Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

cấu trúc của tế bào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 28 trang )








SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

THIẾT KẾ HỆ THỐNG CÂU HỎI
ĐỂ TỔ CHỨC CHO HỌC SINH ÔN
TẬP CÁC KIẾN THỨC TRONG
CHƯƠNG: CẤU TRÚC CỦA TẾ BÀO
(SINH HỌC 10 NC)


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1.Họ và tên : PHẠM THỊ KIỀU NGA
2. Ngày tháng năm sinh : 30 tháng 4 năm 1973
3.Nam, nữ : Nữ
4. Địa chỉ : tổ 16 khu Văn Hải, thị trấn Long Thành, Long Thành,
Đồng Nai
5. Điện thoại : CQ :0613844081, NR : 0613545279; ĐTDĐ
:0909925315
6. Fax : Email :
7. Chức vụ : Giáo viên
8.Đơn vị công tác : Trường THPT LONG THÀNH
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị ( trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất : Thạc sỹ
- Năm nhận bằng: 2011


- Chuyên ngành đạo tạo: Lý luận và phương pháp dạy học Sinh học.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
-Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm : Sinh học
-Số năm có kinh nghiệm :16 năm















I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phương pháp dạy học vô cùng đa dạng vì hoạt động dạy học chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố phức tạp: tính chất nội dung trí dục, tính đa dạng của mục
đích lí luận dạy học, sự phong phú của các thao tác logic trong hoạt động dạy và
hoạt động học. Ngòai ra những thành tựu của các ngành khoa học khác cũng hỗ
trợ cho việc dạy học rất nhiều. Nếu như trước đây nguồn thông tin mà giáo viên
chuyển tải đến học sinh chủ yếu nằm trong chương trình sách giáo khoa, thì hiện
nay có thể thu thập từ nhiều nguồn khác nhau để mở rộng thêm kiến thức .Sinh
học là một môn khoa học gắn liền với thực tiễn, chính vì vậy học sinh có thể chủ
động tìm kiếm thông tin.
Kỹ thuật dạy học là những cách thức để làm ra sản phẩm tốt, đòi hỏi người giáo

viên phải có kỹ năng để học sinh nắm bắt được nội dung bài học.Trong phạm vi
đề tài này tôi xin trình bày THIẾT KẾ HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỂ TỔ CHỨC
CHO HỌC SINH ÔN TẬP CÁC KIẾN THỨC TRONG CHƯƠNG: CẤU
TRÚC CỦA TẾ BÀO (SINH HỌC 10 NC)
Thực chất đây là phương pháp mà Thầy đặt ra một hệ thống câu hỏi để trò lần
lượt trả lời, đồng thời có thể trao đổi qua lại. Qua hệ thống hỏi đáp trò lĩnh hội
được hệ thống nội dung bài học mới, bài ôn tập vì ở phương pháp này hệ thống
câu hỏi-câu trả lời là nguồn kiến thức chủ yếu. Ở phương pháp này học sinh
không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà ở một mức độ tích cực, sáng tạo
nhất định, tìm ra kiến thức mới. Khi trả lời câu hỏi học sinh nhớ lại kiến thức đã
có, sử dụng các thao tác logic: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa để
gia công tài liệu, tìm lời giải đáp tốt nhất.
Mặc khác người giáo viên có thể tiếp nhân thông tin tri thức từ học sinh, từ
đó qua mỗi bài dạy có thể đúc kết được nhiều kinh nghiệm để phục vụ việc giảng
dạy ngày càng tốt hơn.
II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1.Cơ sở lý luận
Thuật ngữ phương pháp trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩa là con
đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định. Vì vậy, phương


pháp là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự nhằm đạt được những kết quả
phù hợp với mục đích đã định.
Từ khái niệm trên ta thấy phương pháp có cấu trúc phức tạp, bao gồm mục đích
được đề ra, hệ thống những hành động (hoạt động), những phương tiện cần thiết
(phương tiện vật chất, phương tiện thực hành, phương tiện trí tuệ), quá trình làm
biến đổi đối tượng, kết quả sử dụng phương pháp (mục đích đạt được).
Khi sử dụng đúng phương pháp sẽ dẫn đến kết quả theo dự định. Nếu mục đích
không đạt được thì có nghĩa là phương pháp không phù hợp với mục đích hoặc
nó không được sử dụng đúng.

