Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tình dục, trào lưu Friends With Benefits và sự đồng thuận trong tình dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.35 KB, 27 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MƠN TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH
Chủ đề: TÌNH DỤC, TRÀO LƯU FRIENDS WITH BENEFITS VÀ SỰ ĐỒNG
THUẬN TRONG TÌNH DỤC

Giảng viên phụ trách: TS Nguyễn Thị Tứ
Họ và tên sinh viên:

Đinh Nhật Thiên Thanh

Mã số sinh viên:

46.01.611.110

Mã HP:

PSYC103501

sdfsdfsf

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 01 năm 2023


2

MỤC LỤC



ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................................4
A.

TÌNH DỤC..............................................................................................................5
1.

ĐỊNH NGHĨA TÌNH DỤC................................................................................5

2.

VAI TRỊ CỦA TÌNH DỤC...............................................................................6

3.

ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC................................................................7

B.

a.

Đặc điểm chung...............................................................................................7

b.

Tính tâm lý của tình dục..................................................................................8

c.

Tính xã hội của tình dục................................................................................10


TRÀO LƯU FRIENDS WITH BENEFITS.......................................................11
4.

TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN...........................................................................11
a.

Tìm hiểu về FWB..........................................................................................11

b.

Thực tế về FWB............................................................................................13

5.

BÀI HỌC..........................................................................................................15
a.

Bài học cho bản thân.....................................................................................15

b.

Bài học ứng dụng cho công tác tham vấn các vấn đề liên quan đến giới tính
16

C.

SỰ ĐỒNG THUẬN TRONG TÌNH DỤC.........................................................18
6.


TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN...........................................................................18
a)

Tìm hiểu về sự đồng thuận trong tình dục (sexual content)..........................18

b)

Tình huống tâm lý.........................................................................................20


3

7.

PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN......................................................................20

8.

BIỆN PHÁP ĐỀ XUẤT...................................................................................22

KẾT LUẬN...................................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................25


4

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với nhiều người, tình dục vẫn cịn là một vấn đề nhạy cảm và ít được đề cập.
Vấn đề giáo dục giới tính cũng vậy. Đã có nhiều khảo sát về giáo dục giới tính ở các
trường trung học phổ thông và đại học, kết quả cho thấy một bộ phận lớn giới trẻ hiện

nay chưa thực sự hiểu rõ về các vấn đề giới tính. Nhiều em thậm chí cịn chưa biết đến
tình dục an tồn. Thực tế, giáo dục giới tính khơng chỉ nói về vấn đề tình dục. Đó cịn
là những thường thức trong đời sống như tâm lý giới tính, các hiện tượng tâm lý giới
tính, quan điểm về giới tính, vai trị giới, đạo đức, ứng xử,… Việc không nhận được
những kiến thức cần thiết về giới tính đã để lại nhiều hệ lụy, điển hình như những tư
tưởng sai lệch về tình dục: đồng tính luyến ái là bệnh lý, con người kết hơn vì tình dục,
nam giới ln sẵn sàng quan hệ tình dục, nữ giới ln phải thỏa mãn nam giới trong
mối quan hệ hơn nhân vì đó là nghĩa vụ hay tình dục chỉ là một hoạt động mang tính
sinh lý,… Tư tưởng tình dục chỉ là một hoạt động mang tính sinh lý đã khởi nguồn cho
nhiều trào lưu không lành mạnh: trào lưu FWB hay ONS; trào lưu của các mối quan hệ
chỉ có tình dục khơng có tình cảm – các mối quan hệ ngắn hạn, không cam kết (casual
dating); mại dâm biến tướng (sugar daddy, sugar baby). Nhận thức được những tư
tưởng lệch lạc về tình dục cịn tồn tại rất nhiều, người làm tiểu luận quyết định thực
hiện đề tài: “Tình dục, trào lưu FWB và sự đồng thuận trong tình dục.”


5

A. TÌNH DỤC
1. ĐỊNH NGHĨA TÌNH DỤC
Tâm lý là tồn bộ những hiện tượng tinh thần diễn ra trong não người. Trong đời
sống tâm lý con người, có một hiện tượng tâm lý đặc biệt được gọi là hiện tượng tâm lý
giới tính, mang những sắc thái riêng của mỗi giới như hiện tượng thụ thai, kinh nguyệt,
… và những biểu hiện đặc trưng của chúng, thể hiện qua tình u, hơn nhân, đời sống
gia đình… Một trong những hiện tượng tâm lý giới tính đặc trưng là tình dục. Cần lưu
ý là những khác biệt về sinh lý ở nam và nữ sẽ dẫn đến những khác biệt về tâm lý giới
tính ở hai giới.
Cũng như những hiện tượng tâm lý giới tính khác, tình dục có ba bản chất. Đầu tiên
là bản chất tự nhiên. Tình dục có nguồn gốc tự nhiên, là một chức năng của hệ cơ quan
sinh dục. Thứ hai là bản chất xã hội. Tình dục chịu sự chi phối của các điều kiện xã hội

như là kinh tế, chính trị, văn hóa… Có thể thấy rất rõ định nghĩa về tình dục bị chi phối
như thế nào khi xét về khu vực: người Á Đơng tương đối bảo thủ, cịn người phương
Tây thì rất thống về những vấn đề tình dục. Thứ ba là bản chất tâm lý. Tình dục có sự
tương tác với các hiện tượng tâm lý khác: nhận thức, tình cảm, ý chí… Nếu hai cá nhân
có tình cảm với nhau từ trước thì khả năng hành vi tình dục xuất hiện ở hai cá nhân đó
sẽ cao hơn so với hai cá nhân là người xa lạ.
Tình dục là một biểu hiện điển hình của đời sống tính dục. Nhìn chung, dưới tác
động của các yếu tố xã hội khác như tôn giáo, phong tục tập quán, hay tùy theo giai
đoạn lịch sử,... tình dục thường được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Các nước Á
Đơng nhìn nhận chuyện tình dục khắt khe hơn hẳn so với phương Tây: họ thường xem
đó là một vấn đề rất tế nhị cũng như đánh giá những chuyện về tình dục rất khắt khe,
thành kiến. Về bản chất, tình dục sẽ có nhiều định nghĩa và giá trị khác nhau dựa trên
hệ giá trị cá nhân của mỗi người. Định nghĩa về “tình dục” có thể thay đổi và mở rộng
theo thời gian khi trải qua các sự kiện trong cuộc sống. Còn theo quan điểm khoa học,


