tổng hợp các lực lượng và điều kiện trong đó
người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá dịch vụ từ
người bán sang người mua.
+ Theo Davi begg: “thị trường là tổng hợp các sự thoả thuận mà thông qua
đó người mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá dịch vụ”.
Một định nghĩa khác cho biết: Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là
quá trình trong đó người mua và bán một thứ hàng hoá tác động qua lại nhau
để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán
bằng tiền trong một khoảng thời gian không gian nhất định. Theo Ngân hàng
phát triển châu Á: Thị trường là một thể chế (hay là tập hợp các nguyên tắc)
tồn tại để phục vụ việc trao đổi: đó là chúng tồn tại để giảm giá thành của việc
thực hiện giao dịch. Một thị trường vận động tốt sẽ giảm giá giao dịch giữa
người mua và người bán đến mức thấp nhất. Một thị trường làm việc gồm có
4 phần:
+ Một nền tảng thể chế: gồm quy luật, quy tắc, quy định và năng lực bắt
buộc điều chỉnh tạo nên và giữ vững thị trường.
+ Tổ chức dịch vụ cung cấp dịch vụ trung gian cho người tham gia và
điều khiển thị trường: Những dịch vụ này bao gồm từ những dịch vụ cơ bản
đến việc nghiên cứu thị trường.
+ Người tiêu dùng là những người muốn mua sản phẩm và dịch vụ và có
tiền để làm việc đó.
8
9
+ Người sản xuất là người cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong thị
trường: Mặc dù cơ cấu thị trường và số lượng quy mô, loại hình tổ chức đa
dạng trong các lĩnh vực thị trường dựa vào lịch sử, giai đoạn tăng trưởng và

các rào cản để đi vào lĩnh vực đó.
- Theo Cramer, 1997: Thị trường gồm người mua và người bán với
những điều kiện đảm bảo có thể giao tiếp được với nhau. Thị trường là không
nhất thiết phải có một địa điểm cụ thể, cho dù một số người hiểu thị trường
theo khía cạnh này, nghĩa là phải có thị trường hàng hoá. Thị trường có thể là
ở tầm địa phương, khu vực, quốc gia hay quốc tế. Một yêu cầu duy nhất về sự
tồn tại của thị trường là phải có luồng cung cầu để xác định giá thị trường
thông qua giao tiếp giữa người mua và người bán >Như vậy, thị trường khái
quát 3 yếu tố:
+ Có chủ thể tham gia: Người mua, người bán
+ Có đối tượng trao đổi: Hàng hoá, dịch vụ
+ Có điều kiện để thực hiện quá trình trao đổi: Khả năng thanh toán của
người mua, thời gian, không gian, pháp luật,
Tuỳ theo các cách tiếp cận về thời gian, không gian, địa lý, có thể những
định nghĩa khác nhau nhưng dù đứng ở góc độ nào thì để tồn tại thị trường
luôn cần sự có mặt của các yếu tố sau đây:
Thứ nhất: khách hàng được xem là yếu tố kiên quyết của thị trường, thị
trường phải có khách hàng không nhất thiết phải gắn với địa điểm cố định.
Thứ hai: khách hàng không phải có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây
được xem là động lực thúc đẩy khách hàng mua hàng hoá và dịch vụ.
9
10
Thứ ba: để việc mua bán hàng hoá và dịch vụ được thực hiện thì yếu tố
quan trọng là khách hàng phải có khả năng thanh toán.
* Phân loại thị trường:
Căn cứ vào công cụ của hàng hoá ta chia ra:
+ Thị trường các yếu tố đầu vào: Đó là những sản phẩm dùng để sản
xuất, là những tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hoá
chất, dụng cụ,…Trong sản xuất nông nghiệp như: Phân bón, giống, thức ăn,
thuốc, nguồn vốn,…