Bất kỳ phương pháp nào, dù là phương pháp nhận thức hay phương pháp thực
hành sản xuất, để thực hiện có kết quả vào đối tượng nào đó thì cũng phải biết
được tính chất của đối tượng, tiến trình biến đổi của nó dưới tác động của
phương pháp đó. Nghĩa là phải nhận thức những quy luật khách quan của đối
tượng mà chủ thể định tác động vào thì mới đề ra những biện pháp hoặc hệ thống
những thao tác cùng với những phương tiện tượng ứng để nhận thức và để hành
động thực tiễn.
Vậy thì phương pháp dạy học có đặc trưng gì khác với phương pháp nói chung?
Cấu trúc của nó như thế nào?
Trong phương pháp dạy học, chủ thể tác động – người thầy giáo và đối tượng tác
động của họ là học sinh. Còn học sinh lại là chủ thể tác động của mình vào nội
dung dạy học. Vì vậy, người thầy giáo phải nắm vững những quy luật khách
quan chi phối tác động của mình vào học sinh và nội dung dạy học thì mới đề ra
những phương pháp tác động phù hợp.
Từ đó có thể nhận thấy đặc trưng của phương pháp dạy học: người học là đối
tượng tác động của giáo viên, đồng thời là chủ thể, là nhân cách mà hoạt động
của họ (tương ứng vói sự tác động của người giáo viên) phụ thuộc vào hứng thú,
nhu cầu, ý chí của họ. Nếu giáo viên không gây cho học sinh có mục đích tương
ứng với mục đích của mình thì không diễn ra hoạt động dạy và hoạt động học và
phương pháp tác động không đạt được kết quả mong muốn.
Vì vậy, cấu trúc của phương pháp dạy học trước tiên là mục đích của người giáo
viên đề ra và tiến hành một hệ thống hành động với những phương tiện mà họ
có. Dưới tác động đó của người giáo viên làm cho người học đề ra mục đích của
mình và thực hiện hệ thống hành động với phương tiện mà họ có nhằm lĩnh hội
nội dung dạy học.
Trên cơ sở đó, ta có thể hiểu về phương pháp dạy học như sau:


Phương pháp dạy học là cách thức hành động có trình tự, phối hợp tương tác với
nhau của giáo viên và của học sinh nhằm đạt được mục đích dạy học.

Nói cách khác phương pháp dạy học là hệ thống những hành động có chủ đích
theo một trình tự nhất định của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và
hoạt động thực hành của học sinh nhằm đảm bảo cho họ lĩnh hội nội dung dạy
học và chính như vậy mà đạt được mục đích dạy học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học với sự
tương tác lẫn nhau, trong đó phương pháp dạy đóng vai trò chủ đạo, còn phương
pháp học có tính chất độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy,
song nó cũng ảnh hưởng trở lại phương pháp dạy.
Phương pháp dạy học là tổ hợp những biện pháp với tư cách là những thành phần
cấu trúc của nó, song việc phân như vậy cũng chỉ có tính chất tương đối. Chẳng
hạn giảng giải là phương pháp dạy học trong tiết học lĩnh hội tri thức mới nhưng
lại là một biện pháp của phương pháp công tác trong phòng thí nghiệm. Điều đó
có nghĩa là trong những điều kiện nhất định, chúng có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Để phát huy mặt mạnh và hạn chế mặt yếu của phương pháp hỏi đáp thì cần phải
đảm bảo những yêu cầu khi đề ra câu hỏi và việc vận dụng phương pháp đó. Sở
dĩ như vậy là vì trong phương pháp hỏi đáp, câu hỏi có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Không biện pháp nào linh hoạt, uyển chuyển, dễ điều khiển hoạt động
nhận thức của học sinh bằng cách đề ra câu hỏi.
Phân loại câu hỏi: Tuỳ theo cơ sở phân loại mà có những loại câu hỏi sau:
- Dựa theo nội dung, sự diễn đạt ngôn ngữ, sự nhấn giọng, người ta phân ra câu
hỏi đơn giản, câu hỏi phức tạp.
- Dựa theo mục đích dạy học có thể phân ra câu hỏi định hướng, câu hỏi gợi mở,
câu hỏi nhắc nhở.
- Dựa theo chức năng có thể phân ra câu hỏi phân tích – tổng hợp, câu hỏi so
sánh, đối chiếu, câu hỏi hệ thống hoá tri thức, câu hỏi đòi hỏi cụ thể hoá tri thức.
- Dựa theo mức độ tính chất hoạt động nhận thức của học sinh có thể phân ra câu
hỏi đòi hỏi giải thích, minh hoạ, câu hỏi tái hiện, câu hỏi có tính vấn đề.
Câu hỏi tái hiện là câu hỏi mà câu trả lời chỉ cần nhớ lại những tri thức đã được
lĩnh hội trước đây.
Câu hỏi có tính vấn đề là câu hỏi tạo cho học sinh gặp phải một tình huống có

vấn đề, nghĩa là gây nên trạng thái tâm lý giữa điều đã biết và điều chưa biết,
nhưng muốn biết. Câu trả lời trong câu hỏi có tính vấn đề chưa có trong câu trả


