Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

TRÀO LƯU SÁP NHẬP VÀ THÂU TÓM TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.06 KB, 42 trang )

Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TIỂU LUẬN
MÔN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
Đề tài:
TRÀO LƯU SÁP NHẬP VÀ THÂU TÓM TRONG
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY
Giảng viên: PGS.TS. Trương Quang Thông
Học viên: Nhóm 09, TCDN-Đêm 1, K20
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 04/2012
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A) 1
1.1 Khái niệm mua bán và sáp nhập 1
1.1.1 Định nghĩa 1
1.1.2 Phân biệt giữa sáp nhập và mua lại 4
1.2 Động cơ của M&A 6
1.3 Phân loại M&A 7
1.4 Các phương thức M&A 8
1.5 Tình hình M&A ở một số nước trên thế giới 9
1.6 Một số kết luận rút ra từ bài học kinh nghiệm của các nước 16
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG SÁP NHẬP, HỢP NHẤT VÀ
MUA LẠI TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM 17
2.1 Thực trạng hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại trong ngành ngân hàng ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 17


2.1.1 Nguyên nhân 17
2.1.2 Thực trạng 23
2.1.3 Đặc điểm về quá trình sáp nhập, hợp nhất và mua lại trong ngành ngân hàng
Việt Nam 34
2.2 Một số xu hướng dự đoán hoạt động động sáp nhập, hợp nhất và mua lại trong
ngành ngân hàng tại Việt Nam 36
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHO HOẠT ĐỘNG M&A NHTM
TẠI VIỆT NAM 38
KẾT LUẬN
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
o0o
Sáp nhập và thâu tóm đã trở thành một trong những hình thức chủ yếu trong
việc tái cơ cấu lại doanh nghiệp trên toàn cầu và những ngân hàng và tổ chức tài chính
cũng không nằm ngoài làn sóng thâu tóm và sáp nhập này. Tại Việt Nam với những
thay đổi về điều kiện kinh tế vĩ mô: việc gia nhập WTO dẫn đến mở cửa hệ thống
ngân hàng sự cạnh tranh khắc nghiệt với ngân hàng ngoại, khủng hoảng kinh tế toàn
cầu 2008 dẫn đên vỡ bong bóng thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản kết
quả nợ xấu gia tăng ở các ngân hàng dẫn đến những bất thường trên thị trường tiền tệ,
ngân hàng với sự vi phạm nghiêm trọng, có tính hệ thống đối với việc vượt trần lãi
suất huy động, “lách” trần tín dụng, bản chất hoạt động ngân hàng bị làm sai lệch, các
vụ lừa đảo, chiếm đoạt tiền với sự tham gia của các cán bộ ngân hàng ngày càng gia
tăng… Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này xuất phát từ những yếu kém về năng
lực tài chính, khả năng cạnh tranh, năng lực quản trị, điều hành của một số ngân hàng
thương mại , sự yếu kém và sa sút về đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ
ngân hàng. Kết quả là sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các ngân hàng, tạo phản
ứng lan truyền trong toàn hệ thống và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển lành
mạnh, bền vững của hệ thống ngân hàng. Vì vậy tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng
với mục tiêu xây dựng một hệ thống ngân hàng lành mạnh thông qua giải pháp sáp

nhập, hợp nhất và mua lại là nhu cầu cấp thiết của ngành Ngân hàng hiện nay.
Nội dung bài nghiên cứu được sắp xếp như sau: Chương 1 giới thiệu khung lý
thuyết về mua bán sáp nhập và một số bài học kinh nghiệm về hoạt động M&A.
Chương 2 giới thiệu thực trạng và xu hướng phát triển hoạt động mua bán, sáp nhập,
hợp nhất trong ngành ngân hàng tại Việt Nam . Giải pháp và kiến nghị sẽ được giới
thiệu trong Chương 3 . Và cuối cùng là phần kết luận.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A)
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
1.1 Khái niệm mua bán và sáp nhập:
1.1.1 Định nghĩa:
Mua bán và sáp nhập là nghĩa của cụm từ thông dụng M&A tức Merger and
Acquisitions. Tại Việt Nam khái niệm mua bán và sáp nhập doanh nghiệp được quy
định tại Luật Doanh Nghiệp 2005 như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp: “Một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị
sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ, quyền lợi và lợi ích hợp pháp sang công
ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập”.
Hợp nhất doanh nghiệp: “Hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị
hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách
chuyển toàn bộ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất”.
Trong khi Luật Cạnh Tranh 2004 có nhắc tới việc mua lại, sáp nhập, hợp nhất
doanh nghiệp:
Mua lại doanh nghiệp là việc doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản
của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.

Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp
mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Việc đầu tư góp vốn vào quá trình M&A cũng được Luật Đầu tư 2005 qui
định: “Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp” như một trong các
hình thức đầu tư trực tiếp dưới các hình thức: Đóng góp vốn để thành lập doanh
nghiệp mới hoặc để tham gia quản lí hoạt động đầu tư, mua toàn bộ hoặc một phần
doanh nghiệp đang hoạt động, mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập doanh
nghiệp”.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Theo Thông tư số: 04/2010/TT-NHNN của Ngân hành Nhà nước ngày
11/02/2010 Quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng:
Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng (sau
đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín dụng khác (sau
đây gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt
sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị sáp nhập.
Hợp nhất tổ chức tín dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau
đây gọi là tổ chức tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới (sau
đây gọi là tổ chức tín dụng hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại
của các tổ chức tín dụng bị hợp nhất.
Mua lại tổ chức tín dụng là hình thức một tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ
chức tín dụng mua lại) mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của tổ
chức tín dụng khác (tổ chức tín dụng bị mua lại). Sau khi mua lại, tổ chức tín dụng bị
mua lại trở thành công ty trực thuộc của tổ chức tín dụng mua lại.
Theo điều 91 Luật cạnh tranh Canada (bản sửa đổi bổ sung năm 1985), sáp
nhập được hiểu là việc mua lại hoặc thiết lập, trực tiếp hay gián tiếp bởi một hay
nhiều người bằng cách mua hay thuê mua cổ phần hoặc tài sản, sự kiểm soát đối với