+ Thị trường các yếu tố đầu ra: là sản phẩm dùng cho tiêu dùng cá nhân
của con người như: Lương thực, thực phẩm, quần áo,…
Căn cứ vào nguồn gốc sản xuất ra hàng hoá:
+ Thị trường hàng công nghiệp: Là các loại sản phẩm do xí nghiệp công
nghiệp khai thác, chế biến sản xuất ra.
+ Thị trường hàng nông nghiệp (nông, lâm, thuỷ sản): Là các hàng hoá
có nguồn gốc từ sinh vật.
* Tiếp cận thị trường: Tiếp cận thị trường cho hàng hoá được
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) định nghĩa là các điều kiện về thuế
quan và các biện pháp phi thuế quan, theo sự thoả thuận của các thành viên
của tổ chức cho sự xâm nhập của một loại hàng hóa cụ thể vào thị trường
của họ.
Tiếp cận thị trường nông sản phẩm là việc người nông dân có đầy đủ
thông tin, tiềm lực xã hội, tài chính, vật chất để mua vật tư đầu vào và bán sản
10
11
phẩm nông nghiệp làm ra ở các khu vực có lợi cho họ. Nghĩa là người nông
dân có đủ nguồn lực để có thể giao thiệp với người bán vật tư đầu vào phục
vụ cho quá trình sản xuất của nông hộ, đồng thời họ cũng có đủ khả năng để
tiếp cận và đàm phán với các nhà cơ sở thu mua để bán sản phẩm họ làm ra ở
một mức có lợi (Kleih, 1999). Điều này cho thấy điều kiện cơ bản nhất để tiếp
cận thị trường nông nghiệp là có sự tồn tại của cầu cho các loại sản phẩm tiềm
năng từ khu vực nông thôn. Quy luật tự nhiên của sản phẩm đầu vào và đầu
ra, phương thức tiếp cận thị trường của người dân và những yêu cầu phải
được thực hiện nhằm nâng cao khả năng tiếp cận thị trường.
Tiếp cận thị trường không thể thực hiện như một lĩnh vực riêng lẻ. Tiếp
cận thị trường phải được nhìn nhận như một phần đầy đủ, trọn vẹn, không thể
thiếu của hệ thống hàng hoá. Một mặt, người nông dân phải biết đâu là nơi họ
bán sản phẩm trước khi hoạt động sản xuất. Mặt khác, nguồn cung cấp đầy
đủ, thích hợp và thoả đáng các khía cạnh vật chất chất lượng và số lượng là

yêu cầu đầu tiên, tiên quyết cho một hệ thống thị trường hiệu quả.
Luồng cung cấp thị trường và cầu hàng hoá được trao đổi bằng các hợp
đồng bao tiêu sản phẩm hoặc dịch vụ ăn khớp với khách hàng giữa người mua
và người bán thông qua thị trường.
Nâng cao sự liên kết giữa các mắt xích của hệ thống thị trường (chuỗi
sản xuất), ở đây là người nông dân nói chung và người kinh doanh nói riêng,
là một vấn đề cực kỳ quan trọng của tiếp cận thị trường. Bên cạnh đó, cải
thiện hệ thống giao thông, luồng thông tin về sản phẩm, về thị trường là các
yếu tố không thể thiếu nhằm có được sự liên kết hiệu quả và bền vững. Đó là
quy luật lưu thông của đầu vào và đầu ra trong nông nghiệp với sự tham gia
của nông dân.
11
12
Theo Robert W.Bly “ Hướng dẫn hoàn hảo phương pháp tiếp cận thị
trương” Tiếp cận thị trường là một quá trình tìm kiếm, phát hiện và đánh giá
những nhu cầu của thị trường từ đó lên kế hoạch sản xuất kinh doanh, lựa
chọn thị trường mục tiêu xâm nhập thị trường, tiếp cận khách hàng để đạt
mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh là tiêu thụ sản phẩm.
Thu thập thông tin: Hệ thống thông tin là một hệ thống liên hệ qua lại
giữa người, thiết bị và phương pháp hoạt động thường xuyên để thu thập
thông tin, phân loại, phân tích, đánh giá và phổ biến thông tin chính xác, hiện
đại và cấp thiết để người sử dụng lập kế hoạch thực hiện và kiểm tra việc thực
hiện các biện pháp Marketing ( Phiplip kotler, 2007).
Hệ thống thông tin thu thập thường ngày ở bên ngoài là tập hợp các
nguồn lực và phương pháp mà thông qua đó các hộ nông dân nhận được
thông tin thường ngày về các sự kiện xảy ra trong môi trường thương mại.
1.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận thị trường
a. Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật và vốn đầu tư
+Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật: Theo thông báo của
liên hiệp quốc thì hiện nay trên thế giới còn khoảng 1200 triệu người mù chữ.