lời trước đó của học sinh, mà đòi hỏi phải cần có tri thức mới. Để có tri thức đó,
cần phải có hành động trí tuệ, có một quá trình tư duy có chủ đích nhất định.
Câu hỏi có tính vấn đề trong dạy học nêu và giải quyết vấn đề thường gọi là vấn
đề.
Vậy với những điều kiện nào thì câu hỏi trở thành có tính vấn đề?
Đó là những điều kiện sau:
- Câu hỏi phải có mối liên hệ logic với những khái niệm đã lĩnh hội trước đây và
những tri thức phải ở trong tình huống nhất định.
- Câu hỏi phải chứa đựng mâu thuẫn nhận thức; câu hỏi phải gây lên sự ngạc
nhiên, điều nghịch lý khi đối chiếu điều đã biết từ trước với điều đang học và
cảm thấy không thoả mãn với tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trước đây và xuất hiện
nhu cầu phải lĩnh hội tri thức mới để giải quyết câu hỏi đang đặt ra.
Nghệ thuật đặt câu hỏi: Việc sử dụng phương pháp vấn đáp phụ thuộc vào nghệ
thuật đặt câu hỏi của giáo viên. Biết đặt câu hỏi và tăng dần tính phức tạp, tính
khó khăn của câu trả lời là một ttrong những thói quen sư phạm quan trọng và
cần thiết nhất.
Nghệ thuật đặt câu hỏi phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Trong tình huống học tập nhất định giáo viên phải đặt câu hỏi như thế nào đòi
hỏi học sinh phải tích cực hoá tài liệu đã lĩnh hội trước đây, vạch ra ý nghĩa cơ
bản của tri thức đã học.
- Câu hỏi không đơn thuần đòi hỏi học sinh tái hiện tài liệu đã lĩnh hội mà phải
vận dụng những tri thức đã nắm trước đây để giải quyết vấn đề mới. Lẽ tất nhiên
có những trường hợp câu hỏi đòi hỏi tái hiện trực tiếp tài liệu không chỉ đúng lúc
mà là cần thiết.
- Câu hỏi phải hướng trí tuệ của học sinh vào mặt bản chất của những sự vật,
hiện tượng phải nghiên cứu, phải hình thành tư duy biện chứng cho họ.

- Câu hỏi phải đặt như thế nào để đòi hỏi học sinh xem xét những sự kiện, hiện
tượng trong mối liên hệ với nhau, nhìn nhận hiện tượng, sự vật không chỉ theo
những thành tố, theo từng bộ phận mà còn theo tính chỉnh thể toàn vẹn của
chúng.
- Câu hỏi đặt ra phải theo những quy tắc logic.


- Việc biểu đạt câu hỏi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân,
trinh độ hiểu biết và kinh nghiệm của học sinh. Khối lượng những khái niệm
trong những câu hỏi của giáo viên không được vượt quá khả năng tìm ra câu trả
lời đúng của học sinh.
- Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, thống nhất, không thể có
hai câu trả lời đều đúng, về hình thức phải gon gàng, sáng sủa.
Yêu cầu đối với việc vận dụng phương pháp hỏi đáp:
- Cần phải đặt câu hỏi cho toàn lớp rồi mới chỉ định học sinh trả lời. Khi một học
sinh trả lời xong, cần yêu cầu những học sinh khác nhận xét, bổ sung, sửa chữa
câu trả lời nhằm thu hút sự chú ý lắng nghe câu trả lời của bạn với tinh thần phê
phán. Qua đó mà kích thích hoạt động chung của cả lớp.
- Khi học sinh trả lời, giáo viên cần lắng nghe. Nếu cần thiết đặt thêm câu hỏi
phụ, câu hỏi gợi mở dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi chính.
- Cần có thái độ bình tĩnh khi học sinh trả lời sai hoặc thiếu chính xác, tránh thái
độ nôn nóng, vội vàng cắt ngang ý của họ khi không thật cần thiết. Chú ý uốn
nắn, bổ sung câu trả lời của học sinh, giúp họ hệ thống hoá lại những tri thức đã
thu được trong quá trình vấn đáp.
- Không chỉ chú ý kết quả câu trả lời của học sinh mà cả cách diễn đạt câu trả lời
của họ một cách chính xác, rõ ràng, hợp logic. Đó là điều kiện quan trọng để
phát triển tư duy logic của họ.
- Cần chú ý sử dụng mọi biện pháp nhằm thúc đẩy học sinh mạnh dạn nêu thắc
mắc và khéo léo sử dụng thắc mắc đó để tạo nên tình huống có vấn đề và thu hút
toàn lớp tham gia thảo luận, tranh luận để giải quyết vấn đề đó. Qua đó có thể

góp phần lấp lỗ hổng, chữa những sai lầm hoặc hiểu chưa chính xác những nội
dung học tập của học sinh.
a.Phương pháp hỏi đáp- tái hiện thông báo
 Bản chất của phương pháp:
Ở đây giáo viên nêu câu hỏi, yêu cầu học sinh trả lời trực tiếp. Câu trả lời
của học sinh chỉ cần nhớ lại kiến thức có sẳn hay mô tả lại chính xác kết quả
quan sát những gì giáo viên đã tổ chức, biểu diễn trước đó. Do khi trả lời học
sinh không phải suy luận, chỉ cần có trí nhớ máy móc nên phương pháp hỏi đáp-
tái hiện thông báo ít có tác dụng rèn luyện trí thông minh. Hỏi đáp –tái hiên
thông báo được sử dụng phổ biến khi ôn tập, kiểm tra hoặc khi tài liệu học tập
phải đòi hỏi chính xác các hành động, các số liệu, các sự kiện tuy nhiên


