Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 167 trang )



i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất cứ
công trình khoa học nào khác


Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận án


Đỗ Thị Tố Quyên


ii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ, sơ đồ
MỞ
ĐẦU……………………………………………………………………………………….1
Chương 1-NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI…………………………………… … 10
1.1.CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI……………………………………………………………………………10


1.2. ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI…………………………………………………………………………………… 25
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI………………………………………….45
1.4. KINH NGHIỆM ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN
HÀNG TRUNG QUỐC, MALAYSIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC NHTM
VIỆT NAM… ……………………………………… ……………………………… …47
Chương 2-THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM ………………….…………… … 53
2.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM…………………………………53
2.2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 67
2.3.ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
87
Chương 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CHO NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM ………… 111
3.1. XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ ĐỊNH
HƯỚNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM ……………….111
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CHO NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 124
3.3. KIẾN NGHỊ……………………………………………………………………… 144
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………… 150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………… 158


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu
Giải thích thuật ngữ viết tắt
ACB
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu.
AGRIBANK
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
ANZ
Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên ANZ Việt Nam
ATM
Máy rút tiền tự động – Automatic Teller Machine
BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CPH
Cổ phần hóa
HSBC
Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên HSBC Việt Nam
NH
Ngân hàng
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
POS
Điểm bán hàng hay điểm chấp nhận thẻ - Point Of Sale
ROA
Lợi nhuận ròng sau thuế trên tổng tài sản
ROE
Lợi nhuận ròng sau thuế trên vốn chủ sở hữu

SACOMBANK
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn thương tín
TECHCOMBANK
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
TCTD
Tổ chức tín dụng
TMCP
Thương mại cổ phần
TSCĐ
Tài sản cố định
VCSH
Vốn chủ sở hữu
VCB
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam
VĐL
Vốn điều lệ
VĐT
Vốn đầu tư
VIETINBANK
Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam
WTO
Tổ chức thương mại thế giới



iv
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Quy mô vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương
mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam………………. …… ………………… ….69

Bảng 2.2: Vốn đầu tư nâng cao trình độ công nghệ tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam ……………………………………… ……………74
Bảng 2.3: Các dự án đầu tư công nghệ triển khai trong năm 2009-2011 của Ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam …………………… ……… 75
Bảng 2.4: Vốn đầu tư phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam ………………………… …….… 82
Bảng 2.5: Vốn đầu tư nâng cao trình độ cán bộ của Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam ………………………………………… ………… … 85
Bảng 2.6: Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam …………………………………………………….…… 86
Bảng 2.7: Số lượng cán bộ được đào tạo tăng thêm hàng năm của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam ……… … 88
Bảng 2.8: Các chỉ tiêu phán ảnh kết quả gián tiếp của hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh tác động đến năng lực tài chính của ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam……………………………………… …………….89
Bảng 2.9: Một số chỉ tiêu tài chính của các NHTM tại Việt Nam thời điểm cuối năm
2012………………………………………… ……………………………………90
Bảng 2.10: Biến động doanh số các sản phẩm chính hàng năm của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam…………………………………… 92
Bảng 2.11: Biến động thị phần các sản phẩm chính hàng năm của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam …………………………………… 93
Bảng 2.12: Cơ cấu thu nhập của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam hàng năm …………………………………………………… …………… 94
Bảng 2.13: Cơ cấu thu nhập của một số NHTM Việt Nam năm 2012……… … 95


v
Bảng 2.14: Chỉ tiêu Doanh số bán hành tăng thêm so với vốn đầu tư đối với một số
sản phẩm chính của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam…………… 98
Bảng 2.15: Chỉ tiêu Thị phần tăng thêm so với vốn đầu tư đối với một số sản phẩm

chính của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam ……………… ………….99
Bảng 2.16: Chỉ tiêu Lợi nhuận tăng thêm so với vốn đầu tư hàng năm của Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam……………… …………………… ……100
Bảng 2.17: Chỉ tiêu tài chính một số NHTM trong khu vực năm 2012……… 101
Bảng 2.18: Cơ cấu thu nhập của một số ngân hàng trong khu vực 2012……… 102
Bảng 2.19: Thị phần huy động vốn, tín dụng của các NHTM năm 2012…… 103
Bảng 3.1: Đánh giá các đối thủ cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam……………………………………………………………………… 120




vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Biểu đồ:

Biểu đồ 2.1: Chỉ số Sức mạnh thương hiệu Quý 3/2012 của một số NHTM…………… 63
Biểu đồ 2.2: Chỉ số Sức mạnh thương hiệu theo thời gian của một số NHTM.………….63
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh theo nội dung đầu tư (trung
bình trong giai đoạn 2005-2012) 71
Biểu đồ 2.4:. Vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam thời điểm cuối năm 2012 91
Biểu đồ 2.5: Vốn chủ sở hữu của một số NHTM Việt Nam thời điểm cuối 2012 91
Biểu đồ 2.6: Quy mô tổng tài sản một số NHTM Việt Nam năm 2012 91
Biểu đồ 2.7: Chỉ tiêu tài chính của một số ngân hàng trong khu vực năm 2012 102
Biểu đồ 2.8: Thị phần huy động vốn năm 2012 của các NHTM Việt Nam 103
Biểu đồ 2.9 Thị phần tín dụng năm 2012 của các NHTM Việt Nam 104

Sơ đồ:
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa đầu tư và vị thế cạnh tranh của NHTM………… …….36

Sơ đồ 3.1: Mô hình Năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter 127