Còn ở Việt nam, theo thống kê cho thấy tỷ lệ lao động không qua đào tạo rất
cao ( chiếm gần 80% tổng số lao động không qua đào tạo trong cả nước); nữ
chiếm 0,63% công nhân kỹ thuật, nam chiếm là 3,46%. Tỷ lệ lao động nữ có
trình độ trên đại học 0,016%, tỷ lệ này của nam là 0,077% ( Bùi Đình Hoà,
1998). Vì trình độ học vấn tương đối thấp nên bị hạn chế về kỹ thuật, chuyên
môn sự hiểu biết nên gặp khó khăn về tiếp nhận thông tin và kết quả là tiến bộ
khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất còn yếu kém dẫn đến hiệu quả năng
suất thu nhập kém, thấp.
12
13
+ Vốn đầu tư:Vốn cho sản xuất ảnh hưởng rất nhiều đến vai trò của chủ
hộ trong phát triển kinh tế. Nhìn chung người dân muốn đầu tư cho sản xuất,
kinh doanh đều gặp phải khó khăn về vốn. Vốn tích luỹ trong các hộ gia đình
thường không nhiều nên họ phải vay vốn từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài. Ở
nước ta thị trường vốn, nhất là nông thôn vùng sâu, vùng xa, thủ tục vay vốn
còn khó khăn và rườm rà. Do đó người dân nông thôn đặc biệt là các hộ
nghèo không có điều kiện mở rộng sản xuất phát triển kinh tế.
b. Yếu tố về thời gian và kinh phí
+ Thời gian: Do đặc thù ở các vùng nông thôn thời gian lao động tạo thu
nhập của họ chiếm thời gian rất nhiều. Do vậy, đều đó ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ và gia đình họ, thiếu thời gian nghỉ ngơi, giải trí tham gia các hoạt động
xã hội cộng đồng cũng như các cơ hội tham gia đảm nhận các vị trí quản lý và
lãnh đạo, có rất ít thời gian để tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ, kỹ năng và sự tự tin. Thời gian là điều kiện bắt buộc để họ tiến
hành các hoạt động nâng cao trình độ của mình, có nhiều thời gian thì họ mới
có điều kiện tham gia các hoạt động, các lớp bồi dưỡng kiến thức như: đi tập
huấn học các lớp bồi dưỡng, đi khảo sát xung quanh để có thông tin về cầu và
giá để tiếp cận thị trường tốt hơn. Vậy thời gian cũng là yếu tố quan trọng tạo
nên kinh nghiệm cũng như năng lực tiếp cận thị truờng tốt hơn.
+ Kinh phí: Là điều kiện trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ

thuật không muốn mất chi phí cơ hội mà họ đã bỏ qua các khoá đào tạo để
nâng cao kiến thức.
c. Yếu tố về không gian và thông tin
Hai nhà kinh tế học Jeffrey Frankel và Andrew Rose đã công bố một
nghiên cứu ước tính tác động của các yếu tố khác nhau tới giao dịch thương
mại của một nước. Các yếu tố kinh tế truyền thống như qui mô nền kinh tế và
13
14
mức giàu có của một quốc gia vẫn có tác động lớn; tính trung bình sự tăng lên
của một hoặc hai yếu tố đó làm tăng giao dịch thương mại lên 8%.
Tuy nhiên những yếu tố khoảng cách khác thậm chí còn tác động lớn
hơn thế nhiều. Nếu ảnh hưởng của khoảng cách 5.000 dặm giữa hai nước làm
giảm khối lượng các giao dịch thương mại chỉ còn 20% so với một khoảng
cách là 1.000 dặm thì ảnh hưởng của khoảng cách về văn hoá, chính trị còn
lớn hơn thế rất nhiều.
Các nhà kinh tế học thường dựa vào lý thuyết “lực hấp dẫn” trong phân
tích thương mại. Thuyết này cho rằng dòng thương mại có quan hệ tỷ lệ thuận
với qui mô nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với khoảng cách. Các mô hình dựa trên
thuyết này giải thích tới 2/3 những thay đổi trong khối lượng thương mại giữa
hai nước.
Sử dụng một trong những mô hình trên, hai nhà kinh tế Frankel và Rose
đã ước lượng về tác động của các yếu tố khác biệt nhất định đến thương mại.
Yếu tố Thay đổi trong thương mại quốc tế (%)
Mức thu nhập: GDP bình quân đầu người (tăng 1%) +0,7
Qui mô nền kinh tế: GDP (tăng 1%) +0,8
Khác biệt về tự nhiên (tăng 1%) -1,1
Khoảng cách tự nhiên (tăng 1%)* -0,2
Gần biển * +50
Có biên giới chung +80
Sử dụng một ngôn ngữ chung +200

Cùng trong một khối thương mại +330
Có quan hệ thực dân - thuộc địa trong quá khứ +900
Cùng là nước thực dân trong quá khứ +190
14
15
Có thể chế chính trị giống nhau +300
Sử dụng một đồng tiền chung +340
Nguồn: “Dự báo tác động của liên minh tiền tệ đối với tăng trưởng”,
bản thảo chưa công bố, tháng 5/2000, tác giả Jeffrey Frankel vàAndrew Rose.
Như vậy có thể thấy khoảng cách là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng
lớn đến khả năng tiếp cận thị trường, vận dụng vào thực tiễn những khu vực
gần các trung tâm đô thị có khoảng cách gần, giao thông thuận tiện dẫn đến
chi phí vận chuyển thấp, thói quen và sở thích cơ bản giống nhau, thông tin
trao đổi nhanh … do vậy khi có sản phẩm người ta dễ giao dịch trao đổi hơn.
Uche M. Nwankwo và Bokelmann Wolfgang trong báo cáo “The Effect
of Information and Market Access on Adopters’ Income Level” chỉ ra rằng
khi thông tin được cung cấp đầy đủ sẽ làm tăng khả năng tiếp cận thị trường
và qua đó giúp tăng thu nhập cho người dân.
1.1.3 Những vấn đề sản xuất nông lâm nghiệp của hộ nông dân
a. Dịch vụ khuyến nông
Mặc dù khuyến nông giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ,
kiến thức cho nông dân, tăng hiệu quả sản xuất tuy nhiên vẫn còn một số hộ
nông dân vẫn chưa tiếp cận được hoặc khó tiếp cận khuyến nông.
Tiếp cận các dịch vụ khuyến nông hay gọi tắt là tiếp cận khuyến nông là
quá trình hoạt động trong hệ thống khuyến nông được diễn ra từ hai phía
ngược chiều, một là các tổ chức cung cấp dịch vụ khuyến nông, hai là hộ
nông dân - người có nhu cầu sử dụng các dịch vụ khuyến nông. Vì vậy, một
số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các dịch vụ khuyến nông
của nông dân như:
- Điều kiện kinh tế của hộ: Người nghèo khó tiếp cận khuyến nông. Hiện