phương pháp này lại có hiệu quả nhất là khi kết hợp trong hỏi đáp các câu hỏi tái
hiện với các câu hỏi tìm tòi.
b.Phương pháp hỏi đáp- tìm tòi bộ phận
 Bản chất của phương pháp hỏi đáp tìm tòi bộ phận
Là phương pháp mà trong đó học sinh độc lập giải quyết từng phần nhỏ
hàng loạt các câu hỏi do giáo viên nêu ra trên lớp,trong các bài thực hành quan
sát trong vườn trường, trên đồng ruộng ,ngoài thiên nhiên Hỏi đáp –tìm tòi
được tổ chức bằng sự xen kẽ tuần tự các thông báo ngắn của giáo viên với các
câu hỏi và câu trả lời của học sinh đối với câu hỏi đó. Mỗi câu hỏi hay một nhóm
câu hỏi nào đó phải xây dựng sao cho khi trả lời học sinh nhận được một liều
kiến thức nhất định và cứ lần lượt hỏi đáp như vậy học sinh lĩnh hội được nội
dung kiến thức về một chủ đề trọn vẹn.
 Những yêu cầu logic của câu hỏi
-Câu hỏi phải mang tính chất nêu vấn đề, buộc học sinh phải luôn luôn ở
trạng thái có vấn đề
Hệ thống câu hỏi, lời giải đáp thể hiện một logic chặt chẽ các bước giải
quyết một vấn đề lớn, tạo nên nội dung trí dục chủ yếu của bài, là nguồn tri thức

cho học sinh. Bằng phương pháp này, học sinh không chỉ lĩnh hội nội dung trí
dục mà còn rèn luyện cả phương pháp nhận thức và cách diễn đạt tư tưởng bằng
ngôn ngữ nói một cách logic, chặt chẽ
-Câu hỏi phải giữ vai trò chủ đạo, bằng những câu hỏi liên tiếp, xếp theo
một logic chặt chẽ uốn nắn dẫn dắt học sinh từng bước đi tới bản chất của sự vật
hiện tượng Trong vai trò chỉ đạo này của giáo viên thì học sinh giống như người
phát hiện .Vì vậy hỏi đáp là một mức độ của dạy học nêu vấn đề vì có cả Thầy và
trò tham gia hoạt động .
-Câu hỏi nêu ra không nên quá chung chung, và ngược lại cũng không nên
quá chi tiết. Làm thế nào để hệ thống các câu hỏi khi học sinh tham gia trả lời
dưới sự cố vấn của Thầy thì sản phẩm là một nội dung bài học đầy đủ.
Trong nhiều trường hợp giáo viên cần nêu các câu hỏi gây sự tranh luận
trong cả lớp . Những câu hỏi như thế tạo điều kiện phát triển tính độc lập tư duy
của học sinh, dạy học sinh cách lập luận theo quan điểm riêng của mình
 Tác dụng của phương pháp hỏi đáp


-Phương pháp này có tác dụng gây được hứng thú nhận thức, khát vọng tìm
hiểu kiến thức mới.Vì vậy trong kỹ thuật dạy học bằng phương pháp này thường
sử dụng các câu hỏi như: câu hỏi yêu cầu phân tích-tổng hợp, câu hỏi đòi hỏi sự
so sánh, câu hỏi buộc học sinh thiết lập mối quan hệ nhân quả, rút ra kết luận
mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa. Phương pháp này cho phép thu được
thông tin ngược từ học sinh. Những thông tin này không chỉ phong phú mà còn
chính xác, kịp thời giúp giáo viên điều chỉnh quá trình dạy học một cách linh
hoạt.
-Hỏi đáp được sử dụng phổ biến, thích hợp cho hầu hết các bài và thường
được sử dụng với các phương pháp dạy học khác. Đặc biệt trong chương “Cấu
trúc của tế bào” phương pháp này sẽ có tác dụng khi học sinh kết hợp quan sát
hình ảnh và trả lời được những câu hỏi trong nội dung từng bài của chương
 Tổ chức hoạt động của học sinh trong phương pháp hỏi đáp

Có thể có ba phương án tổ chúc hoạt động của học sinh
Phương án 1:Thầy đặt hệ thống nhiều câu hỏi riêng rẽ rồi chỉ định trò trả lời.
Mỗi học sinh trả lời một câu. Nguồn thông tin cho cả lớp là sự tổng hợp các câu
hỏi cùng những câu trả lời tương ứng.
Phương án 2: Thầy đặt ra cho cả lớp một câu hỏi chính có kèm theo các thông
báo gợi ý hoặc các câu hỏi phụ liên quan đến câu hỏi lớn đó .Gíao viên tổ chức
cho học sinh trả lời lần lượt từng bộ phận của câu trả lời lớn ban đầu .Nguồn
thông tin cho học sinh trong trường hợp này là: Câu hỏi tổng quát cùng với tổ
hợp các lời giải đáp bộ phận của học sinh.
Phương án 3: Thầy nêu câu hỏi chính, kèm theo những gợi ý nhằm tổ chức cho
trò tranh luận, hoặc học sinh đặt ra những câu hỏi phụ cho nhau rồi giúp nhau
giải đáp. Câu hỏi chính do giáo viên nêu ra theo phương án này thường chứa
đựng mâu thuẩn dưới dạng nghịch lí, hoặc nó vạch ra nhiều hướng khác nhau
phải lựa chọn giải quyết. Học sinh thường rất lúng túng khi xây dựng nên lời
phát biểu tổng kết cuộc tranh luận, vì tính chất khái quát và sự phê phán của nó.
Vỉ vậy giáo viên phải nêu ra những câu hỏi phụ, gợi ý cho học sinh tự lực đi tới
kết luận tổng quát.
Dù phương án nào đi nữa thì hiệu quả chủ yếu đều được quyết định bởi nghệ
thuật đặt câu hỏi. Câu hỏi chất lượng là câu hỏi có có sức chứa nhiều nội dung trí
lực. Sức chứa này tỉ lệ thuận với tính có vấn đề của câu hỏi. Để đạt được điều


này giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung cần truyền đạt đã tường minh trong
sách giáo khoa. Sau đó bằng câu hỏi biến cái đã tường minh thành không tường
minh, để tiếp đó tổ chức cho học sinh khôi phục lại sự tường minh của nội dung.
2.Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
a.Các mức độ của câu hỏi
 Câu hỏi ở mức độ biết
Là câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời một kiến thức đã biết, một kiến thức đã học
trước đó, học sinh dựa vào trí nhớ để trả lời câu hỏi đó