6

tình dục thường được hiểu như là những rung cảm đặc biệt nảy sinh ở con người.
Những rung cảm tình dục thường nảy sinh khi một cá nhân đến tuổi dậy thì, thường
được biểu hiện qua những hành vi như hôn, âu yếm, vuốt ve hay là ôm,… Xét về mặt
sinh lý, tình dục nói chung và những rung cảm tình dục hay hành vi tình dục nói riêng
xuất hiện do hoạt động của hệ cơ quan sinh dục. Tình dục là một chức năng đặc biệt
của hệ cơ quan sinh dục, đồng thời cũng là là nhu cầu bình thường của một cá nhân
khỏe mạnh.
2. VAI TRỊ CỦA TÌNH DỤC
Tình dục có ý nghĩa quan trọng với việc đảm bảo cho sự sinh tồn của giống lồi.
Tình dục tạo nên sự sinh sản, tạo nên các thế hệ kế tiếp của loài người (Alexander &
Noonan, 1979). Từ độ tuổi trưởng thành, bản năng tình dục dẫn tới những hoạt động
tình dục, nhờ đó tạo nên sự cân bằng hài hồ cho sự phát triển tâm sinh lí cơ thể. Đến

độ tuổi nhất định, nếu một cá nhân khơng có những sinh hoạt tình dục thích hợp, việc
mất cân bằng tâm sinh lý có thể diễn ra và dẫn đến hậu quả là sự phát triển khơng bình
thường về mặt tính cách hoặc sinh lí cơ thể. Từ độ tuổi trưởng thành trở đi, đặc biệt là
sau khi kết hôn, tình dục trở thành một nhu cầu có tính quy luật trong đời sống con
người, tạo nên sự hài hoà về đời sống tâm lí, sự cân bằng và khoẻ mạnh về sinh lí cơ
thể. Sinh hoạt tình dục trong các mối quan hệ cũng góp phần làm tăng sự gắn bó tình
cảm với bạn đời (Birnbaum & Finkel, 2015). Ngồi ra, tình dục cũng mang lại nhiều
lợi ích sức khỏe như là giảm huyết áp (Brody, 2006), tăng mức độ miễn dịch
(Charnetski & Brennan, 2004), giảm nguy cơ đau tim (Ebrahim và cộng sự, 2002),
giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt (Leitzmann, 2004).
Song song với những lợi ích tình dục mang lại, tình dục cũng có những mặt trái.
Quan điểm lệch lạc hay góc nhìn sai lệch về tình dục có thể dẫn đến những rối loạn tâm
lý như ái tử thi, thị dâm, phô dâm,… Lạm dụng tình dục có thể dẫn đến tệ nạn xã hội
như là mại dâm, nạo phá thai bừa bãi,… hoặc chi phối con người làm ra những hành


7

động vi phạm pháp luật, trái với đạo đức: xâm hại tình dục, hành vi ấu dâm,... Khơng
chỉ riêng tình dục mà mọi vấn đề ln có hai mặt. Vì vậy, mỗi cá nhân cần có sự cẩn
trọng trong các hành vi tình dục và cần có ý thức về tình dục an tồn.
3. ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC
a. Đặc điểm chung
Tình dục là một hiện tượng tâm sinh lý phức tạp và chịu chi phối bởi nhiều hiện
tượng tâm lý khác như đã có đề cập ở trên. Tình dục là một bản năng mà mỗi cá nhân
đều có. Sau khi dậy thì một thời gian, tùy vào tình trạng thể chất mà sẽ xuất hiện nhu
cầu tình dục theo chu kì. Những nhu cầu mang tính bản năng về tình dục xuất hiện
song song với những hành vi tình dục, hay có thể nói chính nhu cầu tình dục đã trở
thành động lực thúc đẩy cho các hành vi tình dục.
Dù cho có nhiều điểm khác nhau giữa nam và nữ, tình dục được biểu hiện chủ yếu

theo mức độ chung như sau (Bùi Ngọc Oánh, 2006):
-

Mức độ “rung cảm bên trong”: xuất hiện dưới dạng những cảm xúc nằm ở phần
ý thức hoặc tiền ý thức. Đây là mức độ “cơ bản” nhất của đời sống tình dục,
thường được gọi là “rung cảm tình dục”.

-

Mức độ “hành vi bên ngoài”: xuất hiện khi những rung cảm tình dục trở nên
mạnh mẽ và chính những rung cảm này trở thành một yếu tố thúc đẩy hành vi
tình dục. Cá nhân có khả năng kiềm chế những hành vi tình dục của mình.

-

Mức độ “hành vi bên trong”: xuất hiện khi những rung cảm trở nên mạnh mẽ
hơn, cá nhân khó có thể kiềm chế những hành vi tình dục với đối tượng.

-

Mức độ “hành vi sâu sắc”, những hành vi tình dục bị chi phối bởi những cảm
xúc, ham muốn. Cá nhân nảy sinh nhu cầu về mặt tình dục và dẫn đến “hành vi
giao hợp” của con người.