nay, công tác khuyến nông mới chỉ “phủ sóng” đến những người có điều kiện,
15
16
còn người nghèo, vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa vẫn khó tiếp cận (
TS. Tống Khiêm, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Quốc
gia). Nguyên nhân là do cơ chế tài chính, bởi khuyến nông hoạt động theo
hình thức Nhà nước và nông dân cùng đóng góp. Chẳng hạn, mức hỗ trợ bình
quân của Nhà nước cho khu vực đồng bằng là 30%, trung du miền núi là
50%, vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, hải đảo là 80% Muốn làm mô hình,
bà con phải đóng góp, vì thế người nghèo ít có cơ hội hưởng lợi.
- Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng điến việc tiếp cận với dịch vụ khuyến
nông của nông dân là sự quan tâm của chính quyền các cấp đến công tác này
và trình độ cũng như tính yêu nghề của cán bộ khuyến nông viên cơ sở. Chính
quyền các cấp quan tâm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận của hộ
nông dân với dịch vụ khuyến nông. Cán bộ khuyến nông viên cơ sở có trình
độ và yêu nghề sẽ tạo cho nông dân lòng tin và họ sẽ dễ dàng tiếp cận hơn.
Trình độ của cán bộ khuyến nông thể hiện qua sự hiểu biết về kiến thức; kỹ
năng giao tiếp và hành vi ứng xử của họ với người dân. Cán bộ khuyến nông
có hiểu biết rộng không chỉ về kỹ thuật, về thị trường, về chính sách, môi
trường, xã hội… lại nhiệt tình và thân thiện với nông dân thì khả năng tiếp
cận của nông dân với dịch vụ khuyến nông sẽ thuận lợi hơn.
- Trình độ văn hóa của người nông dân cũng là một yếu tố quan trọng có
ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông. Trình độ của chủ hộ và các
thành viên trong hộ thể hiện về nhận thức, khoa học kỹ thuật, về kiến thức
kinh tế, thị trường, xã hội môi trường do khuyến nông cung cấp. Họ sẵn sàng
tham gia hỗ trợ và giúp đỡ nông dân khác. Khi người nông dân có trình độ
văn hóa càng cao thì nhận thức về việc tiếp cận với các phương thức sản xuất
mới, giống mới… sẽ cao hơn, cũng có nghĩa là tính bảo thủ của họ sẽ giảm.
Từ đó, họ sẽ nhận thấy được những mặt có lợi mà dịch vụ khuyến nông mang
lại (như quyết định áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới…). Ngược lại, với

16
17
những hộ nông dân còn hạn chế về trình độ văn hóa thì họ sẽ khó khăn trong
việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông chính vì tính bảo thủ của mình, sợ và
không muốn tiếp cận với những cái mới. Ngoài ra, các hộ có trình độ văn hóa
thấp thường không tự tin, không dám mạo hiểm đầu tư sản xuất, họ sợ rủi ro
(rủi ro thời tiết, giá cả…).
- Giới tính của chủ hộ cũng ảnh hưởng phần nào đến tiếp cận dịch vụ
khuyến nông. Nhìn chung, những chủ hộ là nam giới thì thường mạnh dạn
hơn những hộ là nữ, nam giới thường quyết đoán và mạo hiểm hơn, dám làm,
dám chịu… Nữ giới thường thận trọng hơn, không dám mạo hiểm. Như vậy,
chủ hộ là nữ thường khó khăn trong việc tiếp cận khuyến nông, đặc biệt là
việc áp dụng các mô hình sản xuất mới.
- Nội dung và chất lượng của các dịch vụ khuyến nông. Các chương
trình, dự án, hoạt động khuyến nông phải xuất phát từ nhu cầu của nông dân,
phù hợp với khả năng của họ, các nguồn hỗ trợ tuy ít nhưng có chất lượng
mới đảm bảo uy tín và khích lệ nông dân tham gia.
- Cơ chế chính sách: Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng ở tầm vĩ mô, ngoài
các chính sách về khuyến nông thì các chính sách khác có liên quan như,
chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách thuế cũng có những tác
động ảnh hưởng đến họat động khuyến nông [VUFO – Trung tâm tư liệu
NGO (11/2004), các vấn đề về giới và dân tộc thiểu số trong khuyến nông.
NXB Hà Nội].
- Điều kiện tự nhiên: Các vùng miền núi, trung du do điều kiện địa hình
khó khăn, nông dân ở đây trình độ thấp, khả năng tiếp cận thấp hơn ở các
vùng đồng bằng. Điều kiện tự nhiên là yếu tố mang tình chất khách quan, các
hoạt động sản xuất nông nghiệp đều chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện thời
tiết, khí hậu, do đó các chương trình dự án khuyến nông có đạt hiệu quả cao
hay không cũng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết tốt hay xấu.
17