 Câu hỏi ở mức độ hiểu
Là câu hỏi yêu cầu học sinh tổ chức sắp xếp lại kiến thức đã học, diễn đạt
bằng ngôn từ của chính mình để chứng tỏ sự hiểu biết chứ không phải thuần túy
dựa vào trí nhớ.
 Câu hỏi ở mức vận dụng
Đó là yêu cầu học sinh áp dụng kiến thức đã học (khái niệm, quá trình,quy
luật ) vào một tình huống mới khác với nội dung bài học.Thường sử dụng
cụm từ: xác định, khám phá, thao tác, dự đoán, tính toán, thiết lập, chứng minh,
giả thuyết, ứng dụng
 Câu hỏi ở mức độ phân tích
Là câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích nguyên nhân hay kết quả của một
hiện tượng, tìm bằng chứng cho một luận điểm, phân tích sự liên hệ thành phần,
cấu trúc Để đo mức độ này người ta dùng cụm từ: phân biệt, chỉ ra, thiết lập
quan hệ, chọn ra
 Câu hỏi ở mức độ tổng hợp
Câu hỏi yêu cầu học sinh phải phối hợp các kiến thức đã học để giải quyết
các vấn đề có tính khái quát.Với dạng câu hỏi này đòi hỏi người học phải đạt một
trình độ nhất định, có khả năng tư duy sáng tạo.
 Câu hỏi ở mức độ biết
Câu hỏi yêu cầu học sinh nhận định phán đoán ý nghĩa kiến thức, giá trị của
tư tưởng, vai trò của học thuyết. Để đo mức độ thường dùng lệnh: đánh giá, phê
bình, nhận thức, đưa ra nhận định


b.Các hình thức tổ chức hỏi đáp
 Một hỏi –một đáp
Thường áp dụng cho câu hỏi ở mức độ hiểu và biết
Giáo viên






 Một hỏi- nhiều đáp
Giáo viên




 Tranh luận
Giáo viên




ÁP DỤNG GIẢNG DẠY ÔN TẬP CHƯƠNG II :CẤU TRÚC TẾ BÀO
(SGK SINH HỌC 10 NC)
1.Tóm tắt lí thuyết cơ bản
-Tế bào là đơn vị cấu trúc của mọi cơ thể sống
HS 1
HS 3 HS2
HS 1
HS 3 HS2
HS 1
HS 3 HS2


-Tế bào nhân sơ chưa có nhân hoàn chỉnh.Đại diện: vi khuẩn.Vi khuẩn
được bao quanh bởi màng sinh chất, bên ngoài có thành tế bào. Một số vi khuẩn
có vỏ nhầy.Tế bào nhân sơ có một thể nhiễm sắc đơn, vòng nằm trong chất tế

bào điều khiển mọi hoạt động của tế bào.
-Tế bào nhân thực có nhân được bao bọc bởi màng nhân .Tế bào nhân thực
có một số thể nhiễm sắc mạch thẳng nằm trong nhân điều khiển mọi hoạt động
của tế bào. Bao quanh tế bào nhân thực là màng sinh chất.Một số loại tế bào
nhân thực có thành tế bào như : nấm, tế bào thực vật có tác dụng bảo vệ tế bào
đồng thời xác định hình dạng, kích thước tế bào.Trong chất tế bào có nhiều loại
bào quan.
-Mỗi loại quan có cấu trúc và chức năng riêng
+Ti thể là cơ quan tạo năng lượng ATP
+Lục lạp là cơ quan tạo cacbohydrat trong tế bào quang hợp
+Riboxom tổng hợp Protein
Lưới nội chất tạo nên hệ thống xoang trong chất tế bào nhân thực tạo điều
kiện để sản xuất ra những sản phẩm nhất định nhằm đưa tới những nơi cần thiết
trong tế bào hay xuất bào
+Bộ máy Gongi (chỉ có trong một số tế bào) là nơi thu nhận một số chất
như protein, lipit và đường rồi lắp ráp thành sản cuối cùng sau đó đóng gói và
gởi đến nơi cần thiết trong tế bào hay để xuất bào nhờ các túi tải.
+Lizoxom là một loại túi màng có nhiều enzim thủy phân có chức năng
phân hủy các tế nào già, bào quan già, các tế bào bị tổn thương không còn khả
năng phục hồi cũng như kết hợp với không bào tiêu hóa để phân hủy thức ăn .
+Không bào là bào quan được bao bọc bởi một lớp màng có các chức
năng: chứa các chất dự trữ, bảo vệ, chứa các sắc tố Các bào quan chỉ thể hiện
chức năng khi ở trong tế bào.
-Màng sinh chất là ranh giới bên ngoài và là rào chắn chọn lọc của tế bào.
Màng sinh chất là màng khảm lỏng được cấu tạo từ hai thành phần chính là lớp
kép photpholipit và protein. Các phân tử lipit và protein có thể di chuyển trong
phạm vi nhất định bên trong màng. Có nhiều loại protein khác nhau trên màng,
mỗi loại thực hiện một chức năng khác nhau.



