Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bai tham khao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.94 KB, 4 trang )

TÂY TIẾN – QUANG DŨNG.
1. Xuất xứ tác
phẩm
Bài thơ Tây Tiến
được Quang Dũng
viết vào cuối năm
1948 ở Phù Lưu
Chanh, lúc Quang
Dũng
từ
đoàn
quân
Tây Tiến
chuyển sang một
đơn vị khác. Rời xa
đơn vị cũ, anh nhớ
và viết nên bài
thơ này (lúc đầu
có tên là “Nhớ
Tây Tiến”)
2. Nội dung:
Bài thơ Tây Tiến
là một nỗi nhớ.
Trước hết là nỗi
nhớ về hình ảnh
của đoàn quân
Tây Tiến thời ấy,
những nẻo đường
mà họ đã đi qua
với biết bao nỗi
khắc nghiệt, đầy hi


sinh gian khổ. Bài
thơ

bi

không có lụy, mang
đậm âm hưởng
đặc biệt bi tráng,
khắc
họa
một
cách sinh động và
đậm nét hình ảnh
đoàn quân Tây
Tiến; đó là những
chàng trai Hà Nội,
phần lớn là thanh
niên học sinh, có tri
thức, nguyện dấn
thân
vào
cuộc
chiến với tất cả
nỗi đam mê, với ý
thức trách nhiệm
công dân, không
tính toán chi li,
không so bì hơn

thiệt,

nhưng
pha
vào đấy là chất
hào hoa nghệ só.
3. Chủ đề:
Qua việc bộc lộ
nỗi nhớ Tây Tiến,
nhớ về những hình
ảnh,
những
kỉ
niệm đầy bi hùng
của
một
thời
kháng chiến đã đi
qua và không bao
giờ trở lại, nhà thơ
Quang Dũng đã ca
ngợi
những
nét
đẹp đầy lãng mạng
của chủ nghóa yêu
nước
anh
hùng
cách mạng Việt
Nam trong thời kì
kháng chiến chống

Pháp thông qua
hình ảnh người lính
Tây Tiến
4. Phân tích bài
thơ
Ra đời từ những
năm
đầu
của
cuộc kháng chiến
chống thực dân
Pháp, cùng một
đề tài người lính
với
Nhớ
của
Nguyên
Hồng,
Đồng chí của Chính
Hữu, nhưng Tây
Tiến có một gương
mặt
thật
khó
quên, mang đậm
hào khí lãng mạn
của một thời gắn
bó với một giai
đoạn lịch sử đấu
tranh anh hùng của

dân tộc.
Tây Tiến không
có một ánh sáng gì
khác
thường,
đột

xuất mà chỉ là sự
tiếp tục của một
dòng thơ lãng mạn,
nhưng đã được tác
giả thổi vào một
hồn thơ rất trẻ, rất
mới,
khác
hẳn
những tiếng thơ bi lụy
não nùng. TT nhắc
tới một thời gian khổ
và oanh liệt của lịch
sử đất nước, nhưng
được thể hiện theo
một cách riêng biệt
đặc sắc qua ngòi bút
Quang Dũng với một
tâm trạng cụ thể:
nỗi nhớ đồng đội
trong đoàn quân Tây
Tiến.
Chính

niềm
thương nhớ da diết và
lòng tự hào của tác
giả về những rung
cảm sâu xa và đó
cũng chính là âm
hưởng chủ đạo của
bài thơ này./ Bài thơ
mở đầu bằng nỗi
nhớ da diết, bâng
khuâng và khó tả: /
Sông Mã xa rồi TT
ơi! / Nhớ về rừng núi
nhớ chơi vơi…/ Văn
thơ ta có không ít
những câu thơ hay
nói về nỗi nhớ,
nhưng nỗi nhớ chơi vơi
thì rất có thể QD là
người đầu tiên sử
dụng. Nỗi nhớ ấy như
có dáng hình, bồng
bềnh,
bồng
bềnh
trong không gian, trong
thời
gian,
bâng
khuâng không dễ tả.