18
- Phong tục tập quán: Đây là một yếu tố mang tính truyền thống ở các
địa phương, nếu một chương trình dự án khuyến nông triển khai không phù
hợp với phong tục tập quán và điều kiện sản xuất của địa phương thì sẽ rất dễ
bị thất bại. Các phong tục tập quán cần chú ý là tập quán canh tác, chăn nuôi,
tập quán tổ chức sản xuất, sử dụng các yếu tố như đất đai, lao động, quản lý
trong hộ.
- Nguồn vốn cho hoạt động khuyến nông:Vốn là nhân tố rất quan trọng
cần thiết cho sản xuất, các chương trình được triển khai cũng cần có đủ vốn
để thực hiện, đặc biệt với người nông dân họ rất cần vốn để đưa tiến bộ kỹ
thuật mới vào sản xuất.
b. Dịch vụ thủy lợi
Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận của hộ với dịch vụ thủy lợi:
Thứ nhất, nguồn nước tự nhiên: Hiện nay tình trạng thiếu nước sinh hoạt
và nước cung cấp cho sản xuất nông lâm nghiệp lâm vào tình trạng đáng báo
động. Nhiều nơi không cung cấp đủ nước tưới cho sản xuất nông lâm nghiệp
do mực nước tại các sông đã xuống thấp khiến các trạm bơm không thể bơm
nước lên được. Chính vì thế, nguồn nước có vai trò rất quan trọng trong hoạt
động của dịch vụ thủy lợi, không có nước thì dịch vụ thủy lợi sẽ gặp rất nhiều
khăn trong việc cấp nước tưới cho sản xuất nông lâm nghiệp.
Thứ hai, điều kiện địa hình: Địa hình cao quá hay thấp quá thì nông dân
khó có thể có cơ hội tiếp cận được với dịch vụ thủy lợi vì nước không thể lên
đến những nơi cao hoặc nếu có lên đến những nơi có thì những người có
ruộng ở trũng sẽ bị ngập lụt. Do vậy địa hình cũng gây khó khăn cho khả
năng tiếp cận dịch vụ thủy lợi của hộ nông dân.
Thứ ba, cơ sở vật chất tại địa phương: Cơ sở vật chất ở đây bao gồm hệ
thống máy bơm, hệ thống mương máng và những trang thiết bị khác phục
vụ cho việc cấp nước và thoát nước tại địa phương. Cơ sở vật chất tốt sẽ đảm
18
19

bảo chất lượng dịch vụ được tốt hơn, người dân sẽ được tiếp cận với dịch vụ
thủy lợi dễ dàng hơn. Ngược lại nếu cơ sở vật chất kém, máy bơm công suất
kém, hệ thống mương máng chưa được bê tông hóa… sẽ làm cho chất lượng
dịch vụ kém hiệu quả, người dân không được cấp đủ và thoát nước không
đúng lúc gây ảnh hưởng đến việc sản xuất của người dân.
c. Dịch vụ cung cấp thông tin
Khả năng tiếp cận thông tin của hộ nông dân là mức độ nông dân có thể
có những khả năng nào hay cách nào để đến gần nắm bắt và luận giải các
thông tin đó. Hiện nay nông dân có rất nhiều khả năng để tiếp cận thông tin
thông qua các dịch vụ cung cấp thông tin như: Tiếp cận qua báo chí, tiếp cận
qua các kênh truyền thanh, truyền hình, qua Internet…Tuy nhiên, không phải
hộ nông dân nào cũng tiếp cận được với các dịch vụ cung cấp thông tin và sử
dụng những thông tin có hiệu quả nhất. Sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng tiếp cận dịch vụ cung cấp thông tin của hộ nông dân:
- Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn: Đây là yếu tố rất quan trọng
đánh giá trình độ của nông dân và mức độ tiếp cận cũng như xử lý các thông
tin. Thông thường những người có trình độ học vấn cao thường sẽ quan tâm
nhiều hơn đến các hệ thống thông tin hơn là những người có trình độ thấp.
Những người có trình độ học vấn cao sẽ có cơ hội tiếp cận được với các
nguồn thông tin từ sách báo, đài, ti vi…và các kênh thông tin khác.
Đặc biệt những người có trình độ chuyên môn cao thì thường có xu
hướng sản xuất lớn theo hướng hàng hóa. Có thể họ sản xuất trang trại hoặc
kinh doanh lớn. Những người này thường có xu hướng tìm hiểu về thông tin
thị trường sản phẩm của mình hơn những người khác. Họ có điều kiện tiếp
xúc về trình độ chuyên môn cùng với thông tin thị trường mà họ tìm hiểu giúp
họ có những quyết định đúng đắn trước, trong và sau quá trình sản xuất sản
phẩm.
19
20
- Cơ sở vật chất và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và gia đình:

