DƯỚI BÓNG CÂY Ô MÔI
Nguyễn Thị Kim-Thu
Chúng tôi đang thả bộ, tay trong tay, trong khu phố sầm uất Oxford Circus ở
London. Đang mùa hè, trời khá nóng bức, chúng tôi thấm mệt vì đã hàng giờ
“window shopping”, cảm thấy đói, và định tìm một quán ăn trưa yên tịnh ở góc
phố. Trên đường đến đó, có một cặp vợ chồng gốc Á đông đi ngược chiều và nhìn
chúng tôi. Chúng tôi không để ý, vì khu phố danh tiếng thế giới này hàng năm có
hàng triệu du khách đủ mọi quốc gia đến du lịch mua sắm, hơn nữa lại gần khu phố
Tàu Soho thì việc gặp người gốc Hoa là chuyện bình thường. Khi qua mặt, chúng
tôi nghe họ thì thầm bằng tiếng Việt “Sao giống Kim-Thu quá”. Như vậy đúng là
người Việt, và có quen biết tôi. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, quay đầu lại nhìn.
Hai vợ chồng này cũng quay đầu nhìn chúng tôi. Tôi ngỡ ngàng, phải mất vài giây
mới thốt ra tiếng “Xin lỗi, có phải chị là Thu-Thủy không?”. Chị ta gật đầu. Thế là
chúng tôi ôm nhau, giữa phố đông người, mặc kệ hàng trăm con mắt nhìn chúng
tôi một cách lạ lùng. Tôi nhìn qua người chồng, tôi biết chắc là anh Việt, nhưng tôi
do dự không dám hỏi, vì tế nhị, sợ nếu lầm thì khó xữ. Thu-Thủy giới thiệu “Bộ
Kim-Thu không nhận ra anh Việt sao?”. Thế là tôi đã đoán đúng. Vợ chồng tôi mời
anh chị cùng đi ăn trưa, ở nơi vắng vẻ, có nhiều thời gian tâm sự.
Thu-Thủy, anh Việt và tôi ở cùng xóm. Tố Uyên, em gái anh Việt, Thu-Thủy
và tôi học chung một lớp suốt thời tiểu học, và 2 năm Đệ Thất Đệ Lục tại trường
nữ Đoàn Thị Điểm Cần Thơ. Tôi dời qua học trường Nông Lâm Súc ở lớp Đệ Ngũ,
còn Thu-Thủy và Tố-Uyên tiếp tục học cho tới Tú Tài 2, rồi vào Đại Học. Anh Việt
1
học trên chúng tôi hai lớp, cũng cùng trường tiểu học, nhưng lên trung học thì học
ở trường nam Phan Thanh Giản Cần Thơ.
Từ thời năm sáu tuổi, ba đứa gái chúng tôi thân lắm. Nhà Tố-Uyên có một
vườn rất lớn đủ các loại cây ăn trái, đặc biệt có một cây Ô-Môi mọc sát bờ sông.
Tố-Uyên thường mời chúng tôi đến nhà chơi hay học bài chung. Ba Má Tố Uyên
coi chúng tôi như con cháu, mỗi lần đến chơi hai bác đều bắt anh Việt dẫn chúng
tôi ra vườn hái trái cây ăn thỏa thích. Thời con nít thật ngây thơ và vui tươi.
Anh Việt học giỏi, tánh tình dạn dĩ, can trường, lúc nào cũng bao che bạn bè.
