Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Lich su am nhac the gioi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.94 KB, 8 trang )

Thời kỳ Trung cổ (từ năm 400 đến 1400)
Trong thời kỳ Trung cổ, xã hội châu Âu gồm có 3 giai cấp,
giai cấp cao nhất là tầng lớp vua chúa, quý tộc và địa chủ.
Họ sở hữu ruộng đất và được hưởng nhiều đặc quyền.
Những huyền thoại về các hiệp sĩ oai hùng cũng xuất phát
từ tầng lớp này. Giai cấp thứ hai là giới tăng lữ, gồm các
linh mục và tu sĩ thuộc các nhà thờ Công giáo. Tầng lớp
thứ ba gồm tất cả những thành phần còn lại: nông dân,
dân nghèo thành thị, nông nô ..v.v… Vào thời kỳ này,
những trung tâm âm nhạc lớn đều thuộc nhà thờ.
Trong suốt thời kỳ Trung cổ, cho đến năm 1100, dịng nhạc
chủ điệu (monophonic: chỉ gồm một bè chính) chiếm ưu
thế. Khi cuộc sống được cải thiện và văn minh hơn, người
ta bắt đầu chú ý đến con người. Vào cuối thời kỳ Trung cổ,
dòng nhạc phức điệu (polyphony: nhiều bè chính diễn tấu
cùng lúc) bắt đầu phát triển.
Hai nhạc sĩ nổi tiếng nhất của dòng nhạc phức điệu thời kỳ
đầu là Leonin và Perotin thuộc Nhà thờ Đức Bà Paris. Sau
đó có thêm nhạc sĩ Guillaume de Machaut.
Trong thời kỳ Trung cổ, nhà thờ chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống. Vì vậy, âm nhạc nhà thờ chiếm địa vị độc
tôn từ khoảng năm 350 cho đến năm 1100, hầu hết các
bản nhạc đều xuất phát từ các tu viện. Điều này có nghĩa
là đa số các nhạc sĩ là các tu sĩ, linh mục thuộc nhà thờ
Thiên Chúa giáo. Những tu sĩ này tin rằng tài năng của
mình do Thượng đế ban cho, những gì họ sáng tác đều
nhằm mục đích tơn vinh Thượng đế. Vì vậy, những tác
phẩm thời kỳ này hầu hết đều không ghi tên tác giả.
Âm nhạc nhà thờ gọi là bình ca (plainsong), chỉ gồm một
giai điệu chính với lời hát bằng tiếng Latin, khơng có nhạc
cụ đệm. Giai điệu của bình ca đơn giản, dễ hiểu, dễ thuộc.


Lời ca thường là một phần của lễ ca (messe) Thiên Chúa
giáo La Mã.
Những bài hát còn lưu truyền đến nay được biết dưới tên
gọi bài hát Gregorian (Gregorian chant), lấy theo tên của
giáo hoàng Gregory đệ nhất (590-604). Ơng đã có cơng tập
hợp các bài bình ca theo một trật tự đặc biệt rồi truyền bá
khắp châu Âu và đế quốc La Mã
Âm nhạc thế tục


Âm nhạc thế tục thời kỳ này chủ yếu là dân ca, đơn giản
hơn âm nhạc nhà thờ, gồm các bài ca, điệu nhạc chủ điệu
(monophonic) do những người hát rong trình diễn. Những
người hát rong thời Trung cổ được gọi là jongleur (theo
tiếng Anh), troubadour hoặc trouvère (theo tiếng Pháp),
và minnesinger (theo tiếng Đức).
Những người hát rong lang thang từ tòa thành này đến tòa
thành khác, ca hát, kể chuyện và diễn trị. Giống như bình
ca, nhạc thế tục cũng rất đơn giản với một giai điệu chính.
Tuy nhiên, tiết tấu của chúng nhanh hơn nhạc nhà thờ và
không dùng lời ca tiếng Latin. Những người hát rong dần
dần tụ họp lại thành các phường, hội, và được xếp vào giới
trung lưu trong xã hội.
Những bài hát của người hát rong thường có nhạc cụ dây
và trống đệm theo. Cả âm nhạc nhà thờ và âm nhạc thế
tục đều sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau, ví dụ như
đàn dây gồm có lyre, psaltery, fiddle hoặc vielle. Đàn phím
thời kỳ này chính là organ. Nhạc cụ gõ gồm có trống và
chng nhỏ.
Nhạc phức điệu