Một địa phương có điều kiện kinh tế xã hội phát triển và hệ thống cơ sở
vật chất đầy đủ, đó là địa phương có thể cung cấp các dịch vụ như truyền
thanh, bưu điện, lắp đặt internet, xây dựng thư viện, đầu tư cho công tác
khuyến nông khuyến lâm, xây dựng đường giao thông… Một khi cơ sở hạ
tầng đầy đủ thì nông dân sẽ có khả năng cao hơn trong việc tiếp cận với hệ
thống thông tin.
Điều kiện kinh tế gia đình đảm bảo, tức là gia đình có thể mua sắm các
trang thiết bị phục vụ nghe nhìn trong gia đình cũng như tiếp cận với sách báo
và các nguồn thông tin khác. Với điều kiện như thế, những người trong gia
đình có điều kiện và khả năng nhiều hơn trong tiếp cận các thông tin.
- Hệ thống kênh thông tin và chất lượng truyền bá thông tin thị trường
cho nông dân trong địa phương:
Nếu chính quyền địa phương quan tâm đến hệ thống thông tin cho nông
dân, trang bị đầy đủ hệ thống kênh thông tin cho nông dân thì người nông dân
có khả năng tiếp cận thông tin cao hơn. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin cung
cấp cho nông dân có chất lượng cao, thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời
cho nông dân thì sẽ thúc đẩy họ tìm đến thông tin nhiều hơn, họ sẽ có khả
năng tiếp cận đến dịch vụ cung cấp thông tin cao hơn.
- Nhận thức của bản thân nông dân về vấn đề sản xuất và tiêu thụ nông sản:
Sản xuất là khâu cốt lõi của quá trình sản xuất, một yếu tố quan trọng
đó là nhận định của bản thân nông dân về vấn đề này. Khi nông dân cho
rằng sản xuất là để bán thì họ sẽ quan tâm nhiều hơn đến các thông tin về kỹ
thuật sản xuất, thông tin về đầu vào cũng như thông tin về thị trường đầu ra.
Nếu nông dân sản xuất để tiêu dùng trong gia đình thì họ ít quan tâm đến thị
trường đầu ra mà chỉ quan tâm đến vấn đề thông tin thị trường đầu vào và kỹ
20
21
thông tin về kỹ thuật sản xuất. Và khi đó khả năng tiếp cận thông tin của họ
cũng bị ảnh hưởng.
Tiêu thụ là khâu quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy

nhiên, đối với nông dân nói chung thì khâu này không đạt lợi ích tối ưu nhất.
Người nông dân thông thường sản xuất nhỏ lẻ, thường chỉ sản xuất những sản
phẩm mà gia đình cần cho tiêu dùng, nếu thừa mới đem bán. Nếu sản xuất
hàng hóa thì cũng chỉ là sản xuất theo nhau hoặc theo chỉ đạo của Hợp tác xã
mà không có sự chủ động. Chính cách sản xuất này của nông dân đã dẫn đến
tình trạng tiêu thụ ồ ạt theo mùa vụ, không có người mua, giá cả thấp, bán cho
thương lái, gặp mua thì bán rất ít có hợp đồng, bị ép giá… Chính vì vậy, việc
nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho nông dân là việc rất quan trọng, nó
có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của hộ nông dân.
d. Bảo vệ và quản lý rừng
Bảo vệ có hiệu quả tài nguyên rừng chính là để nâng cao chất lượng cuộc
sống cho các cộng đồng dân cư thôn bản. Công tác bảo vệ rừng phải được tiến
hành đồng thời với sự phát triển kinh tế - xã hội và góp phần nâng cao thu
nhập cho cộng đồng dân cư thôn bản trên địa bàn. Mấu chốt của vấn đề bảo
vệ rừng vừa là bảo vệ tài nguyên rừng vùa giải quyết tốt vấn đề nâng cao chất
lượng cuộc sống cho cộng đồng.
Bảo vệ tài nguyên rừng nếu không có sự tham gia của cộng đồng dân cư
thôn bản thì sẽ không thành công. Vì vậy, đề xuất các giải pháp để nâng cao
trách nhiệm và quyền hưởng lợi của cộng đồng dân cư thôn bản trong bảo vệ
rừng là rất cần thiết. Để công tác bảo vệ rừng đạt hiệu quả cao thì phải có
chính sách khuyến khích, thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư
thôn, bản.
Tính cộng đồng của các dân tộc Việt Nam đã là yếu tố quan trọng tạo
nên cơ sở cho những thành quả đã đạt được trong công cuộc bảo vệ tài
21
22
nguyên thiên nhiên. Vì vậy, vấn đề phát huy vai trò của các cộng đồng để
quản lý nguồn tài nguyên này là vấn đề vừa mang ý nghĩa phát huy truyền
thống, vừa có thể tạo ra một cách quản lý tài nguyên có hiệu quả hơn, bền
vững hơn, phù hợp với những xu hướng phát triển của thế giới [14].