8

Sự phân chia các mức độ chỉ mang tính tương đối. Có thể hiểu những mức độ này
như những hình thức khác nhau trong đời sống tình dục của con người. Ngày nay trong
xã hội, nhiều người thường sử dụng khái niệm “tình dục” theo nghĩa ở mức độ “hành vi

sâu sắc”. Trên thực tế, một mối quan hệ không nhất thiết phải theo đúng trình tự như đã
liệt kê.
Nhà thần kinh học Karl Pribram (1958) mơ tả tình dục như là 1 trong 4 động cơ
chính của con người. Theo Pribram, ăn, chiến đấu, chạy trốn và tình dục là 4 động cơ
chính dẫn đường cho suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của con người. Các yếu tố ảnh
hưởng đến khái niệm tình dục được phân loại thành các yếu tố sinh học, tâm lý và xã
hội. Trong phạm trù các yếu tố sinh học, người ta đề cập đến giới tính, tuổi, chủng tộc,
khuyết tật và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Trong phạm trù tâm lý, người ta
đề cập đến tác động của hình ảnh cơ thể, sự lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu và tiền
sử sức khỏe tâm thần và các yếu tố khác. Cuối cùng, trong phạm trù xã hội, người ta đề
cập về vai trò của cha mẹ, bạn đồng trang lứa và truyền thơng.
b. Tính tâm lý của tình dục
Yếu tố tâm lý tuy khơng hữu hình nhưng vẫn đóng vai trị chủ đạo trong trải
nghiệm của con người. Yếu tố tâm lý là những yếu tố hình thành trong tâm trí, thường
được gọi là suy nghĩ. Chúng cũng có thể là những khái niệm trừu tượng khác, như đau
đớn hay trầm cảm. Trầm cảm và lo âu là một số yếu tố tâm lý phổ biến nhất ảnh hưởng
đến nhận thức do trầm cảm khiến cá nhân có những cách hiểu tiêu cực hơn về thế giới.
Các đặc điểm chính của các yếu tố tâm lý liên quan đến các khía cạnh trong lối sống
của một người, như cơng việc, stress hay những đặc điểm tính cách.
Có nhiều yếu tố tâm lý khác nhau trong tình dục: ý thức, vơ thức, cảm xúc, nhận
thức,… cũng như có sự xuất hiện của tất cả những gì có liên quan với đời sống trí tuệ
và tình cảm của con người, dù có được nhận biết hay khơng. Người ta đã chứng minh
rằng các yếu tố tâm lý đóng một vai trị quan trọng trong tình dục (Carvalho & Nobre,


9

2011). Mặc dù sự đóng góp tương đối của các yếu tố này vẫn chưa được xác định,
nhưng nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng các yếu tố tâm lý đóng vai trị trung tâm trong
ham muốn tình dục (Carvalho & Nobre, 2011). Các yếu tố tâm lý cơ bản khác nhau có

liên quan đến sự thay đổi ham muốn tình dục của mỗi cá nhân. Ở các lồi động vật
khác, ta đã thấy có các yếu tố tâm lý ấy trong đời sống tính dục của chúng: cử chỉ âu
yếm, sự ve vãn,… và chúng thể hiện những yếu tố tâm lý đó gần như là bản năng: Khi
đến mùa giao phối, cá sấu đực sẽ tiếp cận con cái và cọ xát, vuốt ve vào lưng, thổi
bong bóng nhẹ nhàng vào má con cái hay bơi xung quanh để tạo sự chú ý; chim cơng
đực xịe đi để mời gọi con cái; vũ điệu giao phối của chim Manakin,… Còn ở con
người, những yếu tố tâm lý phát triển tới trình độ cao.
Các nhà tâm lý đã đúc kết được rất nhiều loại nhu cầu tâm lý, nhưng có thể đơn
giản nó vào 4 nhóm gồm nhu cầu an tồn, nhu cầu được tơn trọng, nhu cầu tự do ý chí
và nhu cầu kết nối. Tình dục là phương tiện con người dùng để thỏa mãn những nhu
cầu tâm lý này. Mặt khác, nhu cầu tâm lý khơng được đáp ứng trong một thời gian dài
sẽ có ảnh hưởng nhất định lên thể chất và tâm lý. Con người phát triển chứng loạn thần
kinh, nghiện ngập và thậm chí là ảo tưởng để được đáp ứng nhu cầu của họ. Tuy nhiên,
khơng ai lại tự sát vì quá khao khát tình dục. Nhưng, họ sẽ làm điều đó vì cơ độc hay bị
khinh rẻ. Các nghiên cứu đã báo cáo mối liên hệ tiêu cực giữa sự thỏa mãn tình dục và
một số rối loạn cảm xúc, trầm cảm (Peleg-Sagy & Shahar, 2012), lo âu xã hội
(Kashdan và cộng sự, 2011) và chứng rối loạn cảm xúc (Scimeca và cộng sự, 2013).
Các yếu tố sinh học (thể chất) và các yếu tố tâm lý (bao hàm cả văn hóa xã hội, vì
như G. Devereux nói, tâm lý là sự phóng chiếu văn hóa vào nội tâm con người) thường
nằm trong một tổng thể, không thể tách khỏi nhau mà thâm nhập nhau trong liên hệ
tính dục của con người. Phần lớn, về mặt tâm lý, tầm quan trọng của tình dục đối với
nữ giới và nam giới là khác nhau, đó là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra
mâu thuẫn giữa hai giới trong một mối quan hệ.


10

c. Tính xã hội của tình dục
Yếu tố xã hội bao gồm các yếu tố chung ở cấp độ xã hội loài người liên quan đến
cấu trúc xã hội và các quá trình xã hội ảnh hưởng đến cá nhân. Yếu tố tâm lý đã được