Trước đó, tất cả các bài nhạc chỉ gồm một bè chính và
khơng có bè phụ (monophony). Sau đó, các nhạc sĩ bắt đầu
cho nhiều bè diễn tấu cùng lúc, các bè này đều có vai trị
quan trọng như nhau. Đó chính là nhạc phức điệu
(polyphony).
Nhạc phức điệu mở rộng tư duy của nhạc sĩ, giúp họ sáng
tạo tốt hơn. Sumer is icumen in là một tác phẩm được viết
khoảng năm 1300, cũng nổi tiếng như bài Row, row your
boat.
Nghe nhạc: Sumer is icumen in
In ấn các bản nhạc
Trước khi phát minh ra máy in, trong nhà thờ có một đội
ngũ tu sĩ chuyên làm nhiệm vụ sao chép lại các bản nhạc.
Thỉnh thoảng, người ta trình bày bản nhạc bằng lối viết rất
bay bướm, trang trí đẹp mắt.
Khoảng năm 1025, Guido d’Arezzo phát minh ra một hệ
thống ký âm sử dụng các dòng và khe nhạc. Cho đến lúc
đó, người ta chỉ dùng khn nhạc có 2 dịng kẻ. Guido đã
mở rộng hệ thống này thành 4 dòng kẻ, và phát minh ra


các dịng kẻ phụ ở trên hoặc dưới khn nhạc. Ơng sử
dụng những nốt nhạc hình vng gọi là neume. Hệ thống
này giúp ký âm những nốt vượt ra khỏi phạm vi khuôn
nhạc, và được sử dụng cho đến tận ngày nay. Guido cũng
là người phát triển hệ thống khóa nhạc, đặt nền tảng cho
những khóa nhạc hiện đại: khóa fa, khóa sol v.v…
Một cống hiến quan trọng khác của ông là luận án về nhạc
phức điệu. Đây là công trình đầu tiên, mở đường cho các
nhạc sĩ Leonin và Perotin về sau.

Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Trung cổ:
- Conon de Bethune
- La Comtessa Beatritz de Dia
- Hildegard von Bingen (1098-1179)
- Adam de la Halle
- Leonin (Leoninus) (c.1163-1201)
- Guillaume de Machaut (1300-1377)
- Perotin (Perotinus Magnus) (c.1160-1220)
- Wizlau von Rugen
- Hans Sachs
- Bernart de Ventadorn
- Maria de Ventadorn (1165-1221)
- Philippe de Vitry (1291-1361)
Thời kỳ Phục hưng (từ năm 1400 đến năm 1600)
Thời kỳ Phục hưng đánh dấu một giai đoạn hoàng kim
trong lịch sử thế giới. Những chuyến thám hiểm của
Columbus và Francis Drake, tư tưởng khoa học tiến bộ của
Galileo và Copernicus dẫn dắt nhân loại đến một chân trời
mới. Các họa sĩ như Leonardo da Vinci và Michelangelo có
ảnh hưởng rất lớn trong hội họa, cũng như Shakespeare
nổi tiếng với các vở kịch và thơ.
Trong thời kỳ Phục Hưng, tầng lớp trung lưu phát triển
mạnh. Ruộng đất khơng cịn hồn tồn thuộc về giới q
tộc. Dân số các thành thị gia tăng, người ta bắt đầu giải trí
bằng xem kịch và nghe nhạc. Việc truyền bá, giáo dục âm
nhạc được mở rộng hơn. Nhờ việc phát minh ra máy in năm
1450, những bản nhạc được in ấn hàng loạt và phổ biến
rộng rãi đến mọi người. Cho đến năm 1600, những bản
nhạc nổi tiếng đã được lưu truyền khắp châu Âu. Tầng lớp
trung lưu đã có thể tự học chơi nhạc cụ, thông qua những



