Tiệm cận tín ngưỡng người Tày qua nghi lễ hát Then
Tiệm cận tín ngưỡng người Tày qua nghi lễ hát Then Việt Nam là đất nước đa tộc người cùng
chung sống, mỗi tộc người đều mang bản sắc văn hoá riêng trong chỉnh thể vừa thống nhất
vừa đa dạng. Cùng với phong tục tập quán, trang phục, nhà cửa, ăn uống, trồng trọt, chăn nuôi
và nhiều phương thức lưu truyền các thể loại: truyện kể, cổ tích, thần thoại, sự tích, thơ, khơng
thể khơng nhắc đến nghệ thuật dân gian, trong đó âm nhạc ln là phương tiện bảo lưu đặc
sắc nét văn hoá tộc người. Trong bài này, người viết muốn trao đổi về mối quan hệ ràng buộc
giữa hát Then và tín ngưỡng người Tày. 1. Sơ lược nguồn gốc và tộc danh TàyTheo số liệu công
bố năm 1999, tổng số dân Tày là 1.447.514 người, đứng vị trí thứ hai sau người Kinh, sống tập
trung ở vùng Việt Bắc, chủ yếu tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên,
Lạng Sơn. Về nguồn gốc, Tày (và Nùng) thuộc khối cư dân Bắc Việt cư trú lâu đời trên khu vực
nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Quá trình cùng chung sống lâu dài đã chịu nhiều ảnh hưởng
văn hoá Việt trở thành người Tày (Việt Nam) và văn hoá Hán thành người Choang Đồng (Trung
Quốc). Ở Quảng Tây hiện nay vẫn tồn tại các nhóm Choang Đồng với các tên: Pò Choang, Pò
Đề Di, Pò Nồng, Pò Tày[3]. Tộc danh Tày bắt nguồn từ cách nêu đặc điểm của nhóm người
chuyên nghề cày ruộng, làm lúa nước, nông cụ tiêu biểu là chiếc cày. Trong tiếng Tày- Thái cổ
cày gọi là Mạc Thay hay Thây rồi biến âm thành Tày và Thái[2, tr.46], bằng dụng ý rõ ràng hơn
khi người Tày được gọi là Cần Nà- Người cày ruộng. Người Tày nói chung đều tự nhận là Cần
Tày, tuỳ theo từng nơi có tên Tày bốc- Tày cạn sống vùng núi và Tày nặm- Tày nước làm bản
dựng nhà dưới thung lũng nhiều sông suối. Từ thế kỷ XV để phân biệt với Thổ quan từ dưới xi
lên cai trị, người Tày cịn có tên là Thổ với hàm nghĩa thổ địa ám chỉ nhóm người đã sinh sống
lâu đời nơi đây. Những cứ liệu lịch sử cho thấy tổ tiên người Tày thuộc nhóm Âu Việt (Tây Âu)
trong khối Bách Việt, ngay từ thiên niên kỷ cuối cùng trước công nguyên là chủ nhân trên vùng
đất rộng lớn từ miền nam Trung Quốc kéo dài xuống tồn bộ phía đơng bắc Việt Nam. Âu Việt
liên minh cùng Lạc Việt tạo nên vương quốc Âu Lạc- Mơ hình nhà nước đầu tiên xuất hiện ở Việt
Nam vào thế kỷ thức III trước Công nguyên mà thủ lĩnh người Tày cổ là Thục Phán An Dương
Vương[5, tr.3], đồng thời truyền thuyết (được coi như dã sử) Cẩu Chủa Cheng Vùa được Lã Văn
Lô [4] công bố năm 1963 cũng cho thấy nhiều tình tiết gần gũi với cổ sử Việt Nam, điều này
minh chứng địa bàn Tày cổ giai đoạn này đã mở rộng xuống tận vùng Kinh Bắc, nhiều nhóm Âu
Việt cùng hồ nhập vào nhóm Lạc Việt làm cơ sở hình thành dân tộc Việt hiện đại. Như vậy
người Tày cổ (Âu Việt) đã dung hợp với nhóm Việt Mường cổ (Lạc Việt) ngay từ buổi đầu dựng
nước, góp phần quan trọng hình thành nên dân tộc Việt Nam. 2. Văn hố tín ngưỡng dân gian
TàyLà cư dân bản địa, môi sinh người Tày chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhiều từ thời tiết,
điều kiện tự nhiên. Do đó trong nhiều truyện cổ tích, thần thoại đã hình thành hệ thống thế giới
đa tầng thể hiện vũ trụ quan, nhân sinh quan. Dân gian vẫn lưu truyền truyện kể: Ngay từ thủa
khai thiên lập địa, trời đất đã phân chia làm 3 cõi mường: Cõi trời (mường bôn, quắc phạ), nơi ở
của Ngọc Hồng, tiên, Then, Pụt. Nếu như trong gia đình có người chết phải tổ chức nghi lễ tiễn
linh hồn về cõi trời hưởng vinh hoa phú quý. Cõi đất (trần gian, dương thế) là nơi của người
cùng mn lồi. Cõi nước là cõi âm, nơi ở những người chỉ nhỏ bằng chiếc bình vơi. Người Tày
quan niệm 3 cõi này đều có người ở với đặc điểm: người cõi trời thắt dao ngang đầu, người
dương gian thắt dao ngang lưng, người cõi âm thắt dao ở mắt cá chân[5]. Con người trên trần
gian đều do Pụt Luông sinh ra để cai quản chế ngự mn lồi, người có xác và hồn- khoăn,
người ốm hồn lìa khỏi xác, người chết hồn biến thành phi. Danh từ phi dịch sang tiếng Việt là
ma, tuy vậy ma mang hàm nghĩa rất rộng, chỉ tất cả thần thánh, ma quỷ ở 3 cõi trời, đất, âm.