Khác:
Ma trận đối thủ cạnh tranh 65


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính hiệu quả và ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang
chịu vô vàn sức ép khi vừa trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế. Đồng thời, trong điều
kiện mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng thương mại trong nước càng phải
đối mặt với nhiều thách thức hơn. Lúc này, vấn đề năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng cần được đánh giá lại một cách nghiêm túc, cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB) là một trong
những ngân hàng lớn nhất của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam,
chiếm thị phần đáng kể đối với nhiều sản phẩm chủ chốt: tín dụng, huy động, thanh
toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, thẻ… Mặc dù vậy, VCB cũng đang phải đương
đầu với áp lực cạnh tranh gay gắt. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh là yêu cầu
cấp bách đặt ra đối với VCB.
Nhiều giải pháp thường được đề cập đến để nâng cao năng lực cạnh tranh
cho VCB là xây dựng chiến lược kinh doanh, tăng cường tiềm lực tài chính, hiện
đại hóa công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng phục vụ khách
hàng, đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xây dựng thương hiệu,…Song, để tiến hành
được các giải pháp đó, cần phải có đầu tư. Vì vậy, có thể xem đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh là giải pháp cơ bản và quan trọng của VCB. Tuy nhiên, để đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh thực sự tác động tích cực đến năng lực canh tranh,
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, cần phải trả lời được các câu hỏi: xây dựng
chiến lược đầu tư như thế nào, huy động vốn đầu tư từ đâu, sử dụng và phân bổ vốn
đầu tư vào các tài sản nào, vào các lĩnh vực nào,… để có tác động tốt nhất đến nâng

cao năng lực cạnh tranh?
VCB với vai trò tiên phong, cũng như mang tính tiêu biểu: vừa đại diện cho
khối ngân hàng quốc doanh, vừa mang đặc trưng mới của một ngân hàng thương
mại cổ phần (TMCP), là một đối tượng đầy đủ và sống động cho nghiên cứu vấn đề
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Do đó, tác giá lựa chọn nghiên cứu: “Đầu tư


2
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
(i) Nghiên cứu trong nước
Phù hợp với yêu cầu thực tế, rất nhiều các nghiên cứu về cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam ra đời, phản ánh đúng tầm quan trọng và
cấp thiết của vấn đề.
Một số nghiên cứu nổi bật như: tác giả Nguyễn Thị Quy có nghiên cứu về
“Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập” [38];
tác giả Trịnh Quốc Trung với luận án Tiến sĩ kinh tế: “Các giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh và hội nhập của ngân hàng thương mại đến năm 2010” [45];
tác giả Lê Đình Hạc với luận án tiến sĩ kinh tế: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế” [7]; tác giả Đoàn Đỉnh Lam với luận án tiến sĩ: “Nâng cao năng lực cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần ở thành phố Hồ Chí Minh trong xu
thế hội nhập” [13], ….Ngoài ra còn rất nhiều các luận văn thạc sĩ cũng chọn vấn đề
năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam làm đề tài nghiên cứu.
Các tác giả đã có những phân tích thực nghiệm về năng lực cạnh tranh của hệ
thống NHTM Việt Nam trong xu thế hội nhập. Từ việc thu thập, phân tích số liệu
cụ thể qua nhiều năm của các ngân hàng, các tác giả đã có các kết luận, đánh giá cả
định tính và định lượng về thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các
NHTM Viêt Nam, cũng như phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh

tranh của ngân hàng thương mại. Kết quả nổi bật nhất trong các nghiên cứu này là:
 Đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của NHTM và đánh giá thực trạng
đối với một hoặc một số ngân hàng thông qua các chỉ tiêu thể hiện năng lực
cạnh tranh của NHTM;
 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, từ đó tìm ra giải
pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM.


3
Đối với nội dung thứ nhất, để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM,
các tác giả thường sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu phổ biến như sau:
- Đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua phương thức cạnh tranh, thể hiện
qua các chỉ tiêu đính tính và định lượng:
o Số lượng sản phẩm;
o Chất lượng sản phẩm;
o Giá cả dịch vụ;
o Quy mô và tính hiệu quả của hệ thống phân phối;
o Hiệu quả của phương thức tiếp cận khách hàng.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua các yếu tố phản ánh tiềm lực của
ngân hàng:
o Vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ, tổng tài sản;
o Khả năng thanh khoản, chi trả;
o Tỷ lệ an toàn vốn;
o Số lao động, cơ cấu lao động theo trình độ;
o Khả năng tiếp cận, sao chép, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá;
o Tác động của hệ thống công nghệ đến sản phẩm, quản trị điều hành;
o Tính hiệu quả của bộ máy quản lý,…
- Đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua kết quả, hiệu quả kinh doanh: ,
o Lợi nhuận, tăng trưởng lợi nhuận;
o Khả năng sinh lời trên tổng tài sản (ROA), trên vốn chủ sở hữu (ROE);

o Khả năng cho vay, huy động vốn;
o Chất lượng tín dụng;
o Thị phần;
o Uy tín của ngân hàng trên thị trường.
PGS.TS Nguyễn Thị Quy trong tác phẩm “Năng lực cạnh tranh của các
Ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập” đã xây dựng một hệ thống các chỉ