quyển sách giáo khoa âm nhạc dạy thổi tiêu, đánh đàn lute
và guitar.
Các nhạc sĩ nổi tiếng như Josquin des Prez và Giovanni
Palestrina đi đầu trong công cuộc cách tân âm nhạc. Con
người, chứ không phải Thượng đế, trở thành đối tượng
chính trong âm nhạc. Các nhạc sĩ chuyển hướng sáng tác
về phía cơng chúng. Kỹ thuật hịa âm đã làm thay đổi diện
mạo nền âm nhạc.
Âm nhạc nhà thờ
Âm nhạc nhà thờ thời kỳ Phục hưng là sự phát triển tự
nhiên của thể loại bình ca. Dạng nhạc phức điệu 2 bè đơn
giản cuối thời Trung cổ được mở rộng thành phức điệu 4
bè, trong đó mỗi bè đều quan trọng như nhau. Hình thức
mới này được gọi là motet. Trái với thời Trung cổ, trong
giai đoạn này âm nhạc được chú trọng hơn lời ca. Josquin
des Prez và Giovanni Palestrina là hai nhạc sĩ nổi tiếng
nhất của thời kỳ Phục hưng về thể loại motet.
Trong giai đoạn này, âm nhạc bắt đầu trở nên hoa mỹ hơn.
Những bản lễ ca (messe) và motet trở nên tinh vi, phức
tạp hơn. Nhiều loại giọng được đưa vào, các chương nhạc
trở nên dài hơn và cầu kỳ hơn. Các nhạc sĩ bắt đầu thích
thể hiện phong cách hơn là truyền tải các thông điệp tôn
giáo. Những vị lãnh đạo nhà thờ bắt đầu lo ngại thính giả
sẽ khơng hiểu được tầm quan trọng của lời ca, và tại Hội
đồng tôn giáo, họ đề nghị âm nhạc nhà thờ phải dùng để
minh họa cho lời ca. Điều này đánh dấu cho sự khởi đầu
của cấu trúc hài hòa giữa lời ca và giai điệu.
Âm nhạc thế tục

Madrigal, những bài hát dành cho một nhóm nhỏ biểu diễn
khơng nhạc đệm, đã trở thành thể loại nhạc thế tục phổ
biến nhất. Thường nói về tình yêu, madrigal trở thành một
phần quan trọng trong các dịp lễ hội đặc biệt. Người ta
thường hát madrigal trong những bữa tiệc, đám cưới và
thường có một đội hợp xướng họa theo. Cách hát này vẫn
còn phổ biến đến tận ngày nay.
Tác phẩm El Grillo của nhạc sĩ Josquin des Pres là một điển
hình về những cách tân âm nhạc trong thời kỳ này.
Những cải cách


Từ đầu thế kỷ 16, nhà thờ Tân giáo tách khỏi nhà thờ Công
giáo kéo theo những thay đổi mạnh mẽ về mọi mặt trong
đời sống xã hội. Martin Luther muốn tất cả các tín đồ của
ơng cùng tham gia vào hoạt động âm nhạc. Vì vậy, trong
những nhà thờ Tân giáo, người ta sáng tác những bài
thánh ca cho mọi người cùng hát, chứ không chỉ dành cho
dàn hợp xướng. Phong cách hợp xướng mới này là nền
tảng cho những bài thánh ca ngày nay. Những bài thánh ca
được viết cho người hát, nhưng 200 năm sau, Bach đã ứng
dụng hình thức này vào những tiểu phẩm cho đàn organ.
Có thể nói âm nhạc nhà thờ Thiên Chúa giáo thế kỷ 16
phát triển trên nền tảng của bình ca, còn âm nhạc nhà thờ
Tân giáo thế kỷ 17 - 18 phát triển từ thánh ca nhiều bè.
Khí nhạc
Trong thời kỳ Phục hưng, các nhạc sĩ bắt đầu viết phức
điệu cho nhạc cụ trình diễn. Những bài phức điệu này
thường dành cho các vũ hội trong dinh cơ của tầng lớp quý
tộc. Ống tiêu (recorder) và đàn lute là 2 nhạc cụ thông