Khi nghiên cứu kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông
nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên nhiều tác giả đã khẳng định tầm
quan trọng của kiến thức bản địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên [20].
Chính những cộng đồng địa phương là những người hiểu biết sâu sắc nhất về
tài nguyên thiên nhiên nơi họ sinh sống, về cách thức giải quyết những mối
quan hệ kinh tế - xã hội trong cộng đồng của họ. Họ biết, phát triển những
loài cây trồng, vật nuôi cho hiệu quả cao và bền vững trong hoàn cảnh sinh
thái của địa phương.
Ngày nay ở Việt Nam, quản lý tài nguyên trên cơ sở cộng đồng đã được
nhận thức như một trong những giải pháp hiệu quả để quản lý tài nguyên
thiên nhiên vùng cao. Đó là cách quản lý mà mọi thành viên cộng đồng đều
được tham gia vào quá trình phân tích đánh giá thực trạng, xác định nguyên
nhân và hình thành giải pháp để phát huy mọi nguồn lực của địa phương cho
bảo vệ, phát triển và sự dụng tối ưu các nguồn tài nguyên thiên nhiên vì sự
phồn thịnh của mỗi gia đình và cộng đồng.
Tuy nhiên, các giải pháp để khuyến khích cộng đồng tham gia quản lý tài
nguyên thiên nhiên ở mỗi hoàn cảnh cụ thể sẽ khác nhau. Nó phụ thuộc vào
đặc điểm của nguồn tài nguyên hiện có, vào chính sách, luật pháp Nhà nước,
vào những quy định của cộng đồng, làng xóm, những phong tục, tập quán, ý
thức tôn giáo, nhận thức và kiến thức, kinh nghiệm và trình độ của người dân
v.v Trong nhiều trường hợp ở nước ta, sự phụ thuộc này vẫn chưa được làm
sáng tỏ đầy đủ. Đây là lý do vì sao việc nghiên cứu nhằm xây dựng giải pháp
quản lý tài nguyên thiên nhiên trên cơ sở cộng đồng ứng với mỗi nhóm dân
22
23
tộc cùng toàn bộ phức hệ các điều kiện tồn tại của họ vẫn đang được đặt ra
như một trong những nhiệm vụ cấp bách ở Việt Nam.
Tính đến 31 tháng 12 năm 2007 [7][13] cả nước có 10.006 cộng đồng
dân cư thôn, chủ yếu là các cộng đồng các đồng bào dân tộc ít người, đang
quản lý và sử dụng 2.792.946,3 ha rừng và đất trống đồi trọc (gọi chung là đất

lâm nghiệp) để xây dựng và phát triển rừng, trong đó: 1.916.169,2 ha đất có
rừng (chiếm 68,6%) và 876.777,1 ha đất trống đồi trọc (chiếm 31,4%). Diện
tích đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý nêu trên chiếm 17,20% diện tích đất
quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp trên toàn quốc (16,24 triệu ha); diện tích
đất lâm nghiệp có rừng do cộng đồng quản lý chiếm 15% tổng diện tích rừng
của cả nước (12.873.815 ha). Trong diện tích đất lâm nghiệp có rừng do cộng
đồng quản lý và sử dụng thì rừng tự nhiên chiếm tuyệt đại đa số lên đến 96%,
rừng trồng chỉ chiếm có 4%. Cộng đồng quản lý chủ yếu rừng phòng hộ, đặc
dụng (71%), rừng sản xuất chỉ chiếm 29%. Cộng đồng quản lý và sử dụng đất
lâm nghiệp nêu trên với 3 hình thức sau:
- Thứ nhất, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định
lâu dài (có quyết định hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và rừng, sau
đây gọi tắt là giao) với diện tích 1.643.251,2 ha tương đương 58,8% diện tích
đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý và sử dụng.
- Thứ hai, rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý từ lâu
đời nhưng chưa được Nhà nước giao (chưa có bất kỳ một loại giấy tờ hợp
pháp nào, gọi tắt là chưa giao) với diện tích 247.029,5 ha tương đương 8,9%.
Đó là các khu rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước, những khu rừng cung cấp
lâm sản truyền thống cho cộng đồng.
- Thứ ba, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp của các tổ
chức nhà nước (Lâm trường, Ban quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng
23
24
hộ…) được các cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi và trồng mới theo
hợp đồng khoán rừng lâu năm, 50 năm, gọi tắt là nhận khoán với diện tích
902.662,7 ha tương đương 32,3%
Ngoài ra, hiện nay còn có một hình thức hình thành rừng và đất rừng
cộng đồng ở Việt Nam khác nữa đó là các hộ gia đình trong một thôn tự
nguyện góp rừng và đất lâm nghiệp đã được giao của hộ gia đình trở thành