Có 2 loại: ma lành và ma dữ, ma lành được thờ còn ma dữ chỉ xuất hiện khi có bệnh tật, ốm
đau, do đó phải nhờ thầy Then đến cúng đuổi con ma ấy ra khỏi người.Trong văn hố tín
ngưỡng người Tày, quan trọng nhất là tục thờ cúng tổ tiên, đây là hình thức cúng phổ biến
trong tất cả các nhóm cộng đồng. Quan niệm ơng bà, cha mẹ sau khi chết nhưng linh hồn/ phi
vẫn tồn tại, con cháu phải lập bàn thờ cúng bái hàng năm. Đây là tục xuất hiện vào giai đoạn
thị tộc phát triển, sự ổn định và củng cố vững chắc mối quan hệ giữa các nhóm cá nhân nảy
sinh yêu cầu bảo vệ dòng họ, thị tộc[5]. Tục thờ cúng tổ tiên là lớp tín ngưỡng bản địa được bồi
đắp liên tục qua từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau trong đời sống tâm linh người Tày. Điển hình
là hệ tư tưởng tam giáo (Phật, Đạo, Nho) đã gia cố chế độ tông tộc phụ quyền, tiêu biểu là vị
thế bàn thờ luôn được đặt nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Ngồi ra trong gia đình người hát
Then có thêm bàn thờ tổ sư nghề cúng bái (bát hương để cao hơn bát hương thờ tổ tiên), được
trang hoàng lộng lẫy bằng những tua cắt hình chim én màu sắc sặc sỡ với chú niệm dùng vào
việc truyền tin đưa hồn vía lên chơi chợ trời (trong lễ hỉn én).Bên cạnh tục thờ cúng tổ tiên, tục
thờ Mẫu cũng rất phát triển, khởi phát từ lối tư duy nông nghiệp cầu mong vạn vật sinh sôi nảy
nở, thờ Mẫu gắn với tín ngưỡng phồn thực, biểu hiện tính duy sinh trong nghi lễ Then. Truyền
thuyết về Pú Lương Quân trên Cao Bằng với sự tích vợ chồng khổng lồ Báo Luông- Trai to và
Sao Cải- Gái lớn[10] là những người đầu tiên làm nghề nơng. Hình tượng Sao Cải ln nổi bật,
nhấn mạnh vào vai trị người mẹ/ nữ thần nơng nghiệp giống như Âu Cơ của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ và Pô-na-gar của người Chăm vùng Trung, Nam Trung Bộ. Từ tâm thức tính
nữ, người Tày tạo nên Nàng Trăng với lễ hội Nàng Hai tổ chức hàng năm tiêu biểu cho việc tôn
thờ Mẹ lớn- Sao Cải. Trong các gia đình Tày việc thờ Mẻ Bjc- Mẹ Hoa/ Hoa Vương Thánh Mẫu
giống như Bà Mụ của người Việt, đây là vị thần cai quản việc sinh nở. Mẻ Bjoóc phân định ra
con trai sinh ra từ cây Hoa vàng và Hoa bạc tạo ra con gái[3], đồng thời bảo trợ tình yêu, sức
khoẻ, cuộc sống con người. Bát hương Mẻ Bjoóc đặt trang trọng ngang hàng với tổ tiên trên
bàn thờ.Đối với cộng đồng sống thành bản hoặc tập trung thành nhiều bản, người Tày có nhiều
tục cúng lễ khác như thờ các vị thần/ phi bản phi mường tại miếu, đình (hoặc đính)[2], nhiều
nơi đình cịn có chức năng của đền. Miếu là nơi thờ thổ công/ thần đất có nhiệm vụ che chở,
bảo vệ mọi người, trong dân gian thổ cơng là người giúp đỡ và có công lao xây dựng làng bản.