Một lần có hai đứa trai du côn xóm khác đến chọc phá nhóm bạn gái chúng tôi
đang vui chơi. Tố -Uyên bèn chạy về nhà mét anh, anh vội vã xăng tay áo chạy
đến, nhảy vào vòng chiến, một mình anh phải đánh lộn với hai đứa cùng tuổi. Nhờ
can đảm gan dạ anh cho hai đứa kia đo ván. Từ đó hai đứa du côn kia không còn
dám bén mảng đến xóm chúng tôi. Anh lúc nào cũng chứng tỏ là bậc đàn anh,
chăm sóc, hỏi han chúng tôi muốn ăn loại trái gì. Vườn nhà anh đủ các loại trái
cây, có trái chín quanh năm. Nào mận, khế, chùm ruột, mảng cầu, vú sửa, bòn bon,
ổi xá lị, măng cụt, xoài, chôm chôm, v.v. Đứa nào chọn thứ gì thì anh dẫn cả bọn
đến gốc cây đó, thoắt một cái anh đã leo tới gần ngọn, và còn hỏi là muốn trái nào
thì anh với tay hái trái đó. Có đứa muốn uống nước dừa xiêm, thế là anh leo lên
cây chọn buồng dừa ngon nhất, rồi dùng dao chặt dừa vừa phạm đến phần cơm
mỏng, thật khéo tay. Sau khi ăn no nê, chúng tôi kéo ra bờ sông, ngồi dưới bóng
cây ô-môi cổ thụ nói chuyện, chơi trò hay ôn bài.
Cây ô môi to lớn, một phần tàng cây rũ bóng xuống dòng sông, một phần
trên bờ. Đây là nơi lý tưởng để ngồi hóng mát, ngồi trên bờ bên gốc cây, chân đong
đưa dọc nước, nhìn dòng sông chảy êm đềm. Có khi nghịch ngợm, chúng tôi leo
lên cây, ngồi vắt vẽo. Ô Môi có bông màu hồng đậm, rực rở, mọc thành chùm vào
đầu hè, đẹp hơn bông phượng vĩ ở sân trường. Khi 5-6 tuổi, chưa biết e thẹn, vào
mùa hè nóng nực, chúng tôi thường nhảy xuống sông tắm. Chúng tôi nhờ anh Việt
leo lên cây, rung các cành đầy bông. Chùm bông ô môi rất dễ rụng, cả chùm lớn rớt
xuống dòng sông đang êm đềm chảy. Bông ô môi lềnh bềnh trôi từng đám khá lớn.
Chúng tôi cá nhau, lặn xuống và khi trồi lên, đầu đứa nào mang nhiều bông ô môi
trên mái tóc là đứa đó thắng, rồi cùng nhau cười nức nẽ. Chơi trò này chán, chúng
tôi vớt bông lên bờ, chọn những búp bông chưa nở, còn nhỏ và tròn, dùng kim chỉ
xỏ thành chùm dài như chuỗi ngọc màu hồng sậm đeo vào cổ, trông rất đẹp mắt.
Nếu muốn có chùm ngọc hình dạng khác thì có hạt cây gạo hay hạt cườm, và anh
Việt cũng là người tình nguyện đi hái.
2
Với cây ô môi, chúng tôi thích nhất là ăn chè hột ô môi và trò chơi đánh
búng. Nhưng hái được trái ô môi đã là điều khó đối với bọn gái chúng tôi, còn việc
róc võ trái ô môi lại càng khó hơn. Trái ô môi không rụng, dính mải trên cây cho
tới mùa bông trái năm sau. Dỉ nhiên, chỉ có anh Việt làm được chuyên này một
cách dễ dàng. Anh dùng lưởi hái gắn vào cây sào dài, leo lên cây, và khứa vào
cuống trái cho rụng. Vạc róc võ cũng cần khéo tay, vì võ cứng như gỗ, không cẫn
3
thật rất dễ đứt tay. Chúng tôi gỡ ra từng tấm tròn giống như đồng tiền để ăn, còn
hột cất dành chơi đánh búng. Hột ô môi hình thon thon như trái tim, cứng và quí
hơn hạt me trong trò chơi đánh búng.