dụng nhất. Ống tiêu và đàn viol đủ kích cỡ diễn tấu thành
từng nhóm gọi là consort. Những nhạc cụ khác của thời
Phục hưng là đàn lute, kèn shawm, krummhorn, kèn
trumpet và trombone loại nhỏ. Ngoài ra, nhạc cụ thường
dùng để đệm cho người hát. Nhạc sĩ Joan Ambrosia Dalza
đã viết 3 vũ khúc rất nổi tiếng, đó là Tasta la corde,
Ricercar, và Calata.
Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Phục hưng:
- Jacob Arcadelt
- Gilles Binchois
- Jacopo da Bologna
- William Byrd (1543-1623)
- Francesca Caccini (1587-1640)
- William Cornysh
- John Dowland
- Guillaume Dufay (c.1400-1474)
- John Dunstable (c.1390-1453)
- Giovanni Gabrieli
- Carlo Gesualdo
- Orlando Gibbons (1583-1625)
- Heinrich Isaac


- Orlando di Lasso (1532-1594)
- Cristobal de Morales (c.1500-1553)
- Jacob Obrecht (c.1450-1505)
- Johannes Ockeghem (c.1410-1497)
-Giovanni Pierluigi da Palestrina (c.1525-1594)
- Michael Praetorius
- Josquin des Prez (c.1440-1521)

- Thomas Tallis (c.1505-1585)
- John Taverner
- Tomas Luis de Victoria (1548-1611)
- Thomas Weelkes
- Adrian Willaert
Thời kỳ Baroque (từ năm 1600 đến năm 1750)
Thời kỳ Baroque chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử
thế giới. Galileo, Kepler và Newton tìm ra những lý thuyết
mới để giải thích về vũ trụ. Trong âm nhạc, hội họa, kiến
trúc và thời trang, những hoa văn trang trí cầu kỳ hoa mỹ
trở thành thời thượng. Cả phụ nữ và đàn ông đều đội tóc
giả và mặc trang phục viền đăngten.
Trong suốt thời kỳ Baroque, các nhạc sĩ tiếp tục phục vụ
cho nhà thờ và tầng lớp giàu có. Giới tăng lữ và quý tộc
thuê mướn nhạc sĩ dưới hình thức bảo trợ. Người bảo trợ
trả thù lao cho nhạc sĩ theo từng tác phẩm, và có quyền
yêu cầu anh ta viết loại nhạc mà họ thích. Điều này làm
giới hạn quyền tự do sáng tạo của nhạc sĩ.
Những nhà soạn nhạc nổi tiếng trong thời kỳ Baroque gồm
Johann Sebastian Bach, George Frederic Handel, Johann
Pachelbel, Georg Phillip Telemann, Henry Purcell và
Antonio Vivaldi.
Đặc điểm âm nhạc thời kỳ Baroque
Hình thức và thể loại: các vũ khúc rất phổ biến trong thời
kỳ này. Ngồi ra cịn có prelude, fugue, suite (tổ khúc),
toccata và variation (biến tấu). Nhịp đôi và nhịp ba thường
được sử dụng.
Hịa âm: 2 hoặc nhiều giai điệu được trình tấu cùng lúc,
tạo thành một kết cấu âm nhạc gọi là đối âm. Hịa âm
thường xun biến hóa. Điệu tính chủ yếu dựa trên trưởng

và thứ.