4
tiêu cụ thể cho việc đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Theo
bà, các chỉ tiêu này không chỉ tập trung phản ánh nguồn lực hiện có của ngân hàng,
vào các chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng đó mà còn phải phản ánh được vị thế cạnh
tranh của ngân hàng đó ở hiện tại và khả năng duy trì, phát triển vị thế cạnh tranh
đó trong tương lai. Do đó, các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM bao
gồm:
- Tiềm lực tài chính thể hiện qua: mức độ an toàn vốn và khả năng huy động
vốn; chất lượng tài sản có (tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ lập dự phòng,
khả năng thu hồi nợ xấu, rủi ro tín dụng tiềm ẩn,…); mức sinh lời (lợi nhuận sau
thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, lợi nhuận trên tổng tài sản - ROA, lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu - ROE,…); khả năng thanh khoản.
- Tiềm lực về công nghệ: số lượng, chất lượng, khả năng đổi mới công nghệ.
- Nguồn nhân lực: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động cơ
phấn đấu, mức độ cam kết gắn bó với ngân hàng,…
- Nguồn lực quản lý và cơ cấu tổ chức: mức độ chi phối và khả năng giám
sát của hội đồng quản trị đối với ban giám đốc; số lượng, chất lượng và hiệu lực
thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quy
trình quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ; cơ cấu tổ chức; mức độ phối hợp giữa các bộ
phận và khả năng thích nghi, thay đổi của cơ cấu.
- Hệ thống kênh phân phối và mức độ đa dạng hoá các các dịch vụ cung cấp:
số lượng các chi nhánh, đơn vị trực thuộc; sự phân bổ theo địa lý, theo thị trường;

tính hợp lý của sự phân bổ chi nhánh; quản lý, giám sát hoạt động chi nhánh; mức
độ đa dạng các dịch vụ cung cấp.
Đối với nội dung thứ hai, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh và từ đó tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM,
các tác giả tập trung vào phân tích các nhân tố nội tại của ngân hàng, đặc biệt là các
nhân tố thuộc về tiềm lực tài chính và kỹ năng quản lý ngân hàng. Ở mức độ rộng
hơn, trong nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong
xu thế hội nhập” tác giả Nguyễn Thị Quy cho rằng, trong thời kỳ hợp tác quốc tế


5
phát triển mạnh thì vị thế cạnh tranh của một ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào
nguồn lực nội tại của ngân hàng đó mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố bên
ngoài (đối thủ cạnh tranh, khả năng thâm nhập của đối thủ, các điều kiện môi
trường vĩ mô,…). Do đó, theo tác giả, những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của một ngân hàng, ngoài các nhân tố nội tại còn có nhiều yếu tố bên ngoài:
- Các điều kiện mang tính nhân tố:
+ Lợi thế cạnh tranh về yếu tố nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng thể
hiện qua: quy mô đào tạo hàng năm, trình độ, kỹ năng của đội ngũ sinh viên được
đào tạo trong lĩnh vực ngân hàng khi ra trường có khả năng đáp ứng yêu cầu của
ngân hàng; số lượng các chuyên viên ngân hàng, các nhà quản lý ngân hàng giỏi,
mức lương bình quân, chế độ làm việc,…
+ Nguồn tri thức trong lĩnh vực ngân hàng thể hiện ở số các trường đại học,
các viện đào tạo và nghiên cứu về hoạt động ngân hàng; số lượng, chất lượng các ấn
phẩm khoa học, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực ngân hàng;….
+ Trình độ công nghệ chung;
+ Điều kiện vốn: khả năng huy động, tiếp cận, các chính sách vĩ mô liên
quan,…
- Điều kiện về cầu đối với dịch vụ ngân hàng;
- Trình độ phát triển của các ngành cạnh tranh, ngành liên quan và phụ trợ;

- Môi trường vĩ mô;
- Đặc điểm về văn hoá, xã hội;
Đối với đầu tư, tác giả tập trung vào sự gia tăng vốn điều lệ, phân tích một
cách khái quát về đầu tư cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng hoạt động và quản
lý nhưng không đưa ra các số liệu cụ thể về đầu tư.
Như vậy, mặc dù các nghiên cứu có giá trị và ý nghĩa thiết thực trong
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM nhưng do điều kiện kinh tế luôn
luôn thay đổi, đặt các nghiên cứu trên trong bối cảnh hiện tại sẽ không tránh
khỏi một số hạn chế:


6
- Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM chưa phản ánh đầy
đủ, phù hợp với tính chất của một ngân hàng hiện đại, xu thế phát triển hiện nay của
NHTM Việt Nam;
- Các tiêu chí đưa ra nhiều nhưng riêng rẽ, chưa có đánh giá tổng quát vị thế
cạnh tranh của một ngân hàng so với các ngân hàng còn lại vì năng lực cạnh tranh,
vị thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng đạt được là do sự kết hợp của nhiều tiêu chí
khác nhau.
- Các đánh giá đa phần mang tính chủ quan, thiếu kết quả khảo sát thực tế từ
khách hàng – là đối tượng có đánh giá khách quan về năng lực cạnh tranh của ngân
hàng và phản ánh đúng nhất sự phù hợp của năng lực cạnh tranh ngân hàng đối với
xu hướng thị trường.
- Đối với các nhân tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao
năng lực cạnh tranh, đa phần các nghiên cứu mới chỉ quan tâm đến các nhân tố nội
tại còn việc phân tích nguồn gốc làm nên các nhân tố đó không được phân tích,
lượng hoá một cách cụ thể, khoa học. Các nghiên cứu chưa phân tích sâu về vai trò
của hoạt động đầu tư, mới chỉ nhắc đến đầu tư một cách gián tiếp, trong khi đầu tư
là nguồn gốc tạo nên nhiều nhân tố của năng lực cạnh tranh. Vì thế, đầu tư nâng
cao năng lực cạnh tranh chưa được xem như giải pháp then chốt, dài hạn trong các