Lớn hơn một chút, biết e thẹn, chúng tôi không còn tắm sông. Thay vào đó là
nấu chè ô môi. Hột ô môi phải ngâm nước trước một ngày, hột trương nỡ lớn gấp 3
lần, lột bỏ lớp võ là lớp cơm trắng dày như nhãn nhục, nhưng dai hơn, dai như cơm
trái dừa nước. Trong cùng là tim, ăn đắng, nên loại bỏ. Chè cơm hạt ô môi ăn rất
ngon, nhai sừng sực. Ôn bài xong là chè cũng vừa chín. Thật thú vị ngồi ăn dưới
bóng mát cây ô môi.
Khi vào trường Nông Lâm Súc, không còn ôn bài học chung, ngày nghỉ cuối
tuần lại bận công tác Thanh Thiếu Nông 4-T, nên tôi không còn sinh hoạt với các
bạn. Tôi chỉ biết là Thu-Thủy và anh Việt đã yêu nhau khi Thu-Thủy lên đệ nhị,
sau chục năm quen thân nhau trong tình bạn cùng sinh hoạt bên gốc cây ô môi. Sau
khi đỗ tú tài 2 năm 1967, anh Việt vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Còn
Thu-Thủy và Tố Uyên sau khi đỗ Tú Tài 2 lên Sài Gòn học ở Đại Học Sư Phạm
dạy đệ nhị cấp, Thu-Thủy theo ngành Anh Văn, còn Tố-Uyên ngành Văn Chương.
Tố-Uyên và anh Việt rất giỏi Việt Văn ở thời trung học. Một lần gặp nhau ở Sài
Gòn, Thu-Thủy tâm sự là hai người sẽ thành hôn khi tốt nghiệp Sư Phạm.
Sau khi tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lạt, với cấp bậc Thiếu Úy, anh Việt gia
nhập binh chủng nhảy dù. Là một sỉ quan dũng cảm, anh lập nhiều chiến công lẫy
lừng ở khắp mặt trận từ tây nguyên, miền Trung và đồng bằng miền Tây.
Thu-Thủy tốt nghiệp với hạng cao, nên chọn được trường dạy ở vùng Sài
Gòn năm 1972. Đang chuẩn bị nhờ người xem ngày lành tháng tốt cho lễ thành
hôn thì Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) xảy ra. Đơn vị của anh được không vận tới nhiều
chiến trường ở cao nguyên, rồi miền Trung để giải vây. Trận cuối cùng anh chiến
đấu là trận Đồi gió ở An Lộc vào giữa tháng 4/1972. Theo lời anh kễ, khi tôi đến
thăm lúc anh vừa giải ngũ và về Cần Thơ điều dưỡng bên cha mẹ. Sau gần một
tuần quần thảo với địch quân tại vùng suối Tàu Ô, thì đơn vị anh được trực thăng
vận đến tăng cường lực lượng bạn đang tử thủ ở Đồi Gió. Đây là điểm chốt chận
địch quân tấn công vào An Lộc. Bằng mọi giá, địch quân quyết tâm bứng căn cứ
này để tiến vào An Lộc, vì vậy trận chiến rất tàn khốc. Với chiến thuật “tiền pháo
hậu xung biển người” giữa hai bên có quân số chênh lệch, nhưng nhờ sự can
trường của đồng đội và tài thao lược của cấp chỉ huy, trong đó có anh, đã đẩy lui
được nhiều đợt biển người. Tiết kiệm từng viên đạn, từng hỏa tiễn M72 và tài bắn
rất chính xác, không một xe tank T54 nào leo lên tới lưng chừng đồi mà không bị
bốc cháy. Hàng ngàn quả đại bác của địch tới tấp nỗ vang ở đỉnh đồi, nơi đơn vị
anh đóng chốt ở các chiến hào phòng thủ. Không may, một quả pháo rớt gần chiến
4
hào, mảnh đạn trúng cỗ tay trái, một mảnh khác chui vào đùi. Mặc dầu bị thương,
anh vẫn chỉ huy chiến đấu sau khi tạm băng vết thương, dựa lưng vào thành giao
thông hào để chỉ huy. Chính đêm hôm bị thương đó, anh cùng các đồng đội trong
giao thông hào của anh còn sống sót, hay thương tích nhẹ, đã tiêu diệt 4 chiếc T54,
và chiến đấu tới đợt tấn công biển người thứ 16 vào trưa ngày hôm sau, thì anh kiệt
sức vì mất nhiều máu. Có lệnh rút lui về căn cứ Đồi 169. Đồng đội phải dìu anh
qua 2 km đường đồi, rừng rậm và sình lầy. Rồi phải chờ thêm 1 ngày nữa, khi áp
lực địch giảm mới có trực thăng đáp xuống để bốc anh và đồng đội bị thương
về Sài Gòn chửa trị. Không may cho anh, bàn tay bị nhiểm độc quá nặng, bác sỉ
quyết định cưa bỏ bàn tay trái của anh.