rừng và đất rừng dưới hình thức quản lý của cộng đồng nhằm thực hiện các
dự án do chính phủ hoặc nước ngoài hỗ trợ. Hình thức này ban đầu cũng được
coi là hình thức quản lý rừng cộng đồng nhưng cộng đồng ở đây bao gồm
những thành viên có rừng và đất rừng tham gia đóng góp tự nguyện.
e.Các nhân tố ảnh hưởng đến bảo vệ và quản lý rừng
+ Ý thức: Về nhận thức và ý thức của người dân cho rằng tài nguyên
rừng còn nhiều, việc khai thác cứ tự do chẳng ai có thể cấm được người dân
khai thác để phục vụ nhu cầu của gia đình. Họ cho rằng cây rừng, con thú
trong rừng tự nhiêm mà có, không ai trồng mà cũng chẳng ai nuôi do đó họ có
thể khai thác. Trong những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2003 khi thực hiện
chính sách giao khoán bảo vệ rừng tới các hộ dân và tăng cường công tác
tuyên truyền thì nhận thứ và ý thứ của người dân đối với rừng thay đổi nhưng
chủ yếu là các hộ nhận khoán bảo vệ rừng, còn các hộ không nhận khoán bảo
vệ rừng vẫn săn bắt động vật rừng, khai thác rừng mặc dù lực lượng kiểm lâm
truy quét mạnh. Khi các tổ bảo vệ rừng được thành lập và hoạt động rừng
được thực hiện, thì đã tăng cường công tác tuyên truyền tới mọi người dân về
công tác bảo vệ rừng và đất rừng, bảo tồn đa dạng sinh học thì phần lớn các
hộ dân đều có sự thay đổi căn bản về ý thức và nhận thức về rừng.
Hiện nay họ cho rằng tài nguyên rừng dù nhiều đến mấy mà khai thác
không bền vững, khai thác nhiều cây to cũng chẳng kịp khi mà người dân
ngày một đông, nhu cầu lớn, khai thác rừng theo kiểu hàng hóa như thế thì chỉ
24
25
có làm cho tài nguyên rừng suy giảm nhanh chóng nên họ ý thức cho việc bảo
vệ rừng, họ khai thác rừng ít hơn. Tuy nhiên, nhiều người do điều kiện hoàn
cảnh kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn nhận thức thì có nhưng ý thức
không được tốt, vẫn khai thác lén lút gây ảnh hưởng không nhỏ tới công tác
bảo vệ.
+ Kinh tế: Hỗ trợ về vốn là không thể thiếu được trong bất cứ hoạt động
phát triển kinh tế nào trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với các hộ

gia đình ở vùng núi. Kết quả cho thấy đa số các hộ dân đều mong muốn được
Nhà nước hỗ trợ vốn để sản xuất nông - lâm nghiệp. Hiện nay nhiều gia đình
trong xã có đất đai và mong muốn phát triển một số loại cây trồng, vật nuôi
có hiệu quả kinh tế cao như trồng cây hồi, cây ăn quả nhưng do thiếu vốn
nên không thực hiện được. Để góp phần khắc phục tình trạng thiếu việc làm
dẫn đến gia tăng các hoạt động xâm hại đến tài nguyên rừng, cần hỗ trợ vốn
cho người dân phát triển kinh tế xã hội như: mở rộng mức tín dụng, tăng vốn
vay trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho nhân dân trong phát triển
nông - lâm nghiệp; nâng mức đầu tư cho các hoạt động về các lĩnh vực trồng
rừng khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng nhằm nâng cao mức thu nhập cho
người lao động lâm nghiệp, khuyến khích người dân tích cực tham gia vào
các hoạt động phát triển lâm nghiệp.
Lồng ghép công tác bảo tồn với các hoạt động phát triển kinh tế. Hiện
nay Rừng Mẫu sơn mới chỉ tập trung vào quản lý bảo vệ rừng chưa chú ý đến
khai thác tiềm năng du lịch để cải thiện đời sống người dân.
Đối với xây dựng cơ sở hạ tầng, ngoài vốn hỗ tợ của Nhà nước, xã cần
có các hoạt động nhằm tại ra các nguồn kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng,
trước mắt ưu tiên phát triển giao thông và thông tin liên lạc.
25

×