Vào mùa xuân, người Tày mở hội Lồng tồng tế thần nông, cầu cúng mùa màng, thổ công biến
thành vị thần bảo trợ cho việc làm ăn phát đạt, thuận lợi[5]. Cịn Thành hồng là vị thần được
thờ trong đình, cùng thổ cơng trong coi canh tác, chăn nuôi, sự an khang của cả mường (nhiều
bản). Về chức năng, thành hoàng cai quản địa bàn rộng hơn thổ cơng. Xét theo sử- văn hố có
thể nhận thấy thành hoàng bắt nguồn từ nguyên gốc vị thần bản mệnh bản mường (phi bản,
phi mường), sau đó chịu ảnh hưởng thờ thành hoàng của người Kinh (thời phong kiến tự chủ
các triều đình phong thần thành hồng làng) đã tác động, biến cải tên thần bản thần mường
thành thành hoàng[2]. Qua một số yếu tố thờ cúng chính đã nêu ở trên, nói chung người Tày
đã xây dựng nên hệ tín ngưỡng đa dạng với tín niệm đa vật linh. Quá trình dung hợp với người
Kinh, người Hán tạo nên một phức hợp phong tục, lễ nghi được Then quy tập trong nhiều hình
thức nghi lễ, nhưng trước hết tín ngưỡng người Tày có những đặc điểm sau:- Thờ vật tổ (tôtem
giáo): là tục ra đời sớm nhất, thuộc dạng tín ngưỡng sơ khai, xuất hiện từ thời kỳ công xã thị
tộc. Trải qua thời gian dấu vết tơtem giáo chỉ cịn mờ nhạt trong truyện cổ tích, thần thoại,
trong các kỵ hèm của một số dịng họ. - Gắn với xã hội thuần nơng: gồm có nhiều tục khác
nhau như tục mừng tiếng sấm (tháng 4, 5 âm lịch), người Tày vỗ tay vào bịch thóc đánh thức
hồn lúa dậy bắt đầu vào vụ mùa. Nếu khơng mưa thuận gió hồ thì làm lễ cầu đảo (cầu mưa),
trong lễ trai gái đánh trống đập mẹt giả làm tiếng sấm, tuốt lạt hay lá cọ thay tiếng mưa.Tiêu
biểu nhất là hội lồng tồng- hội xuống đồng, lễ diễn ra ngồi đồng, tuỳ theo từng nơi mà có các
tục như: bầy cỗ của các gia đình cúng thần rồi tổ chức ăn uống, làm hình nộm thần nơng bằng
rơm, đặt giữa ruộng mang lễ đến bón thức ăn cho thần, có nơi mở đầu bằng việc cày những
luống cày đầu tiên mang tính tượng trưng. Trong hội lồng tồng người Tày tổ chức các trò chơi
dân gian như: ném cịn, kéo co, chọi gà, hát giao dun.Ngồi ra cịn các lễ như: cúng vía trâukhăn vài sử dụng cành cây núc nác, lấy mấu có hình giống đầu gối con trâu làm lễ. Lễ cơm mới
(khẩu mấu) đón mừng vụ thu hoạch, cảm ơn tổ tiên và thần nông.- Chịu ảnh hưởng của tam
giáo: những diễn biến tác động của Phật, Đạo, Nho tạo ảnh hưởng sâu sắc vào tín ngưỡng Tày.
Mặc dù khơng du nhập ngun xi nhưng về cơ bản tam giáo đã thẩm thấu và phủ lên tín
ngưỡng bản địa một lớp văn hố. Tuỳ theo đặc điểm, hoàn cảnh, thời gian những ảnh hưởng
này khơng thuần nhất mà mang tính pha tạp từ nhiều nguồn, qua nhiều tầng bậc khác nhau.