Trong thời gian binh lửa, Thu-Thủy lo âu vô cùng vì không nhận được tin
tức của anh, cho mải tới khi anh Việt được chở về điều trị ở bệnh viện quân đội Sài
Gòn. Chị xin nghĩ phép một tuần để nuôi anh, và sau đó, hết giờ dạy là chị ở bên
anh trong suốt thời gian điều trị.
Sau khi anh Việt lành vết thương, mất bàn tay trái và chân đi khập khểnh,
anh giải ngủ và về Cần Thơ sống bên cha mẹ. Vì mặc cảm tật nguyền, anh xin gia
đình bên Thu-Thủy hủy bỏ chuyện hôn nhân. Nhưng Thu-Thủy không chịu, khóc
lóc cùng anh, và khẳng định rằng dầu anh có thương tật gì đi nữa, nàng vẫn quyết
lấy anh. Nàng đã van lơn, an ủi, hứa hẹn một tương lai sáng lạng cho hai người,
nhưng anh vẫn không đổi ý, và bảo Thu-Thủy đừng tội nghiệp anh mà hư cả tương
lai, anh tật nguyền, không nghề nghiệp, làm sao có được một tương lai tốt đẹp.
Kiên trì thuyết phục, cuối cùng Thu-Thủy đã thắng, hai người thành hôn năm 1973.
Về Sài Gòn, Thu-Thủy thuyết phục anh ghi học Anh Văn Đại Học Văn Khoa, hy
vọng khi tốt nghiệp Cữ nhân Anh Văn thì anh chị sẽ mở lớp dạy Anh Văn tại nhà.
Mộng chưa thành, thì biến cố tháng 4/1975 xảy ra. May mắn, vào giờ thứ 25
của Sài Gòn, cấp chỉ huy trước đây của anh cho tài xế đến nhà hỏi anh chị có muốn
di tản cùng gia đình Ông không. Vội vã anh chị bồng cháu nhỏ lên xe mà chưa kịp
báo tin về nhà cha mẹ ở Cần Thơ.
Sau một thời gian, gia đình mới biết anh chị đã di tãn và định cư ở Florida.
Tôi được Tố-Uyên cho biết như vậy. Cho đến hôm gặp nhau ở London, sau hơn 36
năm, Thu-Thủy mới kễ cho tôi biết thêm sau khi đến định cư ở Hoa Kỳ. Thu-Thủy,
hy sinh, chỉ đi học nghề cắt tóc để mau có việc làm nuôi gia đình. Thu-Thủy bắt
anh vào học Đại Học ngành vi tính. Vài năm sau, anh tốt nghiệp và may mắn có
công ty ở địa phương mời anh làm về software. Anh chị có thêm cháu, tỗng cộng 2
trai một gái. Sau này chị làm chủ một tiệm nail, anh càng ngày được thăng chức
cao hơn, rồi các con khôn lớn, thành tài, hai cậu trai tốt nghiệp bác sỉ, cô gái là nha
sỉ. Bây giờ, hai anh chị về hưu, du lịch đây đó. Anh chị mời chúng tôi qua chơi
5