-Màng sinh chất đóng vai trò quan trọng trong sự trao đổi chất giữa tế bào
và môi trường ngoài. Màng cho nhiều chất đi qua theo cả hai hướng :
+Phương thức vận chuyển thụ động thì không tiêu tốn năng lượng
+Phương thức chủ động kèm theo tiêu tốn năng lượng ATP
Sự vận chuyển qua màng không chỉ phụ thuộc vào kích thước mà còn phụ
thuộc vào cấu tạo và tính chất của màng. Sự vận chuyển còn phụ thuộc vào sự có
mặt của các protein màng, hoặc do sự thay đổi hình dạng của màng nhờ tiêu
dùng năng lượng.
Khếch tán là sự vận chuyển các phân tử và ion theo gadien nồng độ ,sự
khuếch tán qua bề mặt là nhanh nhất khi diện tích bề mặt rộng mỏng và sự chênh
lệch gadien nồng độ là lớn. Sự khuếch tán các phân tử và ion qua màng sinh chất
có thể qua lớp kép photpholipit hoặc được trợ giúp bở các protein đặc biệt trên
màng, quá trình này được gọi là khếch tán nhanh có chọn lọc.
-Thẩm thấu là sự vận chuyển của nước qua màng, từ nơi có thế nước cao
đến nơi có thế nước thấp hơn.
-Khuếch tán có chọn lọc và thẩm thấu phụ thuộc vào nội năng của các
phân tử và ion. Do tế bào không tiêu dùng năng lượng trong quá trình này nên
gọi là vận chuyển thụ động.
-Vận chuyển chủ động là quá trình tế bào vận chuyển các phân tử và ion
qua màng ngược chiều gradien nồng độ nhờ các kênh protein trên màng và tiêu
tốn năng lượng .
Nhập bào là sự vận chuyển vật chất vào tế bào.Trong quá trình này vật chất
bị gói vào một túi ,sau đó túi tách khỏi màng sinh chất
+Ẩm bào: chất lấy vào tế bào là chất lỏng
+Thực bào: chất lấy vào là chất rắn
-Xuất bào là sự vận chuyển vật chất ra khỏi tế bào. Những chất này được
đóng gói vào các túi trong chất tế bào. Chúng được tách riêng khi các túi này vận
chuyển tới màng và được đẩy ra ngoài.



2. Hệ thống câu hỏi:
Câu hỏi 1: Quan sát hình vẽ, và cho biết thành phần cấu trúc cơ bản của tế bào?

Trả lời: Màng sinh chất,tế bào chất, nhân hoặc vùng nhân
Câu hỏi 2: Hoàn thành bảng sau bằng cách điền dấu (+) nếu có hoặc (-) nếu
không có:

Cấu trúc Chức năng Tế bào vi khuẩn Tế bào động vật Tế bào thực vật
Vỏ nhầy
Thành tế bào
Màng sinh chất
Chất tế bào
Nhân tế bào

Trả lời:

Cấu trúc
Chức năng
Tế bào vi
khuẩn
Tế bào
động vật
Tế bào
thực vật

Vỏ nhầy Tăng sức bảo vệ tế bào + - -
Thành tế bào
Quy định hình hình dạng tế bào và có
chức năng bảo vệ tế bào
+ - +

Màng sinh chất Vách ngăn giữa bên trong và bên + + +


ngoài tế bào ,đồng thời giúp đều hòa
các thành phần bên trong tế bào
Chất tế bào
Là nơi thực hiện các phản ứng
chuyển hóa của tế bào
+ + +
Nhân tế bào
Chứa thông tin di truyền ,điều khiển
mọi hoạt động của tế bào
_ + +
Câu hỏi 3:Hãy chú thích hình vẽ về cấu trúc của một trực khuẩn ? Chức năng
của các thành phần?









Trả lời












Chức năng :
Vỏ nhầy: Tăng sức bảo vệ tế bào


Thành tế bào: Quy định hình hình dạng tế bào và có chức năng bảo vệ tế bào
Màng sinh chất: Vách ngăn giữa bên trong và bên ngoài tế bào ,đồng thời giúp
đều hòa các thành phần bên trong tế bào
Tế bào chất: Là nơi thực hiện các phản ứng chuyển hóa của tế bào
Vùng nhân tế bào: Chứa thông tin di truyền ,điều khiển mọi hoạt động của tế
bào
Câu hỏi 4:Quan sát hình vẽ hãy liệt kê các cấu trúc cơ bản của tế bào động vật,
tế bào thực vật và cho biết điểm giống nhau và khác nhau của hai loại tế bào đó?






Câu hỏi 5: Chú thích đầy đủ thành phần cấu trúc tế bào động vật,tế bào thực
vật?