Một mặt tam giáo vừa nâng cao, cố định hố các hình thức nghi lễ, cầu cúng, mặt khác cũng
làm mai một, biến dạng tín ngưỡng người Tày. Sơ đồ chỉ hướng: Trong tam giáo, ảnh hưởng
của đạo giáo nổi trội hơn, đạo giáo còn gọi là Lão giáo do Lão Tử sáng lập trước công nguyên
hàng trăm năm, tuy vậy về sau chỉ có đạo giáo của Trương Đạo Lăng[2] phổ biến trong tín
ngưỡng dân gian Tày, tính chất mang nhiều yếu tố shaman như: tu tiên, luyện đan, đồng cốt,
ma thuật phù thuỷ, chiêm tinh, bói tốn. Như vậy, tín ngưỡng người Tày bắt nguồn từ thủa xa
xưa, khởi sinh từ ý thức bảo vệ cộng đồng thị tộc, đây là lớp tảng nền sơ khai thứ nhất. Trải
qua thời gian, tín ngưỡng bản địa Tày chịu sự tác động của người Việt khi hai tộc người Âu Việt
và Lạc Việt cùng nhau liên thủ, đây là lớp văn hoá thứ hai, tuy vậy do tương đồng nên giữa Âu
Việt và Lạc Việt ln có sự gắn bó chặt chẽ. Sự xuất hiện tam giáo du nhập vào là lớp thứ ba
đã biến đổi tín ngưỡng Tày sang dạng thức như ngày nay. GS.TS Ngô Đức Thịnh nhận xét:…kết
quả của sự hỗn dung, pha tạp giữa tín ngưỡng bản địa và tam giáo (Phật- Đạo- Nho) đã hình
thành và tồn tại một số tín ngưỡng đặc thù: Then, Tạo, Pụt, Mo với tư cách là thày cúng Then,
Tào, Pụt, Mo tham gia vào hầu hết các nghi lễ của tín ngưỡng người Tày, Nùng, từ thờ cúng tổ
tiên trong gia đình tới các hình thức thờ thổ thần, thành hồng của cộng đồng [6, tr.5].3. Hiện
tượng shaman trong Then TàyBản chất Then là gì? Nguồn gốc như thế nào? Những biểu hiện
của then trong tín ngưỡng người Tày ra sao? Trong nội dung này sẽ sem xét và giải mã hiện
tượng Then. Có một số giả thuyết q trình xuất hiện Then trong đời sống tâm linh của người
Tày, dựa trên tư liệu dân gian, truyền thuyết từ nhiều vùng khác nhau, đặc biệt là của các tác
giả ở Cao Bằng như Hoa Cương, Dương Sách, Triều Ân đều cho rằng Then chính thức ra đời khi
nhà Mạc bị thất sủng chạy trốn lên Cao Bằng cát cứ (thế kỷ XVI, XVII)[9]. Đây là sự kiện lịch sử
có thật, phản ánh giai đoạn văn hố Việt- Tày đan cài tại Cao Bằng, để lại đến ngày nay trong
Then nhiều trường đoạn hát bằng tiếng Kinh. Hoàng Tuấn cho rằng: đại bộ phận các ông bà
then cắt nghĩa then là tiên, là môn tiên, là trời [8,tr.88], cách giải nghĩa mở rộng hơn dưới góc
độ dân tộc học với quan niệm Then là một từ cổ trong vốn từ ngữ Tày- Thái, gốc ban đầu có
chung một nghĩa[8]. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] và PGS Vũ Ngọc Khánh[3] cùng chung quan
niệm: Then có nghĩa là tiên, cũng như Pụt nghĩa là phật.Như vậy, Then được hiểu là người cõi
trời, giữ mối liên hệ giữa người trần gian với Ngọc Hồng Thượng Đế trên trời, nhưng cách giải
thích trên chưa tầm nguyên đầy đủ về Then. TS Nguyễn Thị Yên[10] tìm cách giải mã lớp tiền
tố Then, và nêu rõ các hình thức nhập đồng tồn đọng yếu tố shaman giáo trong các trò chơi
của trẻ em, chủ yếu là những nàng tiên/ linh hồn như: nàng Trứng, nàng Cám, nàng Sọt, nàng
Hương mang đậm tín ngưỡng bản địa nguyên thuỷ. Đây là tín ngưỡng sliên (tiên)- yếu tố tiền
then, chữ sliên- tiên vay mượn từ chữ Hán, về sau dùng để chỉ hình thức cúng bái bản địa liên
quan đến sự nhập đồng của then nữ.Để trở thành ông Then hay bà Then, người Tày cho rằng
do căn số, ma then nhập vào. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] nêu hai trường hợp trở thành Then: a)
có căn then (mỉng bang) và b) gia đình, dịng dõi có người làm Then (tẩn then). Trong cuộc đời
làm Then, ông Then hay bà Then trải qua nhiều lần thăng cấp (tâng) qua lễ lẩu Then, cấp Then
biểu hiện ở số lượng dải mũ, tương đương với số quân mà Then cai quản. Như vậy Then là
người đặc biệt trong cộng đồng Tày, có khả năng thông quan với thần linh, khi Then thăng
cũng có nghĩa Then đã tiếp cận với thế giới siêu nhiên, đồng thời nhập vào mọi đối tượng phi
để bắc cầu giao tiếp với người trần gian. Về hình thức và nội dung Then giống như hầu đồng
của người Việt, GS.TS Võ Quang Trọng nhận xét: 'hầu đồng của người Việt và then của người
Tày là hiện tượng con người tự thơi miên để đưa mình vào trạng thái ảo giác đặc biệt'[7, tr.44].
Trong nhiều cơng trình, các nhà nghiên cứu tín ngưỡng tộc người đều nhắc đến shaman như
một dạng ảo giác đặc biệt và trạng thái ngây ngất- estasy. Đối với Then: shaman là hiện tượng
biến hoá tư duy, tinh thần con người từ trạng thái này sang trạng thái khác theo cách hiểu xuất
thần nhập thần, vậy shaman là gì?Thuật ngữ shaman- thày pháp xuất hiện lần đầu tiên trong
một số tài liệu ở Nga vào thế kỷ XVII, nguồn gốc từ tiếng Evenk (saman) của bộ lạc Tungus
chuyên sống bằng nghề chăn nuôi tuần lộc ở Xibiri, biến đổi từ chữ samana- tiếng Pali (hệ tiếng
sancrit) được các nhà Phương Đông học chấp nhận vào thế kỷ XIX[11]. Gần một thế kỷ sau,
thuật ngữ shaman giáo- shamanism trở nên thông dụng, xuất hiện trong nhiều công trình
nghiên cứu Âu, Mỹ. Ở Trung Quốc, hiện tượng shaman có nhiều tên gọi, tên chung là Vu thuật,
người hành nghề shaman là Vu sư. Tuy vậy tùy từng nơi gọi là thỉnh thần phụ thể, thần linh
phụ thể, quỷ thần phụ thể, nhưng dịch sang tiếng Việt nhiều nhất là từ giáng thần phụ thể,
nghĩa là cầu thần nhập xác. Tại Đơng Nam Á, shaman là hình thức tơn giáo sơ khai tự thân hình
thành trong các cuộc hành lễ hiến sinh nguyên thuỷ, được cộng đồng đón nhận như một dạng
người đặc biệt, có khả năng phi thường, có bí quyết và sức mạnh ma thuật.Tuy vậy, thời điểm
xuất hiện shaman cịn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo trường phái lịch sử[12] shaman ra đời
vào giai đoạn phân rã công xã thị tộc nguyên thuỷ kèm theo sự phân công địa vị một số người.
Trường phái dân tộc học Trung Quốc cho rằng shaman tồn tại thời trung kỳ xã hội thị tộc mẫu
hệ, lúc này vai trị người phụ nữ có quyền năng rất lớn. Với trường phái sinh học phát triển,
shaman là hiện tượng của người mắc bệnh cuồng itteri, một loại bệnh thần kinh, nói cách khác
tất cả các thày shaman đều biểu hiện bệnh thần kinh dạng phân tâm học được Phroud phát
hiện đầu thế kỷ XX. Khi hành nghề, các thầy shaman (cả nam lẫn nữ) bị kích động tồn thân,
thực hiện những hành động đặc biệt lúc bình thường ít người làm được như: đi trên than nóng,
đốn định tương lai, thần nhập, nói bằng ngơn ngữ chưa bao giờ học, hát múa suốt ngày…thực
tế shaman là hiện tượng tồn tại trong hầu hết tất cả các tộc người trên thế giới. GS.TSKH Tô
Ngọc Thanh nêu bản chất shanman là tạo nên yếu tố thiêng phát xuất khi tiến hành nghi lễ
(trong then Tày và hầu đồng Việt), từ đó lan toả khắp xung quanh, khiến mọi đối tượng tham
gia đều chịu ảnh hưởng. Điều kiện để thiêng hình thành là âm nhạc, múa, do đó Then khơng
thể thiếu hai loại hình nghệ thuật này cùng tham gia. TS Nguyễn Thị Hiền[1] khi tiến hành khảo
sát thực tế nghề làm Then tại một số địa bàn người Tày cho biết hầu hết sau lễ cúng, các ông
Then, bà Then đều không nhớ lại được hành động, ngôn ngữ khi rơi vào trạng thái xuất thần lúc
hành lễ. 4. Các thành tố diễn xướng trong nghệ thuật Then Phương tiện hành nghề Then gồm: Quả trứng, chim én: là vật thiêng đóng vai trò dẫn hồn Then.- Bằng sắc và ấn của Ngọc Hoàng
cấp để Then vào các cửa thần linh.- Quạt phép (quạt trời): giúp Then tạo nhiều động tác biến
hoá như bay bổng trên mây, xuống âm phủ, đi dưới nước.- Gương dùng trừ tà, soi sáng đường
Then đi.- Đàn Tính: nguồn khải lực để Then thốt hồn, thơng quan với các loại thần linh.- Chùm
xóc nhạc- Miạc: lực lượng âm binh để Then sai khiến.Những đồ vật biểu trưng linh giáo như:
trứng, chim én, gương, quạt qua tay Then đầy tính ma thuật dưới dạng phù thuỷ. Nhưng nổi
trội và tạo nên giá trị thu hút toàn thể cộng đồng là nghệ thuật Then- nhân lõi cốt yếu xuyên
suốt quá trình xuất, nhập thần. Nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất ý kiến: Then Tày là hiện tượng
văn hố dân gian tổng thể có tính ngun hợp (syncretic), là hình thức nghi lễ diễn xướng nghệ
thuật tổng hợp gồm có hát, nhạc, múa, trang phục [7,tr.44], hoặc then là một nghi lễ tôn giáo
được diễn xướng bằng hình thức hát, hát kể có kèm theo nhạc và nhảy múa, ngồi ra cịn có
những biểu tượng tơn giáo mang tính tượng trưng và nhiều yếu tố sân khấu dân gian[1,tr.74].
PGS.TS Nguyễn Thuỵ Loan tham chiếu các hệ thống tín ngưỡng tộc người ở Việt Nam đã khái
quát:…tín ngưỡng tôn giáo là một trong những môi trường quan trọng cho sự sáng tạo và nảy
sinh âm nhạc…[4,tr.65]. Như vậy, diễn xướng nhạc- hát- múa là động cơ bên trong nảy sinh
khơng gian thiêng, giúp Then thăng, hố, xuất, nhập trên đường (tàng) đi. Nếu như hầu đồng
của người Việt là hiện tượng nhập hồn thì hành trạng Then Tày biến đổi theo hướng ngược lại,
nghĩa là thoát hồn. X.A Tơcarev cho rằng có hai hình thức giao tiếp với thần linh:…hoặc thần
linh nhập vào người thầy pháp (hay vào trống của thầy), hoặc ngược lại, hồn thầy pháp chu du
lên xứ sở thần linh…[11,tr.330]. Q trình thốt xác xảy ra lúc Then ngồi bỗng rùng mình mấy
cái, tay cầm chùm xóc nhạc rung rung rồi rơi vào trạng thái estasy- ảo giác ngây ngất. Cùng
với đàn tính, chùm xóc nhạc thì hát Then là mơi trường để Then múa các động tác khi thốt
hồn. Trên tồn bộ 5 tỉnh Việt Bắc mỗi vùng đều sử dụng hệ thống làn điệu riêng:- Lạng Sơn:
Giải hạn, Cáp tơ hồng, Tiển cổm, Pây sử.- Cao Bằng: Pây Sử, Kỳ Yên, Cái cấu cầu Bjoóc, Hỉn ẻn.Bắc Kạn: kẻn Bjoóc, Khảm hải, Kỳ yên, Cái cấu cầu hoa, Hỉn ẻn, Bách điểu.- Tuyên Quang: Lẩu
lng.- Hà Giang: tồn bộ các làn điệu trong Lẩu Then.Hệ thống làn điệu này không cố định,
phần lớn tuỳ theo ơng bà Then sử dụng vào trình tự cuộc lễ, ví dụ như ở Thất Khê- Lạng Sơn
ngồi các làn điệu trên cịn có: điệu Cống sử dùng trong lễ cúng trẻ em, Tò mạy ở lễ giải hạn,
Suôi lừa hát khi Then làm động tác chèo thuyền, Khẩu tu vùa lúc Then đến cung Ngọc Hoàng…
ngoài ra còn chia làn điệu làm 2 kiểu: - Tàng bốc: đi đường trên cạn.- Tàng nặm: đi đường dưới
nước.Cũng giống như dân ca của nhiều tộc người trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền
khẩu, tự ứng tác trong hát Then là hiện tượng phổ biến. Mỗi Then đều xây dựng motif- Âm hình
giai điệu riêng ngay từ khi bắt đầu bước vào hành nghề, dần dần Then tiếp thu nhiều làn điệu
khác nhau mang âm hưởng dân ca nơi Then sống. Điển hình như điệu lượn Then có gốc giai
điệu từ lượn cọi- lối hát giao duyên nam nữ tỏ tình.Cách hát trong Then phần lớn là hát nói
(hoặc nói như hát) mang tính tự sự, kể chuyện, mơ tả trên nền nhịp điệu không ổn định về tiết
tấu. Đây cũng là đặc điểm khu biệt giữa Then Tày và hầu đồng Việt, nguyên do nguồn âm điệu
dân ca Tày hiếm gặp cấu trúc giai điệu dí dỏm, nghịch ngợm, tốc độ nhanh, hoạt, rộn rã.
Hoàng Tuấn[8] phân định hát Then làm ba dạng dựa theo tính chất biểu hiện của giai điệu:Loại cầu khẩn niệm chú.- Loại giãi bày tâm sự.- Loại kể lể, mô tả. Từ phân loại trên cho thấy
hát Then mang đặc tính cầu khẩn, giãi bày, kể lể tạo nên kiểu hành lễ trong màu sắc tối. Thời
điểm diễn ra nghi lễ Then chủ yếu trong đêm tối, như vậy Then diễn xướng trong một không
gian tối, tất cả đều mang lại cảm giác hư hư thực thực, mờ ảo gợi lên vẻ huyền bí, âm u. Nếu
vào ban ngày thì Then thốt hồn trong nhà, tại những nơi ít ánh sáng chiếu vào.Cây đàn cùng
với hát Then là Tính tẩu, một sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất liệu sẵn có từ môi trường
thiên nhiên. Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều huyền thoại, truyền thuyết được thêu
dệt, lưu truyền trong dân gian. Tính là âm tượng thanh tính, tình, tang đặt tên cho cây đàn, tẩu
nghĩa là quả Bầu chỉ rõ bầu đàn làm từ quả Bầu. Những câu chuyện về sự ra đời đàn Tính lưu
truyền khắp mọi nơi trong cộng đồng người Tày như: Pụt Luông- Bụt lớn sai con gái dạy cho
loài người biết lượn, làm đàn Tính. Chuyện ơng Bế Văn Phụng[9] chế tác đàn Tính phục vụ nhà
Mạc trên Cao Bằng. Chuyện về chàng Xiên Câm, người lấy lá cây Dâu từ trên trời về nuôi tằm,
xe sợi tạo dây đàn, trồng cây Bầu lấy quả Bầu chế thành bầu đàn, cán đàn sừng đàn làm từ
cây khảo hương và cây lý, những lồi cây có hương thơm mọc khắp nơi, ra hoa đẹp nở suốt bốn
mùa. Các truyền thuyết trên là niềm tự hào của người Tày. Dây đàn Tính truyền thống trước
đây dùng tơ tằm xe lại, sau đó lấy sáp ong hoặc nhựa củ nâu chuốt đi chuốt lại nhiều lần giúp
dây bền và không rè, hiện nay được thay thế bằng dây nilơng. Đàn Tính 2 dây lên dây theo hai
kiểu quãng: 4 đúng (rê- sol), 5 đúng (đô- sol), nhiều vùng như Bắc Kạn, Lạng Sơn đàn Tính lên
dây thấp hơn 1 cung: đơ- fa. Cịn đàn 3 dây cách mắc khá đặc biệt: giữa dây dưới- rê và dây
trên- sol, dây giữa có cao độ thấp hơn một quãng 8 đúng so với dây trên (rê- sòl- sol), hiệu quả
tạo nên âm trầm trì tục khi 3 dây cùng vang lên. Tiếng đàn Tính gọn gàng, ấm áp, hơi đục do
hộp cộng hưởng vỏ quả Bàu có mấy lỗ thoát hơi nhỏ đằng sau. Về kỹ thuật diễn tấu, người Tày
gảy chủ yếu bằng ngón trỏ, các ngón giữa và áp út chỉ có những người đạt tới trình độ tương
đối điêu luyện mới sử dụng. Đàn Tính là loại nhạc cụ của nghi lễ cầu cúng do đó ngày trước ít
xuất hiện trong sinh hoạt hát dân ca.Đồng hành với hát Then, đàn Tính là chùm xóc nhạc- Miạc
gồm nhiều quả nhạc nhỏ ghép lại, nối với nhau bằng các vòng tròn bằng sắt hoặc bằng đồng.
Xét nguồn gốc ra đời, Hoàng Tuấn[8] đưa ý kiến rất đáng chú ý, Miạc xuất hiện gắn liền với
động tác nhảy múa thời nguyên thuỷ, xuất xứ ban đầu là các chùm quả khơ bên trong có hạt
nhỏ đeo xung quanh người, trải theo thời gian dần biến đổi thành chùm xóc nhạc như ngày
nay. Trong nghi lễ hát Then, chùm xóc nhạc tượng trưng cho những chiếc vịng lục lạc trên cổ
ngựa, khi chạy phát ra âm thanh nghe réo rắt, do đó Miạc có tên khác là Xáu mạ, nghĩa đen là
nhạc ngựa. Nghề Then coi chùm xóc nhạc như con ngựa thiêng được ơng bà Then cưỡi dẫn
đồn quan qn lên thiên giới. Giọng hát, đàn Tính, chùm xóc nhạc vang lên tạo thành tổ hợp
âm sắc gây ấn tượng đặc biệt, người Tày tin rằng đó là sự tổng hồ các thứ tiếng có trong trời
đất qua mối quan hệ biểu tượng: thiên- địa- nhân. Đàn Tính do tiên trời ban cho, chùm xóc
nhạc như đồn âm binh dưới đất, và giọng hát đại diện cho người cùng mn lồi trên dương
gian. Về âm nhạc, Miạc ln tạo nên các nhóm tiết tấu khác nhau, dẫn dắt tiếng đàn điệu hát
nhịp nhàng, ổn định, sự kết hợp không cố định giữa các quả nhạc xóc khi rung, lắc tạo âm
thanh đa chiều, có màu sắc riêng khơng lẫn lộn với bất cứ nhạc cụ tự thân vang nào khác.Cùng
với âm nhạc (đàn Tính, chùm xóc nhạc, giọng hát) không thể không nhắc tới trang phục Then,
nổi trội và đặc trưng nhất trong nghi lễ cấp sắc Lẩu Then. Màu sắc quần áo then mặc chủ yếu
dùng các gam màu ngun tơng như: đỏ, vàng, tím, trắng, chàm, khác hẳn với kiểu phối màu
của hầu đồng người Việt. Mỗi màu Then mặc đều ứng với từng vị thần linh, do đó trong một
buổi lễ Then phải thay đổi y phục nhiều lần, đây là ước định giúp Then phô diễn hết khả năng
trong mỗi hình thức nghi lễ nhất định. Tính thuần nhất về màu phân biệt rõ ràng giữa Then và
người bình thường trong ăn mặc sinh hoạt hàng ngày. Lễ phục Then mặc kết hợp với không
gian nghi lễ đã hình thành nên một sân khấu dân gian rực rỡ sắc màu, ở đó Then đóng vai
chính tồn bộ buổi biểu diễn. Sự sắp đặt trình tự lễ theo quy trình thời gian được Then chuẩn bị
chu đáo. Đó chính là những nghệ nhân trình diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc, sản phẩm kết
tinh từ văn hố Tày kế thừa tồn bộ di sản truyền thống, tự thân phát triển tới trình độ ngày
càng hồn thiện hơn. Trải qua thời gian, những nghệ nhân Then đã phát huy tối ưu kinh
nghiệm, hiểu biết nghề Then, được cộng đồng chấp nhận như người ưu tú, tiêu biểu cho phức
hệ tín ngưỡng Tày.5. Tạm dừng nội dung- thay cho lời kếtĐã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
Then Tày, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá dân gian, dân tộc học, ngữ văn. Nhưng về âm nhạc
học nói chung và âm nhạc tộc người nói riêng từ trước đến nay khơng nhiều, có thể nêu một số
nhà nghiên cứu tiêu biểu: GS.TSKH Tô Ngọc Thanh, PGS.TS Thuỵ Loan, nhạc sĩ Hồng Tuấn,
nhạc sĩ Nơng Thị Nhình…tất cả đều xuất phát từ nhận thức độc lập, say mê với làn điệu dân ca
vùng, miền. Tác giả viết bài này chỉ mong muốn tìm tịi, suy ngẫm những thành quả đã đạt
được của nhiều người đi trước. Bởi âm nhạc tộc người ở Việt Nam vẫn là mảnh đất luôn thu hút
nhiều sự quan tâm hơn, cần nghiên cứu sâu và có hệ thống. Then Tày ẩn chứa đa phức thể
nguyên hợp, định dạng nghiên cứu Then từ nhiều lĩnh vực khác nhau góp phần giải mã hiện
tượng Then, hình thái văn hố- tín ngưỡng- nghệ thuật tiêu biểu của người Tày, từ đó góp phần
sáng tỏ các phương thức diễn xướng dân gian của nhiều tộc người khác trên đất nước Việt
Nam.Theo spnttw