nhắc đến ở trên. Đôi khi, những từ này được kết hợp thành "tâm lý xã hội". Đây là từ
viết tắt của sự kết hợp giữa tâm lý và xã hội, nhưng nó cũng ngụ ý rằng tác động của
các q trình xã hội đơi khi được trung gian thông qua sự hiểu biết tâm lý. Con người
là những sinh vật xã hội, phụ thuộc vào sự tiếp xúc thường xuyên với cha mẹ, anh chị
em, bạn đồng trang lứa hay vợ/chồng và những người khác để được thoải mái, được hỗ
trợ và có được những mối quan hệ thân thiết. Tất cả chúng ta đều có nhu cầu bẩm sinh
về tình u, sự chấp nhận, sự cơng nhận và sự kết nối. Vì vậy, một số người tham gia
vào các hoạt động tình dục để thốt khỏi cảm giác tự ti, lo lắng, cơ đơn, buồn bã,...
Thực tế, tình dục ở mỗi người bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cả gia đình và văn hóa dù
theo hướng tốt hay xấu. Ví dụ, văn hóa phương Tây thì khá cởi mở trong chuyện tình
dục, cịn văn hóa phương Đơng thì khơng. Dù ở đâu, thuộc chủng tộc nào, có nền văn
hóa nào, ở bất kỳ lứa tuổi nào, mỗi người đều có những cảm xúc mạnh mẽ gắn với
người nào đó trong cuộc đời. Đó là cha mẹ khi cịn nhỏ, sau đó dần chuyển sang người
u. Cần lưu ý rằng, tình dục có thể là kết tinh của tình u, nhưng tình u khơng chỉ
giới hạn ở tình dục. Nó cịn là một cái gì rộng lớn hơn, cao hơn, sâu hơn rất nhiều. Biểu
hiện tâm lý đặc trưng của tình yêu là quan hệ “cho” và “nhận” của hai cá nhân, trong
đó “cho” tức là “nhận”, “cho” càng nhiều thì “nhận” sẽ càng nhiều, “cho” và “nhận”
hòa thành một, đến mức “hiến tất cả” cũng là “được tất cả”.
Và điều đó khơng chỉ ở liên hệ tình dục mà chủ yếu là ở tâm hồn, ở các lĩnh vực đời
sống cá nhân khác. Trừ những trường hợp cưỡng dâm (do bạo lực) hay ép buộc (do tập
quán) ra, con người bao giờ cũng muốn tự mình lựa chọn “đối tác tình dục”. Ðời sống
tinh thần và văn hóa càng phát triển, sự lựa chọn đối tác tính dục càng cá thể hóa. Đời
sống tình dục ở con người thường có quan hệ mật thiết với đời sống tâm lí, xã hội, chịu


11

sự chi phối của tâm lí, xã hội, đặc biệt là tình u và hơn nhân. Những điều đó nói ngắn
gọn là tính xã hội và tính tâm lí của tình dục.
Trong đời sống giới tính, biểu hiện về mặt tình dục giữa nam và nữ có nhiều điểm

khác nhau, chủ yếu ở khía cạnh về rung cảm tình dục. Ở nam, rung cảm tình dục
thường xuất hiện từ nhu cầu sinh lý, dễ bộc lộ và dễ được thỏa mãn. Cịn ở nữ, rung
cảm tình dục của người nữ thường gắn bó rất chặt chẽ với các yếu tố tâm lý như tình
cảm, tình yêu. So với nam thì nữ cũng khó thỏa mãn các rung cảm tình dục hơn, và
những rung cảm này cũng chịu chi phối nhiều bởi các yếu tố ngoại cảnh.
B. TRÀO LƯU FRIENDS WITH BENEFITS
4. TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
a. Tìm hiểu về FWB
Friends with benefits (FWB) là cụm danh từ mang nghĩa: “mối quan hệ bạn bè dựa
trên lợi ích”, và từ “lợi ích” được hiểu ngầm là về mặt tình dục. FWB chỉ một mối quan
hệ không cam kết, tức là hai đối tác trong mối quan hệ có thể có các hành vi tình dục
với nhau nhưng khơng có gắn kết tình cảm hay ràng buộc trách nhiệm. Điều này đi
ngược lại với truyền thống là các mối quan hệ phải dựa trên nền tảng tình cảm. Khi là
FWB, hai đối tác vẫn cư xử như những người bạn khi gặp nhau ở ngồi. Nói ngắn gọn,
FWB được đặc trưng bởi (a) sự thân mật tình dục về mặt tình dục, (b) tình bạn, và (c)
thỏa thuận giữa những đối tác để tránh cam kết về mối quan hệ lãng mạn chính thức
(Bisson & Levine, 2009; Hughes et al., 2005; Lehmiller, VanderDrift, & Kelly, 2011;
Owen & Fincham, 2011). Nếu mức độ gắn bó giữa hai người là một chiếc thang, thì
bậc dưới cùng sẽ là tình một đêm (one-night-stand, ONS), và bậc trên cùng là bạn đời.
FWB là một khoảng lưng chừng ở giữa. Theo một khảo sát tại Mỹ, chỉ 10 - 15% các
mối quan hệ FWB trở thành mối quan hệ tình cảm chính thức.
FWB có nguồn gốc từ lời bài hát “Head Over Feet” của ca sĩ Alanis Morissette.
Theo bối cảnh bài hát, nữ ca sĩ xem người yêu như một người bạn tri kỉ của mình:


12

“You're my best friend/Best friend with benefits”. Tới năm 2011, sau khi hai bộ phim
Friends with Benefits và No Strings Attached cùng ra mắt, cơng chúng bắt đầu nói
nhiều hơn về những mối quan hệ không cam kết. Các tài liệu hiện có chứng minh rằng