Đàn phím: Chủ yếu là đàn clavichord, harpsichord, và
organ.
Tiết tấu: Nhấn vào phách mạnh, nhịp lấy đà, và thường
xuyên thay đổi. Nốt móc đơn, móc kép và chùm ba thường
được sử dụng.
Phong cách: Dấu chia câu và ký hiệu diễn cảm không được
sử dụng. Những câu nhạc nhanh thường được đàn liền
tiếng (legato), những câu chậm hơn được đàn không liền
tiếng (nonlegato). Dùng rất nhiều nốt hoa mỹ.
Các xu hướng của nhạc Baroque
Các nhạc sĩ như Johann Sebastian Bach đã tạo ra một xu
hướng mới cho nhạc Baroque bằng các bản nhạc phức
điệu, gồm nhiều bè kết hợp và nối tiếp nhau. Những giai
điệu này thường có các nốt láy rền (trill) và láy nhanh. Hợp
âm dùng để đệm cho 1 hoặc nhiều bè được sử dụng nhiều.
Ngoài ra, các nhạc sĩ bắt đầu dùng các ký hiệu diễn tả
cường độ và tốc độ trong bản nhạc. Biểu diễn ứng tác
(improvisation) cũng rất phổ biến, ngay cả trong nhạc nhà
thờ. Sau cùng, các nhạc sĩ bắt đầu dùng âm nhạc để thể
hiện những cảm xúc vui, buồn, giận dữ.
Thanh nhạc
Thời kỳ Baroque chứng kiến sự ra đời của thể loại nhạc
kịch (opera). Một vở opera có sự kết hợp của âm nhạc,
diễn xuất, cảnh trí, phục trang và đạo cụ. Các diễn viên
hát theo kịch bản. Một số vở opera có tính chất chính kịch
(opera seria), một số vở mang sắc thái hài hước (opera
buffa). Vở opera đầu tiên là Orfeo của nhạc sĩ Claudio

Monteverdi.
Tương tự opera là thể loại cantata. Giống như opera,
cantata gồm những bài hát (aria) và những đoạn hát nói
(recitative) xen kẽ nhau. Tuy nhiên, trong cantata khơng
có diễn xuất sân khấu.
Khí nhạc
Trong thời kỳ Baroque, khí nhạc trở thành quan trọng
khơng kém thanh nhạc. Đây là giai đoạn nở rộ của các tác
phẩm viết cho kèn flute, oboe, bassoon, trombone,
trumpet, horn, viết cho đàn harpsichord và organ. Ống
tiêu khơng cịn phổ biến, đàn viol được thay thế bằng


violin, viola và cello. Trống định âm (timpani) là nhạc cụ
gõ duy nhất dùng trong các opera chính kịch.
Hầu hết các tác phẩm khí nhạc đều gồm vài đoạn hoặc vài
chương có tính chất tương phản nhau. Concerto là một thể
loại tiêu biểu. Concerto phát triển vào nửa cuối thế kỷ 17,
do công lao của các nhạc sĩ người Ý như Torelli, Alessandro
Scarlatti và Corelli. Chỉ trong vòng 25 năm, rất nhiều nhạc
sĩ ở các nước khác đã thành công với thể loại concerto.
Một trong những concerto nổi tiếng nhất là bản “Bốn
mùa” của Antonio Vivaldi.
Concerto được trình diễn bởi một người hoặc một nhóm
nhạc cơng độc tấu. Concerto cho một nhóm trình diễn gọi
là concerto grosso. Concerto grosso được viết cho một
nhóm nghệ sĩ độc tấu cùng với dàn nhạc, thường gồm 3
chương (nhanh - chậm – nhanh).
Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Baroque
Johann Sebastian Bach (1685-1750)

Dietrich Buxtehude
Arcangelo Corelli (1653-1713)
Francois Couperin (1668-1733)
Girolamo Frescobaldi
George Frideric Handel (1685-1759)
Elizabeth-Claude Jacquet de la Guerre (1659-1729)
Jean-Baptiste Lully
Claudio Monteverdi (1567-1643)
Jacopo Peri
Georg Phillip Telemann
Henry Purcell (1659-1695)
Jean-Philippe Rameau (1683-1764)
Alessandro Scarlatti
Heinrich Schutz (1585-1672)
Antonio Vivaldi (1678-1741)



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×