Nỗi nhớ không đầu,
không cuối, không kỉ
niệm, không cụ thể


và không dễ nắm
bắt nhưng lại rất sâu
sắc. Rồi cứ thế, nỗi
nhớ đồng đội ấy lan
tỏa, thấm đượm nồng
nàn trên từng câu
thơ, khổ thơ. Có thể
nói, bài thơ được xây
dựng trên cảm hứng
triền miên, với bao
cảm giác ào ạt xô
tới: / Sài Khao sương
lấp đoàn quân mỏi /
Mường Lát hoa về
trong đêm hơi / Những
địa danh miền Tây,
Sài Khao, Mường Lát
và những địa danh
có thật khác, vừa
gợi lên cái âm u, mịt
mù của miền đất lạ,
nơi ấy có đoàn quân
mệt mỏi đi trong
sương; lại vừa có một
vẻ lãng mạn và

huyền thoại: hoa về
mà không là hoa nở,
đêm hơi chứ không
là đêm sương. Hoa
hiện ra mờ nhẹ trong
sương, ẩn hiện đến
huyền ảo. Tất cả
cái mỏi mệt của
đoàn quân dường như
tan biến, QD đã viết
nên những câu thơ
rất tài tình, hầu hết
là thanh bằng, nhẹ
nhàng chơi vơi, lâng
lâng như sương, như
khói, như hương hoa,
như hồn người. Khác
hẳn với: / Dốc lên
khúc
khuỷu
dốc
thăm thẳm / Heo hút
cồn mây súng ngửi
trời / Câu thơ ngắt
nhịp ở giữa gợi hình
ảnh đường lên rất
cao,
rất
dốc



đường xuống cũng
dốc và dài không
kém;

khi
đã
xuống rồi, câu thơ
trải dài toàn thanh
bằng: Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi.
Xuân Diệu trước đây
cũng có những câu
thơ toàn thanh bằng
mà ông rất tâm
đắc: / Sương nương theo
trăng
ngừng
lưng
trời / Tương tư nâng
lòng lên chơi vơi / Còn
QD trong TT có không
ít những câu thơ tài
tình như vậy. TT ít đặc
tả cảnh, con người
và cảnh vật núi
rừng miền Tây Tổ
quốc
thường
được

tác giả thể hiện ở
khoảng cách xa, có
phần hư ảo, ở một
số chi tiết có khi
được phóng đại.
khổ thơ thứ nhất,
từng mảng hình khối,
đường nét, màu sắc
chuyển đổi rất nhanh,
bất ngờ trong một
khung cảnh núi rừng
bao la, hùng vó như
một bức tranh hoành
tráng. Những câu thơ
không chỉ để diễn
tả mà có phải cảm
nhận bằng trực giác.
Nếu “Thơ là nơi biểu
hiện đầy đủ nhất,
sâu sắc nhất ma lực
kì ảo của ngôn từ”
thì bài thơ này là
một minh chứng. /
Thiên nhiên trong TT
cũng như trong thơ QD
bao giờ cũng là một
nhân vật quan trọng,
tràn đầy sinh lực và

thấm đượm tình người.

Hồn thơ tinh tế của
tác giả bắt rất nhạy
từ một làn sương
chiều mỏng đến một
dáng hoa lau núi phất
phơ bất chợt, rồi thổi
hồn mình vào đó, để
lại mãi trong ta nỗi
niềm bâng khuâng
thương
mến
bằng
một ý thơ đẹp: /
Người đi Châu Mộc,
chiều sương ấy /
Có thấy hồn lau
nẻo bến bờ / Khung
cảnh
thiên
nhiên
trong TT kì vó và hoang
sơ. Trên cái nền dữ
dội ấy, đoàn quân TT
có vẻ như nhỏ bé,
nhưng thật ra chính sự
đối lập đó lại càng
tăng thêm khí phách
anh hùng, mọi gian
khổ,
hiểm

nguy
không có gì có thể
ngăn cản được. / Tác
giả không ngại nói
đến cái chết. Trên
đường hành quân,
có những người lính
đã hi sinh: / Anh bạn
dãi dầu không bước
nữa / Gục lên súng
mũ bỏ quên đời /
Xuất thân từ gia đình
tiểu tư sản, QD miêu
tả cái chết thật
lãng mạn. Hình ảnh
người lính gục lên
súng mũ bỏ quên
đời dung dị và đầy
thương cảm. Những
chiến só TT phần lớn
là những thanh niên
Hà Nội chưa quen
chuyện gian khổ súng
gươm và ngã xuống
một cách thầm lặng.