khoảng 50% đến 60% thanh niên đã tham gia vào ít nhất một mối quan hệ FWB trong
đời (Bisson & Levine, 2009; Hughes, Morrison, & Asada, 2005; Puentes, Knox, &
Zusman, 2008); bao gồm cả thanh thiếu niên ở độ tuổi 14 (Chernin, Rich, & Shing,
2010). Giới trẻ có thể tìm FWB bằng rất nhiều cách, từ các ứng dụng mạng xã hội như
Zalo, Facebook, Telegram; các ứng dụng hẹn hò như Tinder, Fika cho đến các mạng
lưới mối quan hệ trong cuộc sống.
Ở Việt Nam thường chỉ có những dạng mối quan hệ như đang tìm hiểu, hẹn hị, kết
hơn và chia tay. Cộng đồng Mỹ chia hẹn hò làm hai hướng: casual dating (hẹn hò ngắn
hạn) và committed relationship (hẹn hò dài hạn, nghiêm túc và cam kết). FWB thuộc
kiểu thứ nhất. Lợi ích thường thấy nhất của FWB là về tình dục, đặc biệt là với đối tác
đáng tin cậy, tạo cảm giác thoải mái và an toàn, đồng thời tránh các mối quan hệ cam
kết (Bisson & Levine, 2009; Weaver và cộng sự, 2011). Những người tham gia vào
FWB có nhiều khả năng coi chủ nghĩa khoái lạc (nghĩa là tập trung vào niềm vui hơn là
mối quan hệ) như một giá trị trong cuộc sống (Puentes và cộng sự, 2008; Richey,
Knox, & Zusman, 2009). Weaver và cộng sự. (2011) đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về
hai lý do biện minh cho việc né tránh mối quan hệ cam kết. Thứ nhất, các đối tác có
mong muốn thốt khỏi những trở ngại liên quan đến nó, chẳng hạn như scandal, sự
phức tạp, lo lắng, sự tổn thương và “ sự lộn xộn” (Weaver và cộng sự, p. 46). Thứ hai,
họ có mong muốn theo đuổi tự do, không bị hạn chế, có cơ hội thử nghiệm.
Cần lưu ý đến những yếu tố phải có ở một mối quan hệ FWB:
- Cả 2 đều đã trưởng thành, độc lập về tài chính, có thể tự quyết định về cuộc sống
của chính mình và quan trọng là đang không trong mối quan hệ cam kết với bất kì ai.


13

Nếu đang trong mối quan hệ hẹn hị hay hơn nhân mà đi tìm FWB thì hành vi đó đồng
nghĩa với ngoại tình.
- Khơng địi hỏi ở đối tác bất cứ điều gì về cam kết như là về tương lai hay hơn
nhân. Tuy vậy, giữa hai người vẫn có sự thân mật giữa bạn bè, chỉ là không xuất hiện

tình yêu.
b. Thực tế về FWB
Fischtein và cộng sự (2007) báo cáo rằng phần lớn nam giới (55%) so với đại đa số
phụ nữ (8%) sẽ có ý nghĩ về tình dục với người mà họ mới gặp. Về hành vi thực tế của
thanh thiếu niên, Manning và cộng sự (2006) phát hiện ra rằng nhiều nam sinh (68%)
hơn nữ sinh (52%) từng có trải nghiệm về tình dục nhưng khơng hẹn hị. Đối với mối
quan hệ FWB nói riêng, sự khác biệt về giới tính trong tỷ lệ phổ biến cũng đã được báo
cáo: 54% nam giới và 43% nữ giới cho biết họ từng có hoặc đang trong những mối
quan hệ như vậy (Owen & Fincham, 2011). Liên quan đến lý do tham gia vào các mối
quan hệ FWB, những nghiên cứu chỉ ra rằng nam giới chủ yếu muốn và coi trọng tình
dục hơn trong khi phụ nữ thường nhấn mạnh vào những kết nối cảm xúc (Lehmiller và
cộng sự, 2011; McGinty và cộng sự, 2007).
Việc có nên bắt đầu mối quan hệ FWB hay khơng cịn tùy thuộc vào quan điểm
cũng như suy nghĩ của mỗi người. Trước đây nhiều người cho rằng, mối quan hệ này
khơng giống với truyền thống là từ tình cảm tuần tự đi lên cho nên những mối quan hệ
FWB bị phản đối khá gay gắt. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, ở các nước Phương
Tây vấn đề này đã trở nên thoáng hơn rất nhiều. Nếu là người theo chủ nghĩa độc thân
và khơng có nhu cầu hơn nhân hay gắn bó, FWB chính là lựa chọn tốt vì đem đến mối
quan hệ khơng có bất cứ cam kết hay ràng buộc gì. Cần lưu ý rằng, FWB khơng phù
hợp với những người có quan niệm yêu đương truyền thống bởi họ sẽ khơng thích sự
lấp lửng của các mối quan hệ FWB.


14

Có nhiều trường hợp khó giải quyết đã xảy ra xung quanh những mối quan hệ
FWB:
Chị N. (22 tuổi), lỡ có tình cảm với đối tác FWB. Trong một lần quan hệ tình dục,
chị chiều ý đối tác là quan hệ khơng dùng biện pháp an tồn và sau đó có thai. Là sinh
viên năm cuối, chị rất trăn trở và không biết cách giải quyết chuyện này như thế nào.

Chị rất buồn khi lỡ mang thai với người không hề có mối quan hệ ràng buộc mà chỉ tìm
đến chị để giải tỏa sự cơ đơn, và vì chị lỡ có tình cảm với anh nhưng đối phương thì
dửng dưng và chỉ đến vì tình dục.
Chị Hân có mối quan hệ FWB với một người cùng khu căn hộ gần 3 năm. Khoảng
hai năm trước, đối tác của chị tán tỉnh một cô gái khác và sau hơn một năm họ quen
nhau. Trong q trình theo đuổi cơ gái thì hai người vẫn giữ mối quan hệ FWB. Sau
khi đối tác và cơ gái kia hẹn hị, chị Hân và đối tác chấm dứt việc làm FWB, tuy nhiên
khi mối quan hệ giữa anh và bạn gái rạn nứt, anh lại tìm đến chị và muốn tiếp tục làm
FWB. Sau đó, chị yêu cầu đối tác chia tay bạn gái và công khai với chị nhưng anh từ
chối do anh chỉ muốn thỏa mãn nhu cầu tình dục và chỉ nghiêm túc với cô bạn gái hiện
tại. Hiện tại, chị đang không biết nên từ bỏ mối quan hệ này hay nên tiếp tục làm FWB
với đối tác, vì chị đã có tình cảm với anh.
Anh Hồng Kim Biên đã quen bạn gái được 1 năm. Sau đó, anh vơ tình phát hiện
bạn gái từng sử dụng các ứng dụng hẹn hị và đã từng có mối quan hệ FWB với nhiều
đối tác. Anh cảm thấy rất sốc, và anh cho biết vẫn còn thương bạn gái nhưng trong đầu
anh lại hay bị ám ảnh về chuyện đó. Bản thân anh chấp nhận chuyện người yêu từng
yêu nhiều người nhưng lại không thể chấp nhận được những mối quan hệ tình dục thời
vụ như là FWB, ONS. Anh rất đau khổ và không biết nên xử lý như thế nào.
Một bạn nữ giấu tên ở TP.HCM chia sẻ: “Với tơi, tình dục là khởi đầu của mọi thứ
và là một nhu cầu rất con người. Tơi khơng nhìn thấy mục đích trong việc đầu tư vào
một mối quan hệ “đoản mệnh” như FWB. Tôi không muốn bước vào một cuộc tình nơi


15

mọi tiềm năng gắn bó đều bị triệt tiêu. Quan hệ FWB là mối quan hệ xác thịt không
cần cảm xúc. Nhưng cứ tiếp tục như vậy, tôi cảm nhận rằng dần dần tôi bị chai sạn về
cảm xúc và mất niềm tin vào tình u đích thực.”
Khi những mối quan hệ hẹn hò ngắn hạn ngày càng phổ biến, mọi người càng gạt đi
những yếu tố lãng mạn vốn có giữa việc chọn bạn tình. Khi hai đối tác bước vào một

mối quan hệ FWB với tâm thế không ràng buộc, chỉ bạn không yêu, chỉ kết nối về thể
xác chứ khơng có kết nối về tinh thần, vậy cảm xúc của hai bên nằm ở đâu trong những
trải nghiệm này?
Trào lưu FWB có thể kéo theo nhiều hệ lụy. Trước hết FWB có thể bị hiểu sai, bị
biến tướng và trở thành một hình thức trá hình của tệ nạn mại dâm. Thứ hai, quan hệ
FWB là quan hệ khơng danh phận. Các đối tác khơng là gì của nhau trên danh nghĩa
ngồi tình bạn và vì vậy, khơng có tương lai, khơng có sự cam kết, khơng có sự gắn bó
thân mật giữa hai bên. Lâu dần, những người có mối quan hệ FWB có thể sẽ đánh mất
đi cảm xúc của chính mình và sự tin tưởng vào tình u đích thực. FWB ảnh hưởng
đến tư tưởng về tình u và tình dục, vì FWB góp phần tạo nên nếp tư tưởng không coi
trọng hôn nhân. Việc có nhiều mối quan hệ FWB có nhiều khả năng ảnh hưởng đến
sức khỏe tâm lý và thể lý: cảm giác hối hận, tội lỗi; nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây
qua đường tình dục (lậu, giang mai, sùi mào gà,…), hay tệ hơn là dẫn đến việc quan hệ
tình dục bừa bãi, mang thai ngồi ý muốn,…
5. BÀI HỌC
a. Bài học cho bản thân
Theo tháp nhu cầu của Maslow, nhu cầu về xã hội, tức là nhu cầu về tình cảm, về
các mối quan hệ đứng hàng thứ ba. FWB – một mối quan hệ tình dục khơng tình u
thì khơng thể thỏa mãn nhu cầu được kết nối và thấu hiểu của mỗi cá nhân. Việc tìm
FWB chỉ là một giải pháp ngắn hạn cho nhu cầu sâu thẳm và xa xưa nhất của con
người, và một nghịch lý là thỏa mãn những nhu cầu đó một cách khơng đầy đủ thì nhu


16

cầu đó sẽ ngày càng lớn. Vì rất nhiều ngun do cả chủ quan lẫn khách quan mà một số
người sau khi trải qua mối quan hệ FWB không đạt được kết quả như mong đợi.
Không tôn trọng luật chơi, ln tìm cách thử thách, phá vỡ những quy tắc đã đặt ra, bị
cảm xúc chi phối, lấn át chính là khởi nguồn của đa số bi kịch FWB hiện nay. Kết cục
thường là khơng thể tìm đường thốt ra, mãi mãi giam cầm bản thân trong một thứ

quan hệ nửa nạc nửa mỡ - không phải yêu đương mặn nồng cũng không phải bạn bè
thân thiết, ghen không được mà buông bỏ cũng chẳng xong.
Hội nhập là điều cần thiết và tất yếu. Theo tiêu chí hịa nhập chứ khơng hịa tan, thì
cần chú ý đến việc tiếp thu những điều tốt đẹp và bài trừ những điều chưa tốt theo tiêu
chuẩn đạo đức của người Việt Nam. FWB trong mơi trường với tư tưởng thống như
Mỹ thì có thể phù hợp, nhưng ở Việt Nam thì cũng cịn nhiều hạn chế (do giáo dục giới
tính ở Việt Nam chưa được chú trọng, thậm chí nhiều người cịn khơng sử dụng biện
pháp an toàn để tránh thai); và việc có ủng hộ FWB hay khơng cũng tùy vào hệ giá trị,
hệ tư tưởng của mỗi người (chủ nghĩa độc thân, chủ nghĩa khối lạc, chủ nghĩa tình u
đích thực,…).
Từ những điều trên, em nghĩ mình cần phải sáng suốt, nghiêm khắc với bản thân
mình, có chừng mực trong các mối quan hệ. Cần có tư tưởng đúng đắn về tình u, hơn
nhân. Trước khi bắt đầu một mối quan hệ cam kết, cần có sự cân nhắc kỹ càng về vị trí
của đối phương. Điều cần thiết hơn nữa là phải tôn trọng giá trị người khác và của
chính mình, sống có trách nhiệm.
b. Bài học ứng dụng cho công tác tham vấn các vấn đề liên quan đến giới tính
Phù hợp với vai trị giới tính truyền thống, đàn ơng có nhiều khả năng tìm kiếm tình
dục khơng cam kết và sự thõa mãn về tình dục hơn phụ nữ. “Tiêu chuẩn kép” truyền
thống đã được mô tả “như một tiêu chuẩn xã hội quy định, trong đó phụ nữ chỉ được
phép quan hệ tình dục trong một mối quan hệ yêu đương đã cam kết, trong khi đàn ơng
được phép có bao nhiêu bạn tình tùy thích mà không cần điều kiện”. Nghiên cứu chỉ ra


17

rằng có sự phân bổ khơng cân xứng giữa cái giá phải trả và lợi ích giữa nam giới và nữ
giới khi quan hệ tình dục trong những lần hẹn hò ngắn hạn (Eshbaugh & Gute, 2008;
Grello, Welsh, & Harper, 2006; Owen & Fincham, 2011b; Paul & Hayes, 2002 ). Đàn
ơng đạt được nhiều lợi ích khi quan hệ tình dục trong những lần hẹn hò ngắn hạn, và
những lợi ích đó có liên quan đến việc cải thiện các triệu chứng trầm cảm. Khi phụ nữ

quan hệ tình dục trong những lần hẹn hị ngắn hạn, họ có khả năng có nhiều cảm xúc
mâu thuẫn và hối tiếc về sau hơn dẫn tới tăng tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm.
Giáo trình Tâm lý học giới tính và giáo dục giới tính có viết: “Tình dục cũng có ảnh
hưởng tới đặc điểm của các quan hệ yêu đương nhưng tình dục không phải là cơ sở duy
nhất của quan hệ ấy.” Thế nhưng, trong những mối quan hệ FWB thì tình dục là điều
thường xảy ra và khơng có sự xuất hiện của tình u. Ở Việt Nam, vẫn cịn nhiều bất
cập trong vấn đề giáo dục giới tính, vì vậy, tình trạng lây bệnh qua đường tình dục là
rất lớn. Thậm chí, nhiều người cịn chưa có khái niệm đúng đắn về tình dục. Điều quan
trọng nhất là cần giáo dục tư tưởng để có thể hình thành những tư tưởng, giá trị phù
hợp, đúng đắn về tình dục; từ đó mới có thể hạn chế những mối quan hệ như FWB,
ONS. Sau đó mới tiến tới giáo dục giới tính, về tình dục an tồn, tình dục đồng thuận.
Quan hệ tình dục và quan hệ tình u có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển nhân cách
của con người. Nếu không được giáo dục kỹ lưỡng, con người dễ mắc sai lầm và do đó
sự phát triển nhân cách cũng có khả năng bị hạn chế. Giáo dục về tình dục, về giới tính
phải tế nhị, thận trọng. Cần lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp với bối cảnh, tuổi
tác, phong tục và tôn giáo. Cần giáo dục giới tính một cách khoa học, tồn diện, và kết
hợp việc giáo dục những tri thức khô khan với một thái độ đúng đắn, không cợt nhả.
Từ những ví dụ trên, em rút ra nhiều điều cho cơng tác tham vấn các vấn đề liên
quan đến giới tính. Đối với việc tham vấn những vấn đề liên quan đến giới tính, chìa
khóa đầu tiên là sự cởi mở, tôn trọng với con người của thân chủ, với quá khứ, với tư
tưởng, với những trải nghiệm tình dục của họ trong quá khứ. Sự xuất hiện và phát triển


18

đời sống tính dục ở con người là hiện tượng có tính quy luật, và vì vậy việc có các
hành vi tình dục là rất bình thường. Tuy nhiên, trong xã hội Việt Nam, tình dục vẫn
cịn là một vấn đề nhạy cảm, vì vậy cần giữ thái độ lịch sự, tế nhị. Khơng nên phán xét
hay kì thị thân chủ khi những tư tưởng về tình dục của họ khác với số đông. Khi những
niềm tin lệch lạc của thân chủ có nguy cơ làm thân chủ có những hành vi khơng thích

ứng thì nhà tham vấn mới cần can thiệp vào suy nghĩ, niềm tin của họ. Nếu không, hãy
tôn trọng hệ giá trị quan của thân chủ. Bản thân những trải nghiệm tiêu cực của thân
chủ mới là vấn đề chính yếu. Cần hiểu về nhu cầu và các nguồn lực của thân chủ, từ đó
hiểu là đang làm việc trên bối cảnh và vấn đề như thế nào. Nhà tham vấn cần tạo cơ hội
để thân chủ chia sẻ trải nghiệm trong khả năng hiểu biết và ngơn ngữ tính dục của bản
thân. Lưu ý trải nghiệm đó chỉ được biết đến và có giá trị với thân chủ khi được nhà
tham vấn lắng nghe và ghi nhận, bởi vì “Trị liệu tâm lý khơng phải là đưa ra những
nhận định thông minh và phù hợp; mà chủ yếu là sự phản hồi dài hạn những gì thân
chủ/ khách hàng mang đến. Kể cả khi họ không khỏi bệnh, nhưng họ vẫn cảm thấy biết
ơn nhà trị liệu vì đã nhận đồng hành với con người của họ, và điều đó cho họ sự thỏa
mãn sâu sắc.” (D. Winnicott, trích từ Playing and Reality, p.158)
C. SỰ ĐỒNG THUẬN TRONG TÌNH DỤC
6. TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
a) Tìm hiểu về sự đồng thuận trong tình dục (sexual content)
Consent ban đầu là một thuật ngữ thiên về luật pháp. Sau này, ý nghĩa của consent
được mở rộng và mang nội dung hướng đến vấn đề tình dục khi kết hợp với từ sexual.
Tiền thân của từ consent là consentire - một từ Latin được ghép từ con (cùng nhau) và
sentire (cảm nhận). Consent là phiên bản rút gọn của các từ kể trên, xuất hiện sớm nhất
vào những năm 1300. Sexual consent (đồng thuận tình dục) bắt đầu được phổ biến từ
cuối năm 2003, đầu năm 2004 tại nước Anh, khi Luật vi phạm tình dục tại Anh quốc
chính thức có hiệu lực.


19

Đồng thuận có nghĩa là chủ động đồng ý quan hệ tình dục với ai đó và cho đối tác
biết rằng họ muốn quan hệ tình dục. Hoạt động tình dục mà khơng có sự đồng ý là hiếp
dâm hoặc tấn cơng tình dục. Nói cách khác, đồng thuận trong tình dục là một thỏa
thuận giữa những đối tác khi tham gia vào hoạt động tình dục trên cơ sở người tham
gia có đủ năng lực và sức khỏe để quyết định, cần được duy trì trong suốt quá trình

thực hiện hoạt động tình dục. Đồng thuận trong tình dục khơng phải là một quyết định
mang tính thời điểm. Sự đồng thuận trong thực hiện hành vi tình dục khơng chỉ là đồng
ý việc có thực hiện hành vi tình dục mà các đối tác tham gia cũng cần đồng thuận trong
cách thức, thời điểm, thời gian, điều kiện và bối cảnh quan hệ. Một điểm quan trọng
trong đồng thuận tình dục là độ tuổi của hai đối tác. Ở nhiều nước, độ tuổi đồng thuận
tình dục được tính hợp pháp dao động từ 15 - 18. Ở Việt Nam thì độ tuổi đồng thuận
tình dục được tính hợp pháp là 16 tuổi. Với trẻ dưới 16 tuổi, dù cho có đồng thuận
quan hệ tình dục vẫn tính là vi phạm pháp luật. Một người không thể thể hiện sự đồng
thuận khi họ không tỉnh táo do sử dụng rượu, chất kích thích, hay khi bị đe dọa bằng vũ
lực. Im lặng khơng phải là đồng thuận. Vì vậy, sự đồng thuận nên được truyền đạt rõ
ràng và tự do. Một biểu hiện đồng thuận bằng lời nói, cử chỉ và sự khẳng định có thể
giúp các đối tác hiểu và tơn trọng ranh giới của nhau, vì trên cả tình dục thì ai cũng cần
được lắng nghe và tơn trọng. Hơn nữa, động lực thực hiện hành vi tình dục phải xuất
phát từ mong muốn của hai bên thì mới tính là đồng thuận. Do nếu một trong hai bên
nghĩ mình phải quan hệ tình dục để thỏa mãn đối phương, thì đó khơng phải là sự đồng
thuận tình dục.
Thực trạng hiện nay ở Việt Nam là quấy rối, tấn cơng tình dục diễn ra khá phổ biến.
Một khảo sát của ActionAid năm 2015 cho thấy, 87% phụ nữ ở Việt Nam từng bị quấy
rối nơi công cộng, cao hơn nhiều quốc gia khác như Ấn Độ (79%), Campuchia (77%),
Bangladesh (57%). Thiếu đồng thuận về tình dục xảy ra ngay cả trong chính quan hệ
vợ chồng. Khảo sát của ActionAid cũng cho biết 10% phụ nữ ở Việt Nam bị chồng bạo
lực tình dục.


20

b) Tình huống tâm lý
Chị An (26 tuổi), sống ở Tân Phú, TP.HCM, đến gặp nhà tâm lý để giải quyết
những khó khăn tâm lý sau khi ở riêng với chồng 3 tháng. Qua lời kể của chị sau 6
phiên làm việc, nhà tham vấn biết được lý do chính khiến chị ly thân với chồng là mâu

thuẫn trong chuyện tình dục. Chị An cho biết bản thân là mẫu người trầm tính ít lời, chị
từng tâm sự với tâm lý gia: “Có lẽ vì vậy mà tơi với chồng khơng hiểu nhau và cũng
khơng có nhiều tiếng nói chung.” Từ khi kết hôn, chị chỉ thực hiện chuyện vợ chồng
như một nghĩa vụ của người vợ và chị cũng cho rằng nếu phụ nữ thể hiện khao khát
quá nhiều sẽ bị đánh giá là khơng mẫu mực. Vì vậy, chị cũng rất ý nhị và không thể
hiện nhiều ham muốn trong chuyện tình dục. Chồng chị lại là người có ham muốn tình
dục cao, và chị cũng đã cố gắng đáp ứng nhu cầu của chồng. Chị vẫn có thể hiện sự
miễn cưỡng khi bị chồng đòi hỏi bằng cách từ chối, nhưng chồng chị không quan tâm
và càng “tấn công” chị mạnh bạo hơn. Một năm gần đây, áp lực cơng việc của chị tăng
lên do có hai người trong bộ phận nghỉ việc, vì thế, mỗi khi trở về nhà sau giờ làm, chị
đều cảm thấy rất mệt mỏi, căng thẳng và cũng khơng cịn sức đáp ứng những địi hỏi
của chồng. Chồng chị khơng hài lịng với điều đó và nói rằng chị có thể nghỉ làm ở nhà
làm nội trợ, anh có thể chu cấp về kinh tế cho cả gia đình. Chị An khơng đồng ý và
cảm thấy bị xúc phạm. Sau đó, chị từ chối hầu hết những lần chồng đòi hỏi, cũng như
từ chối những cuộc nói chuyện nghiêm túc với chồng trừ khi anh xin lỗi. Mối quan hệ
vợ chồng dần trở nên căng thẳng và hai người quyết định đi đến quyết định ở riêng vào
3 tháng trước. Chị cho biết mình vẫn cịn u chồng nhưng khơng đồng ý với lối suy
nghĩ gia trưởng của anh cũng như cách anh ép buộc chị thực hiện các hành vi tình dục.
7. PHÂN TÍCH NGUN NHÂN
Có thể phân tích ngun nhân của thiếu đồng thuận tình dục trong trường hợp này
theo yếu tố khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan thì do ảnh hưởng từ quan
niệm truyền thống, kết hơn bao hàm ln việc đồng thuận tình dục, tức là nếu hai
người đã trong mối quan hệ hôn nhân thì dù có chuyện gì cũng “đóng cửa bảo nhau”,



×