Câu hỏi 6:Mô tả cấu trúc và chức năng của các bào quan trong tế bào nhân
thực :mạng lưới nội chất, bộ máy gongi, không bào, khung xương tế bào, trung
thể


Các bào quan Đặc điểm cấu trúc Chức năng
Mạng lưới nội chất
Bộ máy gongi
Không bào
Khung xương tế bào
Trung thể

Trả lời

Các bào quan Đặc điểm cấu trúc Chức năng
Mạng lưới nội chất
Mạng lưới của các nội màng,có
2 loại :lưới nội chất hạt và lưới
nội chất trơn
-tạo thành các túi tiết
-lưới nội chất hạt tổng hợp
protein màng .lưới nội chất
trơn:tổnghợpLipit,
Polisaccarit và khử độc
Bộ máy gongi
Gồm nhiều túi dẹt Bao gói protein ,tạo ra các

túi tiết
Không bào Vi ống ,vi sợi và sợi trung gian Bộ khung nâng đỡ nội bào
Khung xương tế bào
Bào quan có cấu trúc màng
đơn,có chứa nhiều chất hữu cơ
và ion khoáng
Có nhiều chức năng khác
nhau tùy loại tế bào
Trung thể
Gồm nhiều bộ ba vi ống xếp
thành vòng
Tham gia vào sự phân chia
tế bào
Câu hỏi 7:So sánh cấu trúc tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực bằng cách hoàn
thành bảng sau:
Cấu trúc Tế bào nhân sơ Tế bào nhân thực
Vỏ nhầy
Thành tế bào
Màng sinh chất
Chất tế bào:
+Riboxom
+Các bào quan khác



Nhân:
+Màng nhân
+Nhân con
+Chất nhiễm sắc



Trả lời
Cấu trúc Tế bào nhân sơ Tế bào nhân thực
Vỏ nhầy có Không có
Thành tế bào có
Có ở nấm thành kitin) và
ở thực vật (xenlulo) và
không có ở động vật
Màng sinh chất có có
Chất tế bào:
+Riboxom




+Các bào quan khác

+riboxom nhỏ (70S) và
riboxom tự do trong chất
tế bào


+không có

+riboxom lớn (80S) và
một số tự do trong chất tế
bào,một số khác nằm trên
lưới nội chất

+có nhiều loại

Nhân:
+Màng nhân
+Nhân con
+Chất nhiễm sắc
Không có
+không có
+không có
+1 NST vòng

+có
+có
+một số và không vòng
Câu hỏi 8:Hãy cho biết trong tế bào nhân thực những bộ phận nào có cấu trúc
màng đơn hoặc màng kép hay không có màng bao bọc?
Trả lời
Cấu trúc trong tế bào Màng đơn Màng kép
Nhân x
Riboxom
Ti thể x


Lục lạp x
Mạng lưới nội chất x
Bộ máy gôngi x
Lizoxom x
Không bào x
Trung thể

Câu hỏi 9:Chú thích thành phần cấu tạo nên màng sinh chất?Gỉai thích vì sao
khi ta nấu canh cua (cua giả nhỏ và được lọc lấy để nấu canh ) thì có hiện tượng

đóng lại từng mảng nổi lên mặt nược nồi canh?


Trả lời



Trong môi trường nước của tế bào, Protein thường giấu kín phần kị nước ở
bên trong và lộ phần ưa nước ra bên ngoài
Khi có nhiệt độ cao, các phân tử chuyển động hỗn loạn làm cho các phần kị
nước bên trong bọc lộ ra ngoài nhưng do bản chất kị nước nên các phần kị nước
của phân tử này lập tức liên kết với phần kị nước của phân tử khác làm cho các
phân tử nọ kết dính với phân tử kia.


Câu hỏi 10:Hình bên mô tả bào quan nào trong tế bào? ghi chú thích cho
hình, nêu cấu trúc và chức năng của bào quan đó?


Trả lời:

CẤU TRÚC:Lục lạp có hình bầu dục,có cấu trúc màng kép, bên trong là khối cơ
chất không màu gọi là chất nền (stroma) và các hạt nhỏ (grana). Mỗi hạt nhỏ như
một chồng tiền xu gồm các túi dẹp (gọi là tilacoit). Bề mặt của màng tilacoit có
chứa sắc tố và các hệ enzim tạo thành các đơn vị quang hợp.
CHỨC NĂNG :Là nơi thực hiện chức năng quang hợp của tế bào thực vật.
Câu hỏi 11: Mặc dù có những sự khác biệt rõ rệt về cấu trúc giữa các sinh vật
nhân thực và các sinh vật nhân sơ song giữa chúng vẫn tồn tại nhiều sự giống
nhau chung cho mọi dạng sinh vật hiện đang sống trên Trái đất và người ta cho