Hình như tác giả
không muốn xóa đi
một chút gì có như bi

lụy. Đêm đêm Mường
Hịch cọp trêu người –
rất độc đáo về âm
điệu, gợi âm thanh
của bước chân cọp
trong đêm. Victo Huygo
nói “chữ nào đặt
đúng chỗ là chữ đó
hay nhất” chữ Hịch ở
đây là một chữ được
đặt đúng chỗ. / Trong
trường ca Từ đêm
mười chín của Khương
Hữu Dụng cũng nói
về những nỗi gian
truân, hiểm nguy mà
người lính phải gánh
chịu: / Đây cao vòi vọi
dốc ông Mạnh / Đây
ầm ầm đổ thác
Không Tên / Có suối
chân hùm vừa để
dấu
/ Có lùm cây vút
tuyệt đường chim /
Nhưng
vẫn
không
mạnh như TT. Và đằng
sau sự dữ dội ấy lại

là cảnh thanh bình,
yên vui, tươi mát: /
Nhớ ơi TT cơm lên
khói / Mai Châu mùa
em thơm nếp xôi /
Câu thơ gợi nên một
cảm giác nồng nàn,
no đủ. Những kỉ
niệm đơn sơ nhỏ bé
trong cuộc sống đời
thường của người lính
như ngọn lửa làm ấm
lòng họ. Hương thơm
ấy không chỉ là
hương nếp xôi mà
quan trọng hơn là
hương từ bàn tay em,
cô gái Mai Châu xinh
đẹp.
QD
nhớ
về

người lính TT gian khổ,
hi sinh, nhưng không bi
lụy. Ngược lại vẫn
hùng, vẫn thơ, bởi
những ngôn từ, hình
ảnh âm điệu mới
mẻ, gợi cảm và giàu

màu sắc lãng mạn. /
Sự chuyển mạch cảm
xúc của QD rất tự
nhiên. Đến đây thì
cảm xúc lại chuyển
sang một gam khác. /
Doanh trại bừng lên
hội đuốc hoa / Kìa em
xiêm áo tự bao giờ /
Khèn lên man điệu
nàng e ấp / Nhạc về
Viên Chăn xây hồn
thơ / Hội đuốc hoa,
xiêm áo, như một
đám hội, đám cưới;
lại còn cái vẻ còn e
ấp của nàng, mang
điệu của khèn và
của nhạc khiến câu
thơ có sức gợi cảm
và có khả năng đưa
hồn
người
phiêu
diêu đến những chỗ
rất xa. / Câu thơ mang
chất hư ảo với hình
ảnh hoa lau / Người đi
Châu
Mộc

chiều
sương ấy / Có thấy
hồn lau nẻo bến bờ /
Gợi nhớ đến Lau mùa
thu của Chế Lan Viên:
/ Ngàn lau cười trong
gió / Hồn của mùa
thu về / Hồn mùa thu
sắp đi / Ngàn lau xao
xác trắng / Còn QD
lại rất tài hoa qua sự
tạo hình của: Có nhớ
dáng người trên độc
mộc / Trôi dòng
nước lũ hoa đong đưa /
Tình yêu đối với
dòng sông, con suối,

dáng
người,
con
thuyền, nhành hoa;
cảm xúc trữ tình của
người lính thi só đã
khiến cuộc sống đầy
hi sinh, gian lao có
thêm chất thơ, tươi
tắn và yêu đời.
Người lính TT khác
hẳn, không thể hòa

lẫn vào đâu được vì: /
TT đoàn binh không
mọc tóc / Quân xanh
màu lá dữ oai hùm /
Sốt rét rừng đã làm
cho họ trở nên tiều
tụy nhưng chất chứa
trong đó là sức mạnh
phi thường, họ vẫn
với dáng vẻ hào
hùng,
mạnh
mẻ.
Những người lính ấy
ở một thời điểm
khác, họ lại mang
dáng vẻ khác: / Mắt
trừng gửi mộng qua
biên giới / Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều
thơm / Giữa chiến
trường miền Tây ác
liệt, người lính nghó
về Hà Nội dáng
kiều thơm, về bóng
dáng của một cô
gái Hà Nội, một
chút mơ mộng, một
chút lãng mạn ấy
khiến cho thêm sức

mạnh để chịu đựng
hiện
thực
khắc
nghiệt, họ vượt qua
được
hoàn
cảnh,
không gục ngã. Chất
lãng mạn, tinh nghịch
của người lính mang
màu sắc tích cực và
lạc quan. Hơn một lần
QD nhắc đến cái
chết: / Rải rác biên
cương mồ viễn xứ /


Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh
o bào thay chiếu
anh về đất / Sông
Mã gầm lên khúc
độc hành / Với lòng
yêu nước nồng nàn,
cả một thế
hệ
những người con ưu
tú của dân tộc đã
ra đi bảo vệ Tổ

quốc. Không phải họ
không biết đến sự
mất mát hi sinh, nhưng
vẫn
vui
vẻ
lên
đường, không mảy
may tính toán, so bì hơn
thiệt. Lí tưởng cách
mạng và ý chí của
tuổi trẻ đã truyền
cho các chàng trai
chất men lãng mạn,
có cả chất ngang
tàng đôi khi pha màu
sắc anh
hùng hảo
hán của một thời xa
xưa. / Bồ đào mỹ tửu
dạ quang bôi / Giục
ẩm tỳ bà mã thượng
thôi / Túy ngọa sa
trường quân mạc tiếu
/ Cổ lai chinh chiến kỉ
nhân hồi / Xưa nay
người đi chinh chiến
chưa có ai nghó đến
ngày về, họ chỉ
bước tới phía trước

nơi đó trách nhiệm
của người trai là bảo
vệ quê hương. Chính vì
thế
TT
cũng

những chàng trai –
những tráng só –
những chiến só coi
cái chết nhẹ tựa lông
hồng, ra đi không
vướng thê nhi, ra đi
.

đời xanh chẳng tiếc…
Đã có thời người ta
trách cứ về cách
nói như thế này.
Nhưng có chiến thắng
nào mà không phải
trả giá bằng máu
và nước mắt. Và “
không có cái gì cao
cả hơn nỗi buồn lớn”
(A. Đơ Muytse) / Nét
đặc sắc của TT là
nói về chiến tranh
mà không có một
từ “đánh”. Ba lần

miêu tả cái chết là
ba cách nói khác
nhau: bỏ quên đời,
về đất, hồn về. Để
cho cái chết bớt đi
chút
bi
thương.
Nguyễn
Đức
Mậu
trong “Nấm mộ và
cây trầm” cũng nói
đến cái chết của
người lính: / Cái chết
bay ra từ nòng súng
quân thù / Nhận cái
chết cho đồng đội
sống / Ngực chặn lỗ
châu mai Hùng đứng
thẳng / Đồng đội
xông lên nhìn thấy
Hùng cười / Và còn
nhiều nữa, nhưng ít
có bài như TT. QD chỉ
bằng ít dòng thơ đã
khắc họa và gây ấn
tượng sâu sắc về
cái chết vữa bi thiết,
vừa hùng tráng mà

xiết bao cao cả của
người chiến só. Để
đưa tiển người lính vô
danh về nơi anh nghó
cuối
cùng,
Ông
không
cần
những

giọt nước mắt xót
thương; chỉ cần sự
chứng giám của trời
đất; và đất sẽ gìn
giữ thân xác họ. Họ
chết đấy, nhưng thực
sự họ sống mãi trong
lòng chúng ta.Những
người lính còn sống
hiểu rằng rồi có lúc
chính mình ngã xuống,
nhưng họ vẫn sẵn
sàng xả thân vì Tổ
quốc. Con đường trở
về có thể là vô
định, nhưng điều đó
không
ngăn
được

bước chân của họ: /
TT người đi không hẹn
ước /
Đường lên
thăm thẳm một chia
phôi / Ai lên TT mùa
xuân ấy / Hồn về
Sầm Nứa chẳng về
xuôi
TT in đậm một phong
cách thơ tài hoa, độc
đáo của nhà thơ QD.
Vượt qua thời gian,
vẫn mang sức thuyết
phục mỗi chúng ta.
Hôm nay, gợi nhớ về
những năm tháng
không quên trong lịch
sử dân tộc. Có thể
coi TT là tượng đài
bất tử về người lính
vô danh mà QD đã
dựng lên bằng cả
tâm hồn mình để
tưởng niệm một thế
hệ thanh niên đã
hăng hái ra đi, chiến
đấu và đã ngã
xuống




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×