nghiên cứu.
(ii) Nghiên cứu của nước ngoài
Hiện nay, nghiên cứu nổi bật nhất về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh là
nghiên cứu của Michael Porter, giáo sư trường đại học Kinh doanh Harvard. Những
nghiên cứu về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ông có thể áp dụng trong mọi
cấp độ (doanh nghiệp, ngành, quốc gia) cũng như mọi lĩnh vực (sản xuất, dịch vụ).
Ở các cấp độ và các lĩnh vực, ông đều đưa ra những phân tích, kết luận xác đáng về
các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
Đặc biệt, mô hình Năm lực lượng cạnh tranh ra đời năm 1979 của ông đã
chỉ rõ những nhân tố tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của một doanh
nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra những giải pháp, cơ hội để đối phó và chiến


7
thắng trong cạnh tranh. Đó là 5 nhân tố: yếu tố đầu vào; nhu cầu của thị trường;
những ngành (doanh nghiệp) hỗ trợ và liên quan; môi trường, thể chế kinh tế và sự
cạnh tranh của các doanh nghiệp khác; chiến lược của doanh nghiệp. Mô hình này
hoàn toàn có thể áp dụng đối với các ngân hàng, là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
tài chính.
Tuy nhiên, các nghiên cứu của ông mang tầm lý luận, khái quát cao, để áp
dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam hay vào một chủ thể kinh doanh cụ thể thì
cần phải có cách nhìn nhận linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế. Bên cạnh đó,
mô hình Năm lực lượng cạnh tranh chưa chỉ rõ vai trò của hoạt động đầu tư nâng
cao năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp. Để thấy được vai trò của hoạt động
này, cần có sự phân tích cụ thể, chi tiết hơn.
Luận án sẽ tiếp tục vận dụng nghiên cứu của Michael Porter làm cơ sở lý
luận và phát triển thêm mô hình Năm lực lượng cạnh tranh của ông khi nghiên cứu
về VCB.
Chính vì vậy, bên cạnh việc xây dựng những chỉ tiêu phù hợp, khách quan để
đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM, luận án nghiên cứu tập trung vào hoạt

động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh là một giải pháp cơ bản đảm bảo cho ngân hàng giữ vững và củng cố vị
thế của mình trong điều kiện hội nhập sâu rộng và cạnh tranh mạnh mẽ. Luận án sẽ
phân tích, đánh giá hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại thông qua các số liệu cụ thể, điển hình của VCB, xây dựng hệ thống các
chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu quả của hoạt động này, đề xuất các giải pháp để hoạt
động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phát huy hiệu quả với kỳ vọng có thể
xem đó như các giải pháp căn bản, mang tính khả thi cao.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ, phát triển các vấn đề lý luận về năng lực cạnh
tranh và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại; xác định
tác động của việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh đến khả năng cạnh tranh, vị
thế của ngân hàng trong kinh doanh;


8
- Qua lý luận và thực tiễn, khẳng định hoạt động đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh đóng vai trò vô cùng quan trọng với sự tồn tại và phát triển của các
NHTM nói chung, VCB nói riêng. Tùy từng giai đoạn, tùy vào chiến lược phát
triển, chiến lược cạnh tranh mà ngân hàng có những hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh cụ thể phù hợp.
- Tìm ra các giải pháp căn bản, khả thi để tăng cường đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh cho VCB, cũng như có thể xem xét áp dụng cho các ngân hàng khác
trong điều kiện thích hợp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các hoạt động đầu tư nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của VCB, kết quả và hiệu quả đạt được từ các hoạt động đầu tư
đó. Phạm vi nghiên cứu của luận án là các hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh diễn ra tại VCB trong giai đoạn vừa qua (chủ yếu là giai đoạn 2005-2012).
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng nhiều phương pháp khoa học trong quá trình nghiên cứu:
phân tích, tổng hợp, so sánh, lập bảng, thống kê, toán học, suy luận logic, phỏng
vấn chuyên gia…Luận án tiếp cận vấn đề trên quan điểm của doanh nghiệp, cụ thể
là một NHTM, kết hợp mô tả và phân tích các số liệu thực tế thu thập qua nhiều
năm, sử dụng các phương pháp khoa học để đánh giá một cách định lượng kết hợp
định tính hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB.
6. Đóng góp của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án đã phát triển các vấn đề lý luận về hoạt động đầu
tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại: khái niệm, đặc điểm,
vai trò, các yếu tố ảnh hưởng,… Luận án cũng chỉ ra: các nội dung của hoạt động
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào chiến lược cạnh tranh, công cụ
cạnh tranh mà ngân hàng sử dụng trong từng giai đoạn. Để đánh giá hiệu quả của
hoạt động này, luận án xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả
của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại, bao gồm những
chỉ tiêu trực tiếp và gián tiếp, chỉ tiêu định tính và định lượng.


9
- Về mặt thực tiễn: Vận dụng lý luận, luận án đã tổng kết và đánh giá thực
trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB qua nhiều góc độ. Với
đặc điểm, vị thế cạnh tranh hiện tại, luận án chỉ ra rằng hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của VCB cần đặc biệt tập trung vào nâng cao trình độ công
nghệ, nâng cao trình độ nhân lực và đầu tư cho phát triển thương hiệu, xúc tiến bán
hàng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB còn bất hợp
lý chính vì chưa đầu tư đúng trọng điểm. Bằng việc tính toán các chỉ tiêu, luận án
chỉ ra đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB đã tác động tích cực đến năng
lực cạnh tranh nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Trên cơ sở phân tích các hạn chế,
nguyên nhân, luận án đưa ra những giải pháp thiết thực cho VCB nhằm tăng cường
hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời có thể tham
khảo cho các NHTM khác trong điều kiện thích hợp.

Điểm mạnh của luận án là có số liệu phong phú, chân thực, tập trung vào
một vấn đề mới là đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM.
Việc xác định hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng là
một cố gắng của tác giả nhưng cũng là điểm khó khăn vì năng lực cạnh tranh là
tổng hợp của nhiều nhân tố, không phải nhân tố nào cũng chịu tác tác động trực tiếp
của đầu tư. Mặt khác, có những nhân tố không thể đánh giá định lượng mà chỉ có
thể đánh giá một cách định tính.
7. Kết cấu của luận án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Ngân hàng
thương mại cổ phẩn Ngoại thương Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
cho Ngân hàng thương mại cổ phẩn Ngoại thương Việt Nam.


10
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
1.1.1. Tổng quan về các ngân hàng thương mại [6], [37]
1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của ngân hàng thương mại
Phù hợp với trình độ phát triển vào từng thời kỳ mà mỗi quốc gia có các định
nghĩa khác nhau về ngân hàng. Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 16/06/2010, có hiệu
lực từ thi hành từ 01/01/2011 thì “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo
tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng
thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” (mục 2 Điều 4) và

“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản” (mục 12 Điều 4) [37]
NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, số lượng ngân hàng. Hiểu
theo nghĩa chung nhất thì “NHTM là doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ ngân
hàng vì mục tiêu lợi nhuận. NHTM chính là các doanh nghiệp đặc biệt, kinh
doanh tiền tệ và các dịch vụ liên quan đến thanh toán, tiền tệ và cũng hoạt động
vì lợi nhuận như bất cứ một doanh nghiệp nào khác”. [6]
Xét trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì
“NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”. [6]
Ngân hàng quan trọng đối với nền kinh tế vì Ngân hàng có ba chức năng cơ
bản sau:


11
- Trung gian tài chính: kết nối giữa đối tượng cần vốn và đối tượng có vốn
nhàn rỗi.
- Tạo phương tiện thanh toán: Khi khách hàng có số dư trên tài khoản tiền
gửi thanh toán, họ có thể chi trả cho các hàng hóa và dịch vụ. Qua nghiệp vụ cho
vay, ngân hàng làm cho số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng tăng lên,
nghĩa là ngân hàng tạo ra phương tiện thanh toán.
- Trung gian thanh toán: Với sự phát triển của công nghệ, ngân hàng ngày
càng cung cấp nhiều dịch vụ thanh toán đa dạng cho khách hàng, từ cung ứng tiền
mặt, séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu,… tới các dịch vụ thanh toán hiện đại trên nền tảng
của công nghệ tin học, điện tử như các loại thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,…
1.1.1.2. Hoạt động của Ngân hàng thương mại
NHTM là một doanh nghiệp cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính

cho các cá nhân và tổ chức. Như vậy, cần phải xem xét NHTM dưới hai khía cạnh:
- NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận như các
doanh nghiệp khác.
- NHTM là một trung gian tài chính với việc cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính.
Mặc dù vậy, hai khía cạnh không tách biệt nhau, với bản chất kinh doanh vì
lợi nhuận thì danh mục các dịch vụ tài chính chính là sản phẩm cung cấp ra thị
trường của doanh nghiệp – ngân hàng thương mại.
Xem xét dưới khía cạnh là trung gian tài chính, hoạt động của NHTM tập
trung vào các dịch vụ tài chính cho cá nhân và tổ chức. Ngày nay, mỗi ngân hàng
hiện đại có thể cung cấp hàng nghìn sản phẩm dịch vụ. Tuy nhiên, các sản phẩm
dịch vụ đó đều thuộc một trong các nhóm dịch vụ sau:
(1) Nhận tiền gửi: Để có nguồn tiền cho vay lấy lãi và triển khai các hoạt
động khác, ngân hàng phải có vốn. Ngoài nguồn vốn tự có, ngân hàng phải tìm mọi
cách để huy động tiền. Một trong các nguồn tiền quan trọng là các khoản tiền gửi


12
(thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để
bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.
(2) Cho vay: Cho vay là một hoạt động truyền thống và là hoạt động sinh lời
cao. Cho vay có nhiều hình thức: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ dự
án, …
(3) Mua bán ngoại tệ: ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một
loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
(4) Bảo quản vật có giá: Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có
giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản và hưởng phí bảo quản.
(5) Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khách hàng
gửi tiền vào ngân hàng và thông qua ngân hàng thực hiện các lệnh chi trả cho người
thụ hưởng theo yêu cầu của người gửi tiền. Trên cơ sở tài khoản giao dịch đó, ngân

hàng ngày càng cung cấp các dịch vụ thanh toán thuận tiện như ủy nhiệm chi, nhờ
thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ, ….
(6) Quản lý ngân quỹ: ngân hàng quản lý việc thu chi cho doanh nghiệp và
tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và
tín dụng ngắn hạn nhưng vẫn đảm bảo có tiền mặt khi khách hàng cần thanh toán.
(7) Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Các ngân hàng mua trái phiếu
Chính phủ hoặc cho Chính phủ, doanh nghiệp của Chính phủ vay với các điều kiện
ưu đãi.
(8) Bảo lãnh: ngân hàng sử dụng uy tín và khả năng thanh toán của mình để
bảo lãnh cho khách hàng trong các giao dịch và hưởng phí.
(9) Cho thuê thiết bị trung dài hạn: Ngân hàng mua máy móc thiết bị có giá
trị lớn và ký hợp đồng thuê mua với khách hàng.
(10) Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: khách hàng ủy thác cho ngân hàng
thực hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng cũng sẵn
sàng cung cấp dịch vụ tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính cho khách hàng.
(11) Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm.


13
(12) Cung cấp các dịch vụ đại lý: làm đại lý cho các ngân hàng khác trong
thanh toán, phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài
trợ,…
Xem xét dưới khía cạnh một doanh nghiệp, NHTM có những hoạt động cơ
bản như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác nhưng có những đặc trưng riêng:
- Để cung cấp được sản phẩm đầu ra – các dịch vụ tài chính – ngân hàng
cũng phải có các yếu tố đầu vào. Đầu vào đối với NHTM, bên cạnh nguồn vốn dồi
dào, phải là các yếu tố cao cấp, phức tạp như đội ngũ lao động có chuyên môn cao,
công nghệ hiện đại, cơ sở hạ tầng tiện nghi, mạng lưới rộng lớn,…
- Ngân hàng cũng phải vận hành một bộ máy quản lý và nhân sự đảm nhiệm
các chức năng nhiệm vụ giống như các doanh nghiệp khác.

- Nghiên cứu ra các sản phẩm, xây dựng quy trình làm việc, quản lý rủi ro là
những hoạt động đặc biệt quan trọng đối với NHTM.
- Giống như các doanh nghiệp khác, để bán được sản phẩm, NHTM cũng
phải tiến hành các biện pháp marketing, quảng bá, xúc tiến bán hàng, chăm sóc
khách hàng và củng cố, phát triển uy tín, thương hiệu của mình trên thị trường.
- Để có được nền tảng cơ bản phục vu cho hoạt động, duy trì và cải thiện các
yếu tố đầu vào, vận hành được bộ máy quản lý hay tạo dựng được thương hiệu thì
ngân hàng phải có tích luỹ, đầu tư một cách có định hướng. Đó chính là việc đầu tư
vào cơ sở hạ tầng, đầu tư vào nguồn nhân lực, đầu tư vào công nghệ, đầu tư cho
phát triển thương hiệu…Và các yếu tố do đầu tư mà có được cũng chính là các yếu
tố làm nên khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng.
Như vậy, NHTM bản chất là doanh nghiệp với mục đích, hoạt động cơ bản
giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, bên cạnh đó, NHTM có những
đặc thù riêng, nổi bật là vai trò trung gian tài chính vô cùng quan trọng đối với nền
kinh tế. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về NHTM đều phải xem xét dưới cả hai góc
độ này mới đảm bảo đầy đủ và phản ánh đúng bản chất của NHTM.


14
1.1.2. Lý luận về canh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại
1.1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại [39], [50], [56], [59]
(i) Khái niệm cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Cạnh tranh là khái niệm song hành với khái niệm kinh tế thị trường. Cạnh
tranh được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển và quy luật hoạt động của kinh tế
thị trường. Cạnh tranh hiểu theo nghĩa chung nhất là sự ganh đua hơn thua. Vậy
trong kinh doanh, cần hiểu cạnh tranh như thế nào?
Ở phạm vi quốc gia, theo Ủy ban Cạnh tranh công nghiệp của Mỹ thì: cạnh
tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do

và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân
nước đó.
Ở cấp độ doanh nghiệp, theo Từ điển Kinh doanh (xuất bản năm 1992, tại
Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà
kinh doanh nhằm dành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hóa về phía mình.
Hai nhà kinh tế học người Mỹ P.A Samualson và W.D Nordhaus trong nghiên cứu
về kinh tế học cho rằng: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp để dành
khách hàng hoặc thị trường. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh (trong
kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ
cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất. Theo
các tác giả trong cuốn “Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh
kiểm soát độc quyền kinh doanh” thì cho rằng: cạnh tranh có thể được hiểu là sự
ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc dành một số nhân tố sản xuất hoặc
khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu
kinh doanh cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. [56]


15
Mặc dù đưa ra những khái niệm khác nhau về cạnh tranh nhưng các tác giả
đều thể hiện quan điểm chung về cạnh tranh như sau:
- Phải có nhiều chủ thể cạnh tranh với nhau;
- Các chủ thể cạnh tranh cùng hướng tới một mục tiêu: tài nguyên sản xuất,
thị phần, lợi nhuận, …
- Sự “ganh đua”, “kình địch” bao hàm ý các chủ thể tiến hành nhiều biện
pháp nhằm tạo ra lợi thế hơn so với đối thủ;
- Cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cụ thể, là các ràng buộc
chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ và chịu tác động như chính
sách pháp luật, thông lệ kinh doanh, nhu cầu của khách hàng,…

Trong lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngân hàng để
đạt được mục tiêu kinh doanh. Các ngân hàng đều cung ứng các sản phẩm là dịch
vụ tài chính ngân hàng và việc cạnh tranh đó diễn ra trong cùng một môi trường
kinh doanh: chịu tác động của cùng một hệ thống chính sách, cùng một cơ sở hạ
tầng, cùng những tập quán tiêu dùng của khách hàng, Do đó, để “ganh đua”, mỗi
ngân hàng phải tạo ra các ưu thế trong việc cung cấp các dịch vụ và vận dụng nó
trong kinh doanh. Các ưu thế có thể là chất lượng dịch vụ tốt hơn, giá cả thấp hơn,
hệ thống phân phối thuận lợi hơn,… so với các ngân hàng khác.
Vậy, theo tác giả, cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là
việc các ngân hàng tạo ra và vận dụng các lợi thế so sánh trong việc cung cấp
sản phẩm, dịch vụ tại cùng một môi trường kinh doanh nhằm đạt được những
mục tiêu cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần, nâng cao vị thế của
mình trên thị trường hơn so với các ngân hàng khác.
(ii) Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại [39], [50]
Trong cạnh tranh, không phải chủ thể nào cũng chiến thắng các đối thủ khác
với cùng mục tiêu đặt ra. Phải chăng những chủ thể chiến thắng có lợi thế hơn
những đối thủ cạnh tranh khác. Lý giải cho vấn đề này, cần phải nghiên cứu khái
niệm “Năng lực cạnh tranh”.


16
Rất nhiều các học thuyết, các công trình nghiên cứu từ cổ điển tới hiện đại đã
cố gắng lý giải cho vấn đề này. Các học thuyết cổ điển đã manh nha đề cập đến
năng lực cạnh tranh, ở cấp độ quốc gia. Từ thế kỷ 18, lý thuyết về lợi thế tuyệt đối
của Adam Smith lý giải về việc một quốc gia trở nên giàu có. David Ricardo xây
dựng lý thuyết lợi thế so sánh để lý giải về những lợi ích trong thương mại quốc tế
và cũng đồng thời lý giải cho việc vì sao có những nước phát triển hơn nhờ vào khai
thác các lợi thế tương đối của mình.
Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế quốc tế, đặc biệt là sự bùng nổ mạnh mẽ
của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thông qua việc thành lập các tập

đoàn đa quốc gia, sự cạnh tranh không chỉ giới hạn trong hoạt động thương mại mà
còn thông qua các doanh nghiệp FDI. Các học thuyết cổ điển đã không còn lý giải
được đầy đủ về hiện tượng này.
Heckscher và Ohlin lý giải lợi thế cạnh tranh bằng lý thuyết các nhân tố của
quá trình sản xuất. Lý thuyết này được nhà kinh tế học Paul Sammuelson bổ sung
nên còn được gọi là mô hình Heckscher - Ohlin - Sammuelson. Các lý thuyết về lợi
thế theo quy mô, khác biệt hoá nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc
tế, về cạnh tranh không hoàn hảo của Krugman, Helpman, nghiên cứu của Brian
Hindley và Alasdair Smith về lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ (1984), học
thuyết về khoảng cách công nghệ (technology gap), vòng đời sản phẩm (product
cycle) của Raymond Vernon…cũng đưa ra những lý giải về khái niệm năng lực
cạnh tranh.
Theo Heckscher và Ohlin thì lợi thế cạnh tranh của quốc gia được tạo ra trên
cơ sở của những điều kiện tương đương về công nghệ, nhưng khác nhau về các
nguồn lực được gọi là các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, các điều kiện tự
nhiên và vốn. Như vậy, quốc gia đó sẽ xuất khẩu sản phẩm của những ngành có lợi
thế về nhân tố sản xuất và nhập khẩu những sản phẩm mà quốc gia đó bất lợi về
nhân tố sản xuất. Lý thuyết này giả định rằng không tồn tại yếu tố lợi thế nhờ quy
mô và trình độ công nghệ, mà quy mô và trình độ công nghệ là tương đương ở mọi
quốc gia; các sản phẩm không có tính khác biệt và các nhân tố sản xuất ở các quốc


17
gia là cố định. Do đó, lý thuyết này chỉ lý giải được lợi thế cạnh tranh trong thương
mại ở một số ngành phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, những ngành không đòi
hỏi cao về trình độ lao động và công nghệ. Hầu hết các học thuyết này chỉ dựa vào
chi phí để lý giải cho lợi thế cạnh tranh, coi thay đổi công nghệ là nhân tố bên ngoài
và chưa chú trọng đến chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm.
Ở cấp độ vi mô, có quan điểm cho rằng: “những doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh là những doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức trung bình về

chất lượng hàng hoá và dịch vụ và/hoặc có khả năng cắt giảm các chi phí tuơng đối
cho phép họ tăng được lợi nhuận và/ hoặc thị phần…” [50, tr.109]
Định nghĩa này phản ánh được tương đối toàn diện về năng lực cạnh tranh
của một doanh nghiệp, nêu được mục tiêu của cạnh tranh và những yêu cầu cơ bản
để cạnh tranh thành công. Tuy nhiên, dưới sự tác động của khoa học công nghệ, lợi
thế cạnh tranh luôn luôn biến động nên nhược điểm của định nghĩa trên là không
phản ánh được sự biến động đó.
Nghiên cứu toàn diện nhất, đầy đủ nhất về năng lực cạnh tranh là học thuyết
của Michael Porter (M.Porter) - giáo sư trường Kinh doanh Harvard, người được
coi là học giả có nhiều ảnh hưởng nhất trong nghiên cứu về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh quốc tế. Nghiên cứu về cạnh tranh của ông thể hiện qua 16 cuốn sách và
hơn 100 bài báo về chiến lược và năng lực cạnh tranh. Các nghiên cứu về cạnh
tranh của ông rất toàn diện: từ cấp độ doanh nghiệp, ngành cho đến quốc gia và
cũng bao trùm cả lĩnh vực sản xuất, dịch vụ.
M.Porter đã đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh động. Theo đó, một
doanh nghiệp lúc này có lợi thế cạnh tranh nhờ những ưu thế như nguồn lao động rẻ
hay gần nguồn nguyên liệu sẽ có thể mất lợi thế cạnh tranh khi doanh nghiệp khác
có lợi thế trên cơ sở những tiến bộ của khoa học công nghệ hay nhờ ưu thế về quy
mô. Vì thế, một doanh nghiệp được gọi là có năng lực cạnh tranh còn phải là doanh
nghiệp có khả năng duy trì và liên tục tăng cường khả năng cạnh tranh của mình.
Theo ông, để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế
cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả


18
năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để
duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế
cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp nhũng hàng hoá hay dịch vụ có chất
lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn.
Như vậy, đề cập đến năng lực cạnh tranh, M.Porter đã đưa ra quan niệm bao

hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh. Năng lực cạnh
tranh cần phải gắn liền với khả năng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực xã hội.
Ông khẳng định rằng học thuyết mới cần phải phản ánh sự phong phú của
khái niệm cạnh tranh bao gồm phân đoạn thị trường, các sản phẩm được khác biệt
hoá, sự khác biệt về công nghệ và lợi thế nhờ quy mô. Ông cho rằng cạnh tranh là
một khái niệm động, liên tục phát triển và cạnh tranh là một mảnh đất luôn thay đổi
mà ở đó, những sản phẩm mới, những cách marketing mới, những quy trình sản
xuất mới và cả một thị trường mới sẽ liên tục xuất hiện. Lợi thế ở một thời điểm sẽ
nhanh chóng bị thay thế bởi những tiến bộ có tốc độ phát triển cao hơn.
Việc đưa ra một định nghĩa về năng lực cạnh tranh đầy đủ, chuẩn xác trong
mọi trường hợp là không hiệu quả. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về từng đối tượng,
cần phải đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá
năng lực cạnh tranh của đối tượng đó. Các NHTM kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
năng lực cạnh tranh không chỉ đáp ứng mục tiêu lợi nhuận, thị phần, mà còn luôn
luôn phải đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh.
Trên cơ sở các nghiên cứu về cạnh tranh và đặc điểm hoạt động của ngân
hàng, tác giả đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng: Năng lực
cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và liên
tục tăng cường những lợi thế nhằm đạt được mức cao hơn mức trung bình về
chất lượng sản phẩm, dịch vụ và/ hoặc có khả năng giảm chi phí tương đối cho
phép ngân hàng tăng được lợi nhuận, thị phần, đảm bảo hoạt động an toàn, lành
mạnh.


19
(iii) Đặc trưng trong cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, bên cạnh việc ganh đua nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh, cạnh
tranh trong ngân hàng lại nằm trong sự hợp tác tương đối. Các ngân hàng thương
mại không thể hoạt động tách biệt nhau mà có sự liên quan chặt chẽ trong nhiều

hoạt động: trên thị trường liên ngân hàng với hoạt động vay mượn, mua bán ngoại
tệ, thanh toán…, hợp tác với nhau để cùng tạo thành một hệ thống cung cấp dịch vụ
cho khách hàng mà trong đó mỗi ngân hàng đóng vai trò là một thành viên (ví dụ
như hệ thống Banknet hay Smartlink cung cấp dịch vụ thẻ và ngân hàng tự động),
hợp tác với nhau để cùng thực hiện các chính sách điều tiết tiền tệ của Nhà nước,…
Thứ hai, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại luôn luôn phải đảm bảo
yêu cầu lành mạnh. Do đặc trưng của ngân hàng là kinh doanh trong lĩnh vực nhạy
cảm và ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của nền kinh tế nên bất cứ sự cạnh tranh thiếu
lành mạnh nào trong ngân hàng cũng có thể dẫn đến những rủi ro mang tính hệ
thống và ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế xã hội. Cạnh tranh bằng lãi suất có thể làm
dấy lên cuộc đua về lãi suất dẫn đến việc khó kiểm soát thị trường tài chính và làm
sai lệch đến các chỉ tiêu vĩ mô, ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác, bất ổn
kinh tế xã hội.
Thứ ba, cạnh tranh trong ngân hàng diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và
tinh vi. Bản chất các sản phẩm của ngân hàng là dịch vụ tài chính. Lợi ích của sản
phẩm ngân hàng được đo bằng các hiệu quả tài chính mang lại cho khách hàng và
mức độ hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ. Hiệu quả tài chính có thể
tính toán được cụ thể bằng con số và tùy thuộc vào thế mạnh, tiềm lực, khả năng
công nghệ, trình độ quản lý của mỗi ngân hàng mà hiệu quả tài chính mang lại cho
khách hàng khác nhau. Còn chất lượng dịch vụ là một phạm trù trừu tượng và thể
hiện dưới nhiều hình thức, được truyền tải qua rất nhiều phương tiện, công cụ.
Chính vì thế, các biện pháp cạnh tranh trong ngân hàng vô cùng đa dạng, phong phú
và tinh vi. Cạnh tranh thô sơ bằng cắt giảm chi phí, giảm giá, thực sự không có
nhiều ý nghĩa và hiệu quả, chỉ có tác dụng với một nhóm đối tượng khách hàng cụ
thể và trong những giai đoạn nhất định. Lãi suất là một công cụ cạnh tranh nhạy

×