toàn bộ hay một phần của hoạt động kinh doanh của một đối thủ cạnh tranh, nhà cung
cấp, khách hàng hoặc một người nào khác bằng cách kết hợp hay liên kết hoặc hình
thức khác.
Còn theo định nghĩa kỹ thuật của David L.Scott, viết trong cuốn: Wall Street
Words: An A to Z Guide to Investment Terms for Today’s Investor thì:
• Sáp nhập: Là sự kết hợp của 2 hay nhiều công ty, trong đó có tài sản và
trách nhiệm pháp lý của (những) công ty được công ty khác tiếp nhận. Mặc dù hãng
mua lại có thể làm một tổ chức khác đi rất nhiều sau quá trình mua lại, nhưng nó vẫn
là thực thể ban đầu.
• Mua lại: Là quá trình mua lại tài sản như máy móc, một bộ phận hay thậm
chí là toàn bộ công ty
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Xem xét sáp nhập, mua lại doanh nghiệp trên thế giới chúng ta có thể rút ra các
kết luận sau:
♦ Quan niệm phổ biến về M&A trên thế giới được hiểu bao gồm không chỉ sáp
nhập, mua lại mà còn gồm cả hợp nhất và giành quyền kiểm soát đối với doanh
nghiệp.
♦ Phân tích về sáp nhập, hợp nhất, chúng ta thấy đây không phải là hoạt động
đầu tư theo nghĩa thông thường mà về bản chất đó là sự tối ưu hoá đầu tư. Chỉ có mua
lại, giành quyền kiểm soát mới thực sự là bỏ vốn để tiến hành hoạt động đầu tư.
Về khía cạnh thuật ngữ, M&A thực chất là hoạt động giành quyền kiểm soát
doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp (gọi chung là doanh nghiệp) thông qua việc sở
hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. Mục đích của M&A là giành quyền kiểm
soát doanh nghiệp ở mức độ nhất định chứ không đơn thuần chỉ là sở hữu một phần
vốn góp hay cổ phần của doanh nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Vì vậy, khi một
nhà đầu tư đạt được mức sở hữu phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp đủ để tham
gia, quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì khi đó mới có thể coi đây
là hoạt động M&A. Ngược lại, khi nhà đầu tư sở hữu phần vốn góp, cổ phần không đủ
để quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thì đây chỉ được coi là hoạt

động đầu tư thông thường.
Như vậy, cụm từ Merger và Acquisition (M&A) có thể được định nghĩa như
sau:
Acquisition - Mua lại
Mua lại được hiểu như một hành động tiếp quản bằng cách mua lại một công ty
(gọi là công ty mục tiêu) bởi một công ty khác. Trước đây, để thực hiện một thương
vụ mua lại các công ty thường hợp tác thương lượng với nhau, nhưng về sau hình thức
này đã khác, và thương vụ mua lại có thể diễn ra khi bên bị mua không sẵn lòng bán
lại hoặc là bên bị bán không biết gì về bên mua. Một thương vụ mua lại thường đề cập
đến một công ty nhỏ bị mua lại bởi một công ty lớn hơn, tuy nhiên đôi khi một công
ty nhỏ hơn sẽ giành được quyền quản lý một công ty lớn hơn hoặc là lâu đời hơn, sau
đó đổi tên công ty mới thành công ty đi mua - hình thức này gọi là tiếp quản ngược -
reverse takeover. Một hình thức khác phổ biến hơn có nhiều nét tương đồng với hình
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
thức này là sáp nhập ngược - reverse merger, phần này sẽ được nhắc lại rõ hơn trong
định nghĩa về Merger.
Merger - hợp nhất, sáp nhập
Merger - hợp nhất, sáp nhập là sự kết hợp của hai công ty để trở thành một
công ty lớn hơn. Những giao dịch loại này thường là tự nguyện và hình thức thanh
toán chủ yếu thông qua hoán đổi cổ phiếu stock - swap (hoán đổi số lượng cổ phần
của công ty cũ sang số lượng cổ phần của công ty mới tương ứng với tỷ lệ phần trăm
góp vốn của công ty vào công ty mới - tỷ lệ này xác định dựa trên sự thỏa thuận lúc ký
kết) hoặc là chi trả bằng tiền mặt. Một thỏa thuận hợp nhất có thể giống với một
thương vụ thâu tóm, tuy nhiên, kết quả là tạo ra tên công ty mới (thường là tên kết hợp
giữa tên ban đầu của hai công ty) và một thương hiệu mới.
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp việc một thỏa thuận, giao dịch gọi là một
vụ hợp nhất, sáp nhập - Merger hơn là một thương vụ hay là một vụ mua lại
-Acquisition chỉ đơn thuần nhằm mục đích chính trị hoặc chiến lược marketing, những
thương vụ sáp nhập, hợp nhất kiểu này thường liên quan đến hình thức thanh toán

bằng tiền mặt, ngược lại những thỏa thuận sáp nhập, hợp nhất thuần túy lại áp dụng
phương pháp hoán đổi cổ phiếu khi đó các cổ đông của công ty có thể chia sẽ rủi ro,
quyền lợi trong công ty mới.
1.1.2 Phân biệt giữa sáp nhập và mua lại:
Mặc dù có nhiều điểm tương đồng nhưng hai thuật ngữ Merger và Acquisition
có những điểm khác nhau có thể phân biệt được:
● Khi một công ty tiếp quản một công ty khác và trở thành chủ sở hữu mới thì
thương vụ đó gọi là một acquisition - mua lại, công ty bị mua sẽ chấm dứt tồn tại,
trong khi cổ phiếu của công ty mua vẫn tiếp tục giao dịch bình thường.
Ví dụ: Tại khối ngành ngân hàng Mỹ, tham vọng đứng đầu ngành ngân hàng
nội địa của Mỹ là động lực khiến Bank of America mua lại Merrill Lynch với giá 50
tỷ USD. Việc mua lại này đã cho ra đời tập đoàn tài chính hùng mạnh nhất thế giới.
Theo đó, Bank of America đã trở thành ngân hàng thương mại lớn nhất tại Mỹ tính
theo lượng tiền gửi và lượng vốn hóa thị trường và là ngân hàng thành viên thuộc tập
đoàn bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC).
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
● Theo lý thuyết, một merger - hợp nhất, sáp nhập xảy ra khi hai công ty,
thường là cùng kích cỡ đồng ý để tiến tới trở thành một công ty duy nhất thay vì là hai
công ty độc lập. Loại hình này gọi là “Merger of equals” - hợp nhất, sáp nhập bình
đẳng. Cổ phiếu của hai công ty sẽ được thay thế bằng cổ phiếu của công ty mới. Như
vậy, loại hình này chính là hình thức hợp nhất, sáp nhập hoán đổi cổ phiếu Stock-
swap hay theo định nghĩa của Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì đây là một thương vụ
Hợp nhất.
Ví dụ: Điển hình cho hình thức này là sự hợp nhất giữa hai tập đoàn máy tính
khổng lồ của Mỹ Hewlett-Packard và Compaq hồi tháng 9 năm 2001, công ty mới có
tên là HP-Compaq, trị giá của giao dịch là 25 tỷ USD, mỗi cổ phiếu của Compaq sẽ
đổi được 0,6325 cổ phiếu phát hành mới của HP, như vậy cổ đông của HP sẽ sở hữu
64% và cổ đông của Compaq sẽ sở hữu 36% trên tổng số cổ phần của của công ty mới
hợp nhất.

Trong thực tế loại hình hợp nhất - Merger of equals không diễn ra một cách
thường xuyên. Thông thường thì một công ty sẽ mua lại một công ty khác, sau đó cả
hai công ty sẽ đồng ý để công bố rằng đây là một vụ hợp nhất, một merger of equal,
thậm chí nếu đó thật sự là một thương vụ mua lại - Acquisition. Như vậy, một thương
vụ mua bán vẫn có thể gọi là một thỏa thuận hợp nhất khi cả hai bên đều đạt đươc sự
thỏa thuận hợp tác với nhau. Nhưng nếu thương vụ đó diễn ra trong sự chống đối, thù
địch và công ty bị mua không muốn thương vụ diễn ra thì nó sẽ được gọi là một vụ
Mua lại – Acquisition.
Nếu liên hệ với định nghĩa của Luật Doanh nghiệp như phần trên thì hình thức
Merger loại này giống với hình thức sáp nhập. Về bản chất hình thức sáp nhập -
Merger và mua lại - Acquisition là giống nhau, trong cả hai hình thức công ty đi mua
đều tìm cách thâu tóm công ty mục tiêu và giá trị của thương vụ sẽ được thanh toán
bằng tiền mặt, tuy nhiên nếu thương vụ được công bố là một vụ sáp nhập thì tên công
ty bị mua vẫn còn tồn tại như là một phần của tên công ty mới, mặc dù cổ đông của
công ty mục tiêu không còn là cổ đông của công ty mới như trường hợp Hợp nhất -
Merger of equals. Việc công bố một thương vụ là một Merger - sáp nhập hơn là mua
lại - Acquistion đôi khi nó còn nhằm một mục đích chính trị hay marketing nào đó.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Tuy nhiên, trong thực tế sự phân biệt giữa Merger và Acquisition chỉ có ý
nghĩa quan trọng đối với các nhà làm luật, các chuyên viên thuế, các kế toán viên
nhưng nó lại ít quan trọng đối với các nhà kinh tế nói riêng và cho cả nền kinh tế nói
chung, bởi lẽ người ta quan trọng cái bản chất của nó, do đó, họ thường không dùng
cụm từ Merger hay Acquisition một cách tách biệt mà thay vào đó là một cụm từ quen
thuộc M&A.
1.2 Động cơ của M&A
Cộng hưởng là động cơ quan trọng và kì diệu nhất giải thích cho mọi thương
vụ mua bán sáp nhập. Cộng hưởng sẽ cho phép hiệu quả và giá trị của doanh nghiệp
mới (sau khi sáp nhập) được nâng cao. Lợi ích mà các doanh nghiệp kỳ vọng sau mỗi
thương vụ M&A bao gồm:

- Đạt được hiệu quả dựa vào quy mô: Một doanh nghiệp lớn lúc nào cũng có
thế hơn khi giao dịch với các đối tác, kể cả mua văn phòng phẩm hay một hệ thống IT
phức tạp thì công ty lớn vẫn có ưu thế khi đàm phán hơn là so với công ty nhỏ. Mặt
khác, quy mô lớn cũng giúp giảm thiểu chi phí.
- Đạt được hiệu quả dựa vào phạm vi: Sáp nhập cho phép một ngân hàng đa
dạng hóa được các dịch vụ và sản phẩm tài chính giúp ngân hàng nâng cao sức cạnh
tranh. Ngoài ra cũng có thể cung cấp các sản phẩm bán chéo cho khách hàng với chi
phí thấp hơn so với khi khách hàng phải đến sử dụng từng sản phẩm ở các ngân hàng
riêng lẻ .
- Trang bị công nghệ mới: Để duy trì cạnh tranh và sự hoạt động ổn định, các
ngân hàng luôn cần vị trí đỉnh cao của phát triển kỹ thuật và công nghệ. Thông qua
việc mua bán hoặc sáp nhập, ngân hàng mới có thể tận dụng công nghệ của nhau để
tạo lợi thế cạnh tranh.
- Tăng cường thị phần và danh tiếng trong ngành: Một trong những mục tiêu
của mua bán & sáp nhập là nhằm mở rộng thị trường mới, tăng trưởng doanh thu và
thu nhập. Sáp nhập cho phép mở rộng các kênh marketing và hệ thống phân phối. Bên
cạnh đó, vị thế của ngân hàng mới sau khi sáp nhập sẽ tăng lên trong mắt cộng đồng
đầu tư: quy mô lớn hơn có lợi thế hơn và có khả năng tăng vốn dễ dàng hơn.
- Hoạt động hiệu quả : Các ngân hàng có cùng quy mô, kích thước nhưng thực
sự chi phí vận hành thì chênh lệch nhau rất nhiều. Thông qua việc sáp nhập thì các
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
ngân hàng có cơ hội đánh giá việc quản lý chi phí vận hành của mình từ đó nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
Trên thực tế, đạt được sự cộng hưởng thường khó hơn người ta tưởng - nó
không tự đến khi hai công ty sáp nhập. Đương nhiên khi hai công ty sáp nhập dễ nhìn
thấy khả năng đạt được lợi thế quy mô nhưng đôi khi nó lại có hiệu ứng ngược lại.
Trong nhiều trường hợp, một cộng một lại nhỏ hơn hai. Do đó, việc phân tích chính
xác mức độ cộng hưởng trước khi tiến hành những thương vụ M&A rất quan trọng.
Khá nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đã cố tình vẽ ra bức tranh cộng hưởng để tiến

hành các vụ M&A nhằm trục lợi từ việc định giá doanh nghiệp.
1.3 Phân loại M&A
Sáp nhập chiều ngang (horizontal acquisition) còn được gọi là sáp nhập cùng
ngành, là hình thức sáp nhập giữa các công ty cùng cạnh tranh trực tiếp và chia sẻ
cùng dòng sản phẩm và thị trường. Ví dụ, sự sáp nhập của ba ngân hàng : ngân hàng
Sài Gòn (SCB), Đệ Nhất (FCB) và Việt Nam Tín Nghĩa (TNB) , nâng vốn điều lệ của
ngân hàng sau sáp nhập lên 10,583.8 tỉ đồng.
Sáp nhập doanh nghiệp theo chiều dọc (vertical mergers): Là sự sáp nhập hoặc
mua lại của hai hay nhiều công ty nằm trên cùng một chuỗi giá trị, dẫn tới sự mở rộng
về phía trước hoặc về phía sau hoặc về cả hai phía của công ty sáp nhập trên chuỗi giá
trị đó. Ví dụ , sự sáp nhập giữa Công ty Dịch vụ Tiết kiệm bưu điện và ngân hàng
Liên Việt Bank thành lập ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt , đây là mô hình mới
tại Việt Nam có thể đẩy dịch vụ ngân hàng đến từng hộ gia đình.M&A theo chiều dọc
được phân thành 2 loại :
Sáp nhập tiến (Forward): xảy ra khi một công ty mua lại công ty khác hàng của
mình, như trường hợp các công ty sản xuất mua lại các chuỗi cửa hàng bán lẻ.
Sáp nhập lùi (Backward): Khi một công ty mua lại nhà cung cấp, cung ứng sản
phẩm, nguyên liệu đầu vào của mình, điển hình là trường hợp công ty sữa mua lại
công ty bao bì, đóng chai hoặc công ty chuyên chăn nuôi bò sữa…
Sáp nhập theo chiều dọc đem lại cho công ty sáp nhập lợi thế về đảm bảo và
kiểm soát chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào hoặc đầu ra sản phẩm, giảm chi phí
trung gian, khống chế nguồn hàng hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh…
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Sáp nhập kiểu tập đoàn (conglomerate mergers): xảy ra khi hai hay nhiều công
ty không có cùng lĩnh vực kinh doanh nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động kinh doanh
của mình - mở rộng kinh doanh sang những lĩnh vực khác không liên quan - tiến hành
sáp nhập lại với nhau. Điển hình là thương vụ Công ty Cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú
Nhuận (PNJ) chào mua công khai thêm 26% để nâng cổ phần của mình lên 49% trong
Công ty Cổ phần Nhiên liệu Sài Gòn (SFC) nhằm bổ sung thêm thế mạnh kinh doanh

bất động sản của PNJ. Hoặc tháng 9/2009, giới đầu tư chú ý nhiều đến thương vụ ICP
(công ty tư vấn kỹ thuật và xây dựng) thâu tóm Thuận Phát với tỷ lệ sở hữu trên 51%
nhằm mở rộng ngành nghề của mình sang kinh doanh thực phẩm.
1.4 Các phương thức M&A:
Chào thầu: Là hình thức doanh nghiệp hoặc nhà đầu tư có ý định mua toàn bộ
doanh nghiệp mục tiêu đề nghị các cổ đông hiện hữu của doanh nghiệp đó bán lại cổ
phần của họ với một mức giá cao hơn giá thị trường rất nhiều. Giá chào mua thường
phải đủ hấp dẫn để đa số cổ đông tán thành việc từ bỏ quyền sở hữu cũng như quản lý
doanh nghiệp của mình.
Thương lượng tự nguyện: Là hình thức phổ biến trong các vụ sáp nhập mang
tính tự nguyện. Khi hai doanh nghiệp nhận thấy các lợi ích tương đồng về văn hóa tổ
chức, hoặc thị phần, sản phẩm người điều hành sẽ xúc tiến để ban quản trị của hai
doanh nghiệp ngồi lại và thương thảo cho một hợp đồng sáp nhập.
Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán: Là hình thức doanh nghiệp có
ý định thâu tóm sẽ giải ngân để thu gom cổ phiếu của doanh nghiệp mục tiêu thông
qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, hoặc mua lại của các cổ đông chiến lược
hiện hữu. Phương án này đòi hỏi thời gian và tính bảo mật bởi lẽ nếu để lộ ý đồ thôn
tính, giá cổ phiếu của doanh nghiệp mục tiêu có thể tăng vọt trên thị trường. Nếu việc
thâu tóm này được thực hiện trôi chảy, doanh nghiệp thâu tóm có thể đạt được mục
đích cuối cùng của mình một cách êm thấm, không gây xáo động, đồng thời chỉ cần
trả một mức giá rẻ hơn nhiều so với hình thức chào mua đã nêu ở trên.
Mua lại tài sản doanh nghiệp: Là hình thức doanh nghiệp sáp nhập có thể đơn
phương hoặc cùng doanh nghiệp mục tiêu định giá tài sản của doanh nghiệp đó (họ
thường thuê một doanh nghiệp tư vấn chuyên định giá tài sản độc lập). Sau đó các bên
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
sẽ tiến hành thương thảo để đưa ra mức giá phù hợp (có thể cao hoặc thấp hơn).
Phương thức thanh toán có thể bằng tiền mặt và nợ. Điểm hạn chế của phương thức
này là các tài sản vô hình như thương hiệu, thị phần, bạn hàng, nhân sự, văn hóa tổ
chức rất khó được định giá và được các bên thống nhất. Do đó, phương thức này

thường chỉ áp dụng để tiếp quản lại các doanh nghiệp nhỏ, mà thực chất là nhắm đến
các cơ sở sản xuất, nhà xưởng máy móc, dây chuyền công nghệ, hệ thống cửa hàng,
đại lý đang thuộc sở hữu của doanh nghiệp đó.
1.5 Tình hình M&A ở một số nước trên thế giới.
Hoạt động M&A của các tổ chức tài chính mà nổi cộm là trong ngành ngân
hàng khởi xướng và thành xu hướng đầu tiên diễn ra ở nước Mỹ vào những năm 1980,
lan rộng ra khắp thế giới vào những năm 1990 và trở thành một hiện tượng mang tính
toàn cầu. Con số các ngân hàng ở EU của những năm 1990 giảm từ 12,378 ngân hàng
xuống còn 8.395 ngân hàng vào năm 1999 (Nguồn: European Central Bank - ECB,
2000).
Điều đó cũng cho thấy hoạt động M&A trong ngành ngân hàng đã và đang diễn
ra rất sôi nổi. Nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn cũng như có cái nhìn rõ hơn về thế
giới để có thể rút ra được bài học kinh nghiệm cho nước ta, xin nêu ra một số trường
hợp tiêu biểu về hoạt động M&A Ngân hàng tại một số nước để tham khảo.
- Năm 1988 NationsBank + Bank America = Bank of
America
64tỷ USD
-Tháng 9/2008 Bank of America và Merrill Lynch 50 tỷ USD
-Tháng 9/2000 Chase Manhattan và JP Morgan 36 tỉ USD
-Năm 2004 JP Morgan Chase và Bank One Corp 58 tỉ USD
-Năm 2003
HSBC và Household International (Anh- Mỹ)
15,5 tỷ USD
-Năm 2005 UniCredit và HVB (Italia- Đức) 18,6tỷUSD
-Năm 2008
Commerzbank và Dresdner (Đức)
14,4 tỷ USD
Tại Mỹ:
Tại Hoa Kỳ, nhiệm vụ M&A ngân hàng được giao cho Bảo hiểm tiền gửi
(BHTG) Hoa Kỳ (FDIC). FDIC được thành lập năm 1932 sau khủng hoảng tài chính

đầu thế kỷ XX theo sắc lệnh của Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Với mục tiêu chủ
động giải quyết nhanh các vụ M&A đạt hiệu quả cho xã hội và nền kinh tế, Quốc hội
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
dành cho FDIC những thẩm quyền đặc biệt để đạt được mục tiêu đó (bất kể luật pháp
có quy định khác) được phép toàn quyền tiếp nhận và thanh lý tài sản của tổ chức
nhận tiền gửi thuộc diện M&A mà không chịu sự chi phối của cổ đông, tòa án các cấp
hay các cơ quan kiểm soát khác.
FDIC đảm bảo thực hiện bốn nguyên tắc cơ bản trong hoạt động M&A:
- Các NH thuộc diện M&A được xử lý với chi phí thấp nhất;
- Thực hiện M&A nhanh nhất;
- Tài sản tiếp nhận được quản lý và đưa ra thị trường để bán với giá trị cao
nhất (bán cho khu vực kinh tế tư nhân);
- Tiền gửi và các nghĩa vụ trả nợ khác được xử lý công bằng và tiết kiệm.
Hoạt động M&A được bắt đầu kể từ khi cơ quan cấp phép gửi thư thông báo
cho FDIC về kế hoạch M&A và chỉ định FDIC là người thực hiện. FDIC sẽ dàn xếp
để một hoặc một số ngân hàng “khỏe” chấp nhận mua lại một phần hay toàn bộ tài sản
của ngân hàng thuộc diện M&A và tiếp nhận các nghĩa vụ nợ của tổ chức đó. Từ năm
1980 đến 1994, 1.188 trong số 1.617 trường hợp đổ vỡ (tương đương 73,5%) được
FDIC xử lý theo phương pháp mua và tiếp nhận nợ, trong đó giai đoạn khung hoảng
lớn nhất 1987-1994, thông qua 34 ngân hàng cầu nối, FDIC đã xử lý êm thấm 114
ngân hàng với tổng tài sản 89,9 tỷ USD. Trong năm 2008, FDIC đã tiến hành M&A
đối với 25 ngân hàng trong đó có trường hợp tiêu biểu là Ngân hàng Indy Mac.
Xin nêu ra một ví dụ điển hình về hoạt động M&A tại đây: Thành lập ngân
hàng bắc cầu để xử lý Ngân hàng Indy Mac.
Ngân hàng Indy Mac có tổng tài sản 30 tỷ USD, tổng tiền gửi 19 tỷ USD. Đây
là Ngân hàng đứng thứ 17 về Tiết kiệm và cho vay, đứng thứ 2 về cho vay cầm cố độc
lập tại Mỹ, Indy Mac có 33 chi nhánh tại Miền Nam California, 182 Phòng giao dịch
Cho vay trên toàn nước Mỹ.
Về nguyên nhân đổ vỡ, ngân hàng hoạt động dựa trên nguồn vốn tiền gửi lãi

suất cao và các khoản ứng trước của ngân hàng, cho vay mua nhà liên bang (FHLB).
Thị trường giao dịch các khoản chứng khoán hóa đổ vỡ vào cuối năm 2007, sự gia
tăng các khoản trả nợ không đúng hạn và các khoản vay không thu hồi được, xếp hạng
trái phiếu bị đánh tụt hạng đối với các khoản vay chứng khoán hóa là các nguyên nhân
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
chủ yếu khiến Indy Mac đổ vỡ nhưng do có quy quá mô lớn, Chính phủ Hoa Kỳ đã
chỉ định FDIC thực hiện M&A đối với ngân hàng này.
FDIC thành lập Indy Mác Federal Bank, một ngân hàng bắc cầu đặt dưới sự
quản lý của FDIC, đã tiếp nhận hoạt động của Indy Mac.
Nếu tiến hành chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền và xóa sổ
Ngân hàng lớn này thì chi phí sẽ cao, hệ thống ngân hàng bị thêm một cú sốc lớn và
niềm tin của người dân Mỹ, giới đầu tư và cộng đồng quốc tế đối với hệ thống tài
chính Mỹ ngày càng suy giảm. Do vậy nước Mỹ đã chọn con đường duy trì, nâng cấp
để bán lại ngâng hàng này cho một đối tác tiềm năng. Tuy nhiên do chưa có ngân
hàng nào đứng ra nhận mua, Bảo hiểm tiền gửi hoa Kỳ phải sử dụng công cụ ngân
hàng bắc cầu như một bước đệm. Ngân hàng bắc cầu Indy Mac Federal lúc đó:
- Hoạt động dưới mô hình ngân hàng bán lẻ với 33 chi nhánh với 6.5 tỷ USD
tiền gửi; danh mục khoản cho vay 16 tỷ USD và 6.9 tỷ chứng khoán nắm giữ, 157.7 tỷ
USD dịch vụ thế chấp.
- Tự quản về tài chính với 20.2 tỷ USD dịch vụ thế chấp rủi ro cao (reverse
mortage)
- Việc bán lại ngân hàng bắc cầu, về nguyên tắc, sau khi tài sản lành mạnh
được chuyển sang ngân hàng bắc cầu, FDIC sẽ quản lý, khôi phục hoạt động và bán
lại ngân hàng đó. IMB Managerment Holdinhs là tổ chức nhận mua lại và sẽ thanh
toán cho FDIC 13.9 tỷ USD. Để mua lại ngân hàng bắc cầu, IMB có thỏa thuận cơ cấu
chia sẻ thiệt hại dựa trên tài sản được đảm bảo. Bên cạnh đó, IMB sẽ sử dụng Chương
trình hỗ trợ nâng cấp khoản vay của FDIC và được tham gia vào các chương trình cấp
vốn vay của FDIC.
Như vậy, đối với ngân hàng có quy mô lớn, Mỹ có riêng một tổ chức đứng ra

giám sát và xử lý nguy cơ đổ vỡ.
Theo bảng thống kê của FDIC (xem phụ lục), số lượng các ngân hàng thương
mại ở Mỹ có sự giảm đi đáng kể từ năm 1984 đến năm 2010 (từ 14,507 tổ chức vào
năm 1984 còn lại 6,544 tổ chức vào cuối năm 2010). Dựa theo một số nghiên cứu về
M&A Ngân hàng trước đây, xin liệt kê một số đặc điểm về các ngân hàng thực hiện
M&A như sau:
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
- Theo nghiên cứu của Hannan và Rhoades (1987) khảo sát 201 ngân hàng bị
sáp nhập/mua lại và 845 ngân hàng không xảy ra M&A, kết quả là: (1) không có
chứng cứ nào cho việc những ngân hàng yếu kém về quản lý sẽ dễ bị thâu tóm hơn so
với những ngân hàng quản lý tốt; (2) thị trường tập trung giúp làm giảm khả năng bị
thâu tóm từ những ngân hàng bên trong thị trường hơn so với thị trường bên ngoài; (3)
tỷ lệ tài sản vốn cao làm giảm sự thu hút của một ngân hàng để trở thành mục tiêu
M&A; (4) thị phần lớn hơn và hoạt động ở thành phố làm tăng sự thu hút của ngân
hàng như là một mục tiêu sáp nhập hơn so với ngân hàng không hoạt động trong cùng
thị trường.
- Moore (1996) cũng sử dụng phương pháp phân tích để xác định đặc điểm của
những ngân hàng bị thâu tóm ở Mỹ giữa năm 1993 và 6/1996. Kết quả của ông chỉ ra
rằng khả năng bị thâu tóm có khuynh hướng dành cho các ngân hàng có lợi nhuận
thấp, tài sản tăng trưởng chậm, thị phần ít, tỷ lệ vốn trên tài sản thấp, và tỷ lệ các
khoản cho vay doanh nghiệp lớn trên tổng các khoản cho vay thấp. Tuy nhiên, những
khoản cho vay doanh nghiệp nhỏ và kích cỡ ngân hàng không có ảnh hưởng đáng kể
đến khả năng bị thâu tóm.
- Trong một nghiên cứu sau này, Wheelock và Wilson (2004) nghiên cứu tất cả
các ngân hàng thương mại Mỹ với hơn 3000 vụ sáp nhập xảy ra giữa quí 2 năm 1987
và quí đầu năm 1999. Tác giả kết luận rằng: (1) số lượng các vụ sáp nhập tỉ lệ thuận
với sự gia tăng của việc tập trung trong thị trường mà một ngân hàng đặt trụ sở ở đó;
(2) Cơ sở đặt ở vùng đô thị làm tăng đáng kể các vụ sáp nhập được khảo sát qua thời
gian; (3) Qui mô của một ngân hàng tác động đến khả năng sáp nhập, và (4) một sự

gia tăng trong tổng số các khoản tiền gửi cốt lõi, và sự gia tăng trong một vài chỉ số
rủi ro tài sản làm gia tăng số lượng các vụ sáp nhập.
Tại Hàn Quốc:
Kinh nghiệm nổi bật và hết sức quý báu của Hàn Quốc là chủ động tiến hành
M&A để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tạo cơ sở vững chắc về mặt tài chính cho
phát triển kinh tế bền vững chứ không thụ động ngồi chờ các ngân hàng đổ vỡ để xử
lý hậu quả. Từ 33 ngân hàng năm 1997, đến ngày 19/5/2009 chỉ còn 19 ngân hàng
khỏe mạnh. Nghĩa là Hàn Quốc chấp nhận cắt bỏ một nửa cơ thể của ngành ngân hàng
để tạo ra một hệ thống mới lành mạnh, đủ sức cạnh tranh quốc tế.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Tại Hàn Quốc nhiệm vụ M&A ngân hàng được giao cho Bảo hiểm tiền gửi
Hàn Quốc (KDIC). Dưới đây là kinh nghiệm điển hình về M&A ngân hàng của
KDIC. Đây là trường hợp xử lý, biến một ngân hàng H mất khả năng thanh toán với
mức vốn âm: -256.6 triệu USD trở thành Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ (MSB) Busan
Solomon với tình hình mọi mặt khả quan hơn, giá cổ phiếu ngày càng tăng, thu nhập
ròng ngày càng tăng.
KDIC đã ngăn chặn ảnh hưởng dây truyền do đổ bể Ngân hàng tiết kiệm tương
hỗ H ở khu vực Busan vào năm 2004. Tóm tắt tiến trình:
- 11/1974: Ngân hàng được thành lập ở Busan
- 3/2000 Tiến hành sáp nhập về mặt pháp lý với 3 ngân hàng tiết kiệm tương
hỗ (MSBs);
- 6/2000 Tiến hành sáp nhập về mặt pháp lý với 2 MSBs được KDIC cấp vốn.
Vì thế, tài sản của ngân hàng tăng từ 178 triệu $ lên 750 triệu $.
- 9/2001 phát hành cổ phiếu mới trị giá 17 triệu $;
- 12/2001 bắt đầu tích cực tham gia vào thị trường tín dụng vi mô (Đầu tư
tăng từ 28 triệu $ tới 132 triệu $ trong vòng 2 năm)
- 10/2002 Cấp một lượng lớn khoản vay tài chính dự án lớn (Đầu tư tăng từ
63 triệu $ tới 116 triệu $ trong vòng 1 năm)
- 7/2004 Một hãng kiểm toán độc lập phát biểu ý kiến ngược chiều về các tài

khoản ảo giá trị 49.3 triệu $. Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (FSC) tiến hành điều
tra vụ việc.
- 9/2004 Ủy ban giám sát tài chính quốc gia FSC chính thức công bố ngân
hàng này là tổ chức tài chính phá sản và quyết định tạm ngưng hoạt động kinh doanh
của tổ chức này.
Để giải quyết tình trạng thiếu hụt tín dụng suốt quá trình tái cấu trúc tài chính,
chính phủ thực hiện chính sách tự do hóa. Chính sách này loại bỏ tiêu chí phân loại
chất lượng tài sản nhằm thúc đẩy các khoản vay tín dụng vi mô trị giá ít hơn 3000$.
Chính sách này không kiểm soát chiến lược bán các khoản vay rủi ro cao lợi nhuận
cao, chẳng hạn thu trước các khoản phí bảo lãnh cao và tính lãi suất cao đối với các
khoản vay.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Các khoản cho vay tín dụng vi mô giá trị ít hơn 3000$ với lãi suất cao khoảng
39%-60% đòi hỏi các con nợ phải trả trước hơn 15% lãi suất, vì thế hứa hẹn nhận
được lợi nhuận cao trong một thời gian ngắn. Thiếu bảo lãnh khoản vay cho phép các
cá nhân không đủ tư cách nhận được các khoản cho vay từ MSBs.
Các khoản cho vay tài trợ dự án (PF) là những khoản vay bắc cầu có đảm bảo
bằng các bất động sản như cửa hàng hoặc trung tâm thương mại và chỉ cung cấp cho
các công ty xây dựng được chính phủ cấp phép kinh doanh và xây dựng. Yêu cầu cần
phải trả trước 8% phí bảo lãnh với tỷ lệ thanh toán là 18%. Các khoản cho vay PF
thường được cung cấp với giá trị lớn giao động trong khoảng 2 và 4 triệu $.
Ủy ban giám sát tài chính (FSC), quyết định ngân hàng H mất khả năng thanh
toán vào tháng 9/2004, sa thải các quản lý cũ, và bổ nhiệm 2 giám sát viên chịu trách
nhiệm quản lý. Ngân hàng H xếp hạng thứ 6 trong tất cả các Ngân hàng tiết kiệm
tương hỗ trên toàn quốc với tiền gửi trị tía 1 tỷ $, 58,000 người gửi tiền, 151 nhân viên
và 7 chi nhánh ở các khu vực khác nhau. Khi thâm hụt tài sản ròng lên tới 35% tổng
tài sản (256,6 triệu $), FSC đưa ngân hàng này ra đấu giá công khai.
Ban quản lý của KDIC hiện tại phải tìm phương pháp tiếp cận mới nhằm xử lý
Ngân hàng H. Theo thông lệ chung, KDIC phải chi trả tiền gửi và tuyên bố MSB phá

sản. Vấn đề khác là “cách thức giải quyết 38 triệu tiền gửi vượt hạn mức bảo hiểm”.
Hầu hết người gửi tiền có tiền gửi vượt hạn mức là các tổ chức của công chúng chẳng
hạn như các quỹ tài trợ cho trường trung học tư. Những tổ chức như vậy sẽ phá sản
nếu không bảo hiểm được tiền gửi vượt hạn mức chi trả nói trên.
Hoạt động giải cứu: Phương pháp M&A mới
Tháng 3/2005, KDIC thuê tư vấn và tổ chức đấu thầu công khai ngân hàng H
nhằm tìm kiếm tổ chức mua lại. Căn cú theo nguyên tắc ra quyết định, KDIC cho
phép tổ chức mua lại tiềm năng đề xuất điều kiện mua lại. Do đó, 2 MSB có điều kiện
tài chính lành mạnh đề xuất điều kiện để mua lại ngân hàng H.
Ngân hàng S và ngân hàng W muốn KDIC hỗ trợ tài chính cho hai tổ chức này
nhằm bù lại khoản thiếu hụt vốn ròng lần lượt là 355 triệu $ và 387,1 triệu $. KDIC
chọn ngân hàng S là bên thắng thầu do ngân hàng này đề nghị mức hỗ trợ tài chính ít
hơn.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Tháng 7 năm 2005, trong quá trình chuyển giao tài sản có và tài sản nợ của
ngân hàng H cho Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ Busan Solomon, một ngân hàng do
Ngân hàng S mới thành lập, KDIC đã thực hiện hỗ trợ tài chính trị giá 330 triệu USD
bằng tiền mặt (96%) và dưới dạng các khoản vay (4%).
Tổng số tiền gửi lên tới 928,8 triệu đô la (48.220 người gửi tiền), và tiền gửi
vượt quá mức chi trả tối đa 50.000 USD lên tới 58,2 triệu đô la (1164 người gửi tiền).
Khi ngân hàng S bày tỏ sự quan tâm muốn tiếp nhận tất cả các khoản tiền gửi kể cả
các khoản tiền gửi vượt quá hạn mức chi trả tối đa là 50.000 USD, tất cả các khoản
tiền gửi được chuyển cho Busan Solomon.
Nhằm giám sát việc quản lý tốt ngân hàng, KDIC cử các nhân viên thực hiện
việc kiểm tra tại chỗ trong vòng 2 năm, và Busan Solomon đã ký Biên bản ghi nhớ với
KDIC phải tuân thủ công tác giám sát của KDIC trong 5 năm.
Một ngân hàng MSB mới được thành lập trên cơ sở mua lại ngân hàng H bắt
đầu hoạt động từ tháng 7 năm 2005 với tên gọi Busan Solomon MSB. Ngân hàng mua
được biết đến với chiến lược hoạt động nhằm tăng vốn nhanh chóng rất tham vọng.

Sau khi mua Ngân hàng H, ngân hàng này tiếp tục mở rộng quy mô và lĩnh vực hoạt
động bằng cách mua thêm 2 ngân hàng tiết kiệm tương hỗ và một công ty chứng
khoán. Các điều kiệm tài chín một năm sau khi tiếp nhận được trở nên lạc quan hơn
với giá cổ phiếu ngày càng tăng và số lượng đáng kể thu nhập ròng.
1.6 Một số kết luận rút ra từ bài học kinh nghiệm của các nước:
- Thứ nhất, chủ động thực hiện M&A nhằm xây dựng hệ thống tài chính, ngân
hàng vững mạnh, hiện đại, thông qua các giải pháp hỗ trợ sáp nhập, hợp nhất tổ chức
nhỏ tạo ra các ngân hàng, tập đoàn tài chính lớn, hiện đại có thể phát triển an toàn, bền
vững trong điều kiện hội nhập.
- Thứ hai, trong mạng an toàn tài chính quốc gia cần phải chọn và chỉ định một
cơ quan đầu mối đứng ra chịu trách nhiệm chính thực hiện M&A; Cơ quan đầu mối
này phải được trao những quyền hạn đặc biệt về pháp lý, tư pháp để có thể chủ động
thực hiện M&A.
- Thứ ba, cơ sở pháp lý phải đầy đủ. Chức năng, quyền hạn của cơ quan được
giao nhiệm vụ làm đầu mối thực hiện nghiệp vụ M&A phải được ghