Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Sự sụp đổ của BaringsCollapse of Barings

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.2 KB, 8 trang )

Sự sụp đổ của Barings
Collapse of Barings
Vào độ tuổi 28, Nick Leeson đã tạo đợc tiếng vang cho bản thân trong lịch sử ngành
tài chính vì đã làm thua lỗ 869 triệu bảng Anh (xấp xỉ 1.4 tỷ USD) và làm sụp đổ ngân
hàng Barings, ngân hàng của nữ hoàng Anh. Sự sụp đổ của Barings không phải là vấn
đề mang tính địa phơng. Nó xảy ra trong bối cảnh thị trờng các công cụ tài chính ngoại
bảng đang phát triển mạnh mẽ và làm cho thị trờng tài chính thế giới trở nên náo động
hơn bao gờ hết trong thập kỷ qua. Những khoản tiền khổng lồ đã chuyển sang tay ngời
khác, sự thua lỗ của Leeson đã lần đầu tiên tiết lộ cho công chúng thấy qui mô của các
khoản tiền cá cợc trên thị trờng tài chính.
Công ty chứng khoán Barings (Barings Securities) đã làm thay đổi văn hóa truyền
thống của anh em nhà Barings. Các thành viên trong gia đình là giám đốc của ngân hàng
luôn có cuộc sống phong lu. Tuy nhiên về sau này những cổ phiếu của họ đã đợc thay
thế bởi các khoản thởng bằng tiền.
Barings Securities đã thu đợc nhiều lợi nhuận đến nỗi các khoản tiền thởng đã trở nên
kếch xù. Mặc dù những khoản tiền thởng lớn nhất đợc để dành cho các ông chủ của
Barings Securities, mọi ngời từ nhân viên giao dịch thấp nhất trong công ty cho đến ông
chủ tịch Hội đồng Quản trị đều nhận đợc các khoản tiền thởng. Tiền đã trở thành tiêu
chuẩn chủ yếu và có lẽ là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá giá trị của một con ngời.
Sự đụng độ về văn hóa đã xé vụn Barings.
Trong những ngày đầu mới thành lập, phong cách quản lý của Barings Securities đợc
xây dựng dựa trên cơ sở những cảm giác bản năng kinh doanh. Với sự phát triển của
Barings Securities, bản năng kinh doanh đã không còn đủ khả năng thay thế cho phơng
pháp quản lý kinh doanh khoa học.
Mọi đối tợng không tạo trực tiếp ra lợi nhuận cho Barings Securities đều đợc coi là chi
phí chung. Một cách để tối đa hóa lợi nhuận và tiền thởng là giảm thiểu chi phí chung,
và kết quả là một số bộ phận trong ngân hàng đợc coi là công dân hạng hai. Hệ
thống công nghệ thông tin hiện đại và hệ thống kiểm soát tín dụng đợc coi là chi phí
chung; phòng thanh toán gồm những nhân viên đợc huấn luyện thành thạo, phòng
thực hiện kiểm tra các lệnh đặt mua/bán của những nhà đầu t, phát hành hợp đồng và chi
trả tiền cho các sàn giao dịch khác cũng đợc coi là chi phí chung.


Hoạt động thanh toán cha bao giờ đợc chú trong tại Barings Securities. Các nguồn lực
không đợc dùng để đầu t phát triển hệ thống thông tin toàn cầu nhằm giúp các nhà quản
lý tại London có đợc thông tin về tình hình hiện tại của công ty tại bất cứ thị trờng nào
1
trên thế giới. IT cũng không đợc cung cấp để quản lý rủi ro. Một nhân viên điều hành
phòng thanh toán cho tới những năm đầu của thập kỷ 90 đã nói rằng Mọi thứ đều đợc
viết lên mặt sau của chiếc phong bì.
Làm việc tại bộ phận kiểm soát đòi hỏi những nhân viên có tính cách khác với làm việc
tại sàn giao dịch. Công việc tại đây đòi hỏi tính cần cù, kiên nhẫn và nhịn nhục. Các
nhân viên tốt của phòng kiểm soát sẽ giống nh một địch thủ luôn tìm kiếm những sai sót
của nhân viên giao dịch, dù những sai sót đó là vô tình hay cố ý. Một trong những sai
lầm của Barings Securities là tuyển dụng những nhân viên trẻ tuổi cha đủ những phẩm
chất trên vào làm việc tại phòng này. Tất cả những gì các nhân viên này muốn là đợc
chuyển đến làm việc tại sàn giao dịch nơi có nhiều hứa hẹn về những khoản tiền thởng
lớn hơn. Nick Leeson, ngời bắt đầu gia nhập Barings Securities từ năm 1989 là một
trong số đó.
Văn phòng tại Singapore đợc mọi ngời gọi là pháo đài. Các nhân viên ở đó khá kiêu
căng và ngạo mạn, hộ coi Hội sở là những trở ngại cản đờng cần phải vợt qua. Văn
phòng tại Singapore đợc ủy quyền thực hiện các giao dịch kỳ hạn và các quyền lựa
chọn. Ngoài việc quản lý đièu hành bộ phận xử lý giao dịch, ngời quản lý bộ phận
này cũng đợc phép thực hiện lệnh của khách hàng trên sàn giao dịch. Leeson đã đợc
nhận vào làm ở vị trí này.
Hai ngày sau khi Leeson đến làm tại Singapore, Barings Securities tại London nhận đợc
yêu cầu từ Uỷ ban Chứng khoán và Hợp đồng Kỳ hạn (Securities & Forward Agency -
SFA) đòi hỏi cung cấp thêm thông tin về hai phán quyết của tòa án địa phơng đối với
hai khoản nợ tồn đọng của Leeson. SFA thực hiện điều tra thông tin về khả năng của
những ứng viên xin làm nhân viên giao dịch chứng khoán và tất cả các nhân viên giao
dịch chứng khoán tại London đều phải có chứng chỉ hành nghề do SFA cấp. Trớc khi
biết về cơ hội việc làm tại Singapore, Leeson đã nộp đơn xin SFA tại London cấp giấy
phép và không thành thật khai báo hai phán quyết của tòa án trong đơn nộp cho SFA.

Nếu anh ta thú nhận hai phán quyết này thì anh ta đã không đợc phép hành nghề giao
dịch.
Bất kỳ bộ phận giám sát pháp chế có quyền lực nào của một công ty kinh doanh chứng
khoán thành phố cũng sẽ quyết định rằng một nhân viên giao dịch không đủ t cách đợc
cấp giấy phép thì phải bị cấm không đợc tham gia giao dịch tại bất cứ đâu. Tuy nhiên
môi trờng làm việc tại Barings Securities lại cho phép điều này.
Công việc mà Leeson đợc giao hơi khác thờng so với công việc trong ngành chứng
khoán. Với những kinh nghiệm sẵn có, Leeson đợc giao vai trò trởng bộ phận thanh
toán, nhng ngoài ra anh ta còn đợc giao làm trởng nhóm kinh doanh hợp đồng kỳ hạn
của Barings Securities tại sàn giao dịch SIMEX. Sau đó anh ta thành lập một nhóm nhân
viên bán các hợp đồng chứng khoán.
2
Ngay từ đầu, qui trình báo cáo công việc cho lãnh đạo của Leeson đã không rõ ràng và
bị gián đoạn. Leeson không có ngời giám sát trực tiếp. Một yếu tố khác nữa khiến cho
việc giám sát anh ta gặp nhiều khó khăn là tại văn phòng của Barings Securities, tất cả
các lãnh đạo cao cấp đều làm việc ở lầu 24 của tòa nhà Ocean Tower trong khi bộ phận
giao dịch hợp đồng kỳ hạn của Barings Securities lại nằm ở lầu 14.
Công ty giao dịch kỳ hạn Barings Futures Ltd đã mở tài khoản số 88888 vào ngày
3/7/1992 nhằm hiệu chỉnh sai sót các bút toán tại thị trờng chứng khoán SIMEX. Vào
ngày sau khi tài khoản trên đợc mở, Leeson yêu cầu ông Edmund Wong, chuyên viên hệ
thống máy tính của Barings tại Singapore thay đổi chơng trình phần mềm. ông Wong đ-
ợc yêu cầu phải chặn lại 3 khoản mục ở tài khoản 88888 trong báo cáo điện tử gửi về
London hàng ngày. Tất cả những gì đợc báo cáo chỉ là các tập tin số tiền ký quĩ của các
hợp đồng kỳ hạn. Với sự am hiểu về các qui trình tại Hội sở ở London, Leeson biết rằng
những tập tin hàng ngày nào cần phải đợc xóa đi. điều này có nghĩa là khi những tập tin
số tiền ký quĩ cho các hợp đồng kỳ hạn hàng ngày đợc gửi về London thì hệ thống phân
loại tự động không thể nhận diện đợc số tài khoản. Vì vậy không có thông tin nào đợc
chuyển về hệ thống báo cáo nội bộ của Barings (hệ thống này có tên gọi là First
Futures)
Những thông tin lu giữ tại London đợc hiển thị trên hai màn hình. Một màn hình hiển

thị tổng số d tiền ký quĩ các hợp đồng kỳ hạn tại hệ thống CONTACT ở Singapore và
tổng số d này bao gồm số d của tài khoản 88888. Màn hình thứ hai hiển thị tổng số d đã
đợc chuyển vào hệ thống báo cáo nội bộ của Barings ở màn hình First Future và màn
hình này không có số d của tài khoản 88888. Màn hình hiển thị duy nhất đợc mọi ngời ở
London kiểm tra kỹ lỡng chính là First Future. Leeson nói rằng cần xóa 3 khoản mục
trong tài khoản 88888 vì các nhân viên ở London không thể cân đối các tài khoản.
Không lâu sau đó, tài khoản này đợc sử dụng để giao dịch chứ không phải để hiệu chỉnh
các sai sót.
Số d thực tế vào 30/9/1992 đã âm khoảng hơn 3 triệu Bảng Anh. Nếu có kế toán viên
nào biết đợc điều này thì cuộc đời của Leeson đã phải kết thúc chỉ trong vòng 3 tháng.
Vì vậy Leeson phải ngăn chặn các kiểm toán viên độc lập bên ngoài không cho khọ điều
tra tài khoản này.
Các kiểm toán viên độc lập nhận đợc một xác nhận nói rằng không cần kiểm tra tài
khoản này. Barings tại London nói rằng chỉ có một số d nhỏ trong tài khoản và mọi kế
toán viên đều chấp nhận điều đó đối với một tài khoản hiệu chỉnh sai sót. Bản thân xác
nhận này đợc gửi bằng fax hoặc photocopy của một bản fax từ một trởng phòng chứng
khoán ở London. Nếu theo đúng qui trình thì kiểm toán độc lập phải nhận các xác nhận
trực tiếp từ bên thứ 3; tuy nhiên các điều tra viên tại Singapore nói rằng trờng hợp này
3
đã không tuân thủ qui trình nói trên. Dờng nh có một bản fax khác đã bị chỉnh sửa nội
dung.
Những gì Barings cho phép Leeson làm và những gì Leeson đã làm là rất khác nhau.
Vào tháng 1 năm 1994, trớc khi Leeson đợc ủy quyền mua bán 200 hợp đồng Nikkei
225, Leeson đã đặt trớc không ít hơn 50.000 hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn dựa theo
Nikkei 225 thông qua tài khoản 88888. Khoản thua lỗ của sự mua bán vụng trộm đã
lên đến hơn 50 triệu bảng Anh. Một trong những lý do của sự thua lỗ này chính là sự
yếu kém trong khả năng giao dịch của anh ta. Một lý do khác là việc anh ta đã ghi nợ tài
khoản 88888 để chuyển lợi nhuân về cho Barings ở London và Tokyo. Lợi nhuận của
công ty chứng khoán đợc báo cáo tăng lên đáng kể.
James Baker, kiểm toán viên nội bộ đợc gửi đến Barings tại Singapore là ngời rất ngỡng

mộ Leeson. Tuy nhiên anh ta vẫn đề nghị rằng Leeson không nên tiếp tục quản lý các
hoạt động ký quĩ, cân đối sai biệt số d tài khoản và thế chấp tại SIMEX. Đặc biệt anh ta
không nên tiếp tục là ngời chịu trách nhiệm duy nhất giám sát phòng xử lý giao dịch tại
SIMEX. Nhng Baker vẫn đề nghị để cho Leeson tiép tục tham gia 2 công việc sau: (i)
anh ta có thể tiếp tục hỗ trợ cho cân đối tài khoản, và (ii) tất nhiên anh ta vẫn tiếp tục
phụ trách việc điều vốn và phối hợp với bộ phận ngân quĩ của tập đoàn. Điều này có
nghĩa là Leeson vẫn duy trì đợc quyền kiểm soát phòng xử lý giao dịch vốn rất quan
trọng đối với anh ta.
Baker yêu cầu phải có một bản đánh giá toàn diện những yêu cầu về vốn của Leeson.
Kết luận của Baker đối với những khoản lợi nhuận cao khác thờng là do năng lực
hiếm có của Leeson. Ngay cả Leeson cũng không thể đánh giá mình tốt đến nh vậy nếu
anh ta có cơ hội tự đánh giá chính mình.
Mặc dù giám đốc giao dịch tại Singapore, Simon John, nói rằng đề xuất tách chức năng
giao dịch ra khỏi xử lý giao dịch sẽ đợc thực hiện ngay lập tức, và cá nhân ông còn cam
kết rằng hoạt động thanh toán đã đợc giám sát rất chặt chẽ, nhng thực ra John đã không
làm gì để chấm dứt quyền kiểm soát của Leeson ở phòng xử lý giao dịch. John bác bỏ ý
kiến tuyển dụng một chuyên viên làm việc toàn thời gian để quản lý rủi ro và theo dõi
việc tuân thủ qui chế. Thay vào đó, ông ta bổ nhiệm một nhân viên dới quyền mình làm
việc này bán thời gian.
Baker không tin tởng John. Baker đã công nhận với các điều tra viên Singapore rằng anh
ta nghi ngờ về việc John sẽ thực hiện các đề nghị của anh ta. Tìm ra nhứng điểm chấp
nhận đợc trong công việc của Leeson đã là điều khó khăn và để tìm ra sự thực về những
gì Leeson đã làm đòi hỏi một thái độ cứng rắn hơn rất nhiều so với những gì Baker đã đ-
a vào báo cáo kiểm toán của anh ta.
4
ý kiến của Baker về việc hàng tuần phải thực hiện đối chiếu và cân đối các giao dịch
của Leeson đã không xuất hiện trong những bản báo cáo kiểm toán nội bộ tiếp theo.
Leeson đã tranh luận buộc Baker phải rút nó ra khỏi báo cáo. Baker đã nói rằng: tôi chỉ
có thể nói rằng tôi phải bỏ điểm đó ra khỏi báo cáo vì tôi không thể tranh cãi nổi với
Nick về điểm này và cuối cùng tôi đã chịu thua

Phản hồi từ Ban Giám đốc Barings về báo cáo kiểm toán nội bộ của James Baker nh là
lội qua mặt đờng. Không có sự nhất trí trong công ty, ngay cả đối với những ý kiến
quá rõ ràng, còn việc triển khai công tác thì thiếu tính khẩn trơng. Hawes nói rằng
không thể biện hộ cho việc không u tiên thực hiện cân đối tài khoản. Nhng dờng nh họ
luôn có việc gì đó còn quan trọng hơn thế nữa. Vì vậy vấn đề không phải là không phát
hiện đợc các khó khăn mà là việc không hành động để khắc phục nó.
Sự thiếu hiểu biết chính là sản phẩm phụ của những lo lắng tiềm ẩn. Trong một số tr ờng
hợp các giám đốc đợc yêu cầu quản lý những lĩnh vực mà họ cha hiểu kỹ. Một số giám
đốc khác, ví dụ ở phòng thanh toán, có khả năng điều hành công việc nhng lại không đ-
ợc giao quyền để làm điều đó. Công ty chứng khoán Barings không thực hiện quản lý
rủi ro một cách hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Có thể có 3 lời giải thích cho sự sụp đổ của Barings. Đó có thể là một âm mu, một sự
che đậy, hoặc do quản lý công ty luộm thuộm. Báo cáo tuyên bố là thiếu sự quản lý tại
Barings. Báo cáo đã cho rằng do sự thiếu sót trong giám sát nội bộ Barings nên Leeson
đã có cơ hội thực hiện các giao dịch vợt thẩm quyền, và sự thiếu sót trong giám sát cũng
làm giảm khả năng phát hiện gian lận của công ty
Ngân hàng Anh chỉ trích kiểm toán chúng tôi cho rằng (kiểm toán độc lập) của
London đã không thực hiện đủ những kiểm tra để đảm bảo rằng công tác giám sát thanh
toán của tài khoản ký quĩ và số d của tài khoản liên quan đã đợc duy trì một cách có
hiệu quả. Không có hệ thống kiểm soát, không có bộ phận quản lý quyền hạn, thiếu hỗ
trợ từ phía kiểm toán viên, đó là di sản của sự thiếu hiểu biết.
Tính tham lam là cách lý giải dễ dàng nhất trong 3 động cơ. Trớc đây, hầu hết gia đình
Barings, đặc biệt những ai làm trong ngân hàng đều sống rất thoải mái. Động cơ làm
việc của họ đợc pha trộn giữa ảnh hởng của họ ở thành phố, vị trí xã hội và một chút ít
về phục vụ cộng đồng. Những nhân viên thì không quá tham lam vì ở vị trí của họ thì
không làm đợc gì. Thị trờng bùng nổ năm 1985 đã làm thay đổi những điều trên, và sự
phát triển nhanh chóng của thị trờng công cụ tài chính ngoại bảng vào cuối những
năm 1980s đã làm thay đổi đến mức khó nhận ra. Sau khi chuyển những cổ phiếu cuối
cùng vào Barings Foundation, muốn có đợc thu nhập cao, những giám đốc phải dựa vào
các khoản tiền thởng. Nhng hầu hết lợi nhuận của công ty bây giờ lại phụ thuộc vào

những ngời mà trớc đây đã từng là nhân viên bình thờng. Và các khoản tiền thởng là các
5
hình thức chi trả một cách dân chủ hơn so với cổ tức và mỗi ngời đều có thể nhận đợc
tiền thởng.
Hơn một nửa lợi nhuận trớc thuế của Barings đợc chi dới dạng tiền thởng, và lợi nhuận
trong 8 năm liên tiếp đạt mức rất lớn. Trong một ngành mà các tài năng luôn khan hiếm
thì các khoản tiền thởng sẽ trở thành công cụ để ngã giá, góp phần tạo nên bản chất luôn
đòi hỏi nhiều hơn ở mỗi con ngời. Và với kết quả của việc báo cáo lãi giả của Leeson
năm 1994, 58 nhân viên của Barings đã đợc nhận tiền thởng trong khoảng từ 250.000
đến 499.999 bảng Anh và 5 nhân viên đợc nhận tiền thởng từ 500.000 đến 749.000 bảng
Anh; 4 cán bộ cao cấp đợc nhận khoản tiền thởng lên đến hơn 750.000 bảng Anh ngoài
lơng, trong đó có một ngời nhận đợc 1.650.000 bảng.
=> Chắng ai muốn làm mất lòng con ngỗng đẻ trứng vàng.
Những ngời biện hộ cho cơ cấu trả lơng tại London nói rằng thu nhập ở London phải
cao bởi vì dịch vụ tài chính là dịch vụ cho toàn cầu. Nhng những mức thu nhập này đã
không tạo nên sự bình ổn của thành phố mà còn góp phần gây ra sự mất ổn định.
Câu chuyện về giá trị đạo đức hiện đại là những gì David Frost miêu tả về câu
chuyện của Nick Leeson và sự sụp đổ của Barings.
??? CU HI:
Qua cõu chuyn S sp ca Barings, nhng nguyờn tc KSNB
no ó b Barings xem nh. (Tht bi ca KSNB)
Gi ý:
Hóy nhn bit v ch ra cỏc im yu trong KSNB ca Barings theo
05 b phn cu thnh ca KSNB- COSO.
[1]. Mụi trng kim soỏt:
[2]. ỏnh giỏ ri ro:
[3]. Hot ng kim soỏt:
[4]. Thụng tin v truyn thụng:
[5]. Giỏm sỏt:
6

7
8

×