rằng chúng có cùng một tổ tiên chung. Dựa vào cấu trúc tế bào vi khuẩn và cấu
trúc của các tế bào nhân thực, em hãy chứng minh điều đó?
Trả lời:
-Cả hai nhóm sinh vật đều có các thành phần hóa học chính của tế bào
là:protein, axit nucleie,hydratcacbon và lipit
-Cả hai nhóm đều có màng sinh chất rất giống nhau, có cấu trúc của một đơn vị
màng cơ sở
-Đều là axit nuclaic ARN và ADN chứa thông tin di truyền, protein đều được
tổng hợp từ khuôn mARN kết hợp với các riboxom.
-Ti thể và lục lạp của các sinh vật nhân chuẩn đều chứa ADN và ARN, chứa
nhiều loại protein và các riboxom 70S giống riboxom của các sinh vật nhân
nguyên thủy. Hai bào quan này hoạt động không phụ thuộc vào tế bào trong
việc tao thành ATP nhờ các quá trình (hô hấp hiếu khí và quang hợp) cũng gặp
trong các sinh vật nhân nguyên thủy. Ti thể có kích thước giống các sinh vật
nhân nguyên thủy .
Câu hỏi 12: Nêu cơ chế dẫn truyền các chất qua màng ? Cho ví dụ
ATPATP

Trả lời
Qúa trình Con đường
Cơ chế vận
chuyển
ví dụ
1.Không đặc hiệu
+Sự khuếch tán

Trực tiếp

Sự vận chuyển


Sự vận chuyển của







+Sự thẩm thấu

+Nội thấm bào
(thực bào và ẩm
bào)


+Ngoại thấm bào

2.Đặc hiệu
+Sự khuếch tán
nhanh




+Bơm natri-kali



+Bơm proton






Trực tiếp

Túi màng




Túi màng


Kênh protein





Kênh protein



Kênh protein
ngẫu nhiên của
phân tử sẽ dẫn đến
sự di chuyển của
các phân tử theo

hướng đến vùng
có nồng độ thấp
hơn
Sự khuếch tán của
nước qua màng
Các chất được ấn
sâu vào màng rồi
được màng bao
quanh và tọa
thành một túi
Túi màng dung
hợp với màng sinh
chất và tống các
chất chứa ra ngoài

Phân tử được liên
kết với protein
trên màng và
được vận chuyển
qua màng theo
hướng có nồng độ
thấp nhất

Kênh protein tiêu
thụ năng lượng để
bơm ion Na+ ra
ngoài màng ngược
gradien nồng độ.
Kênh protein tiêu
thụ năng lượng để

bơm proton ra
ngoài màng ngược
oxi vào tế bào.




Khi đặt tế bào vào
trong nước cất
Sự tiêu hóa vi
khuẩn của bạch
cầu



Sự tiết chất nhầy


Sự vận chuyển
glucozo vào tế bào




Truyền xung thần
kinh



Trong quá trình hô

hấp ở ti thể,proton
được bơm từ chất
nền ra.


gradien nồng độ
Trên đây là một số câu hỏi hỏi để học sinh có thể ôn tập chương II ‘cấu trúc tế
bào “ SGK Sinh học 10.Gíao viên có thể tổ chức cho học sinh để dạy ôn tập.Vì
nội dung từng bài các em đã được học, các em có thể kết hợp các phiếu học tập
của mỗi bài và sử dụng để trả lời các câu hỏi ôn tập này. Ngoài ra để việc ôn tập
có hiệu quả cao, giáo viên nên kết hợp việc sử dụng sơ đồ tái hiện, vì trong
chương này khi sử dụng hình ảnh sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với dùng lời mô tả.
Đối với các câu 1,3,10 có thể áp dụng phương án một hỏi-một đáp
Đối với các câu 9,11 có thể áp dụng phương án một hỏi-nhiều đáp để thu
nhận nhiều cách diễn đạt khác nhau của học sinh
Đối với các câu 7,12…có thể áp dụng phương án tranh luận
III.HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Hệ thống các câu hỏi không những giúp đạt hiệu quả cao trong giảng dạy ôn
tập các chương, bài hay ôn thi tốt nghiệp mà bằng kỹ thuật hỏi đáp có thể
giúp giáo viên giảng dạy nội dung bài mới một cách hiệu quả. Học sinh hệ
thống hóa kiến thức đã học thông qua các câu hỏi mà giáo viên đưa ra,
những câu hỏi dễ, đơn giản các em có thể độc lập trả lời.Với những câu hỏi
khó phức tạp, các em có thể xây dựng theo nhóm, bàn luận thống nhất trả lời
câu hỏi. Cách học này giúp phát huy tính tích cực của học sinh, các em thấy
được tầm quan trọng của việc học từ đó hứng thú cao trong học tập. Đặc biệt
với những câu hỏi đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu kiến thức khoa học …giúp
học sinh say mê học hỏi. Tuy nhiên, phương pháp này không phải phù hợp
với mọi đối tượng học sinh, thường những học sinh khá giỏi sẽ thích thú thú
hơn những học sinh yếu kém.Vì vậy để dung hòa được với các đối tượng học
sinh khác nhau trong lớp học thì giáo viên linh động trong việc đặt câu hỏi

cho học sinh, và trong thời gian hạn chế của một tiết học trên lớp giáo viên
cần kết hợp phương pháp này với các phương pháp khác để có kết quả cao
trong giảng dạy.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Trong phạm vi đề tài này chúng tôi mới chỉ thiết kế một số dạng câu hỏi
giúp rèn luyện cho học sinh kỹ năng ôn tập. Điều này chắc chắn là chưa đầy đủ,
cần có sự nghiên cứu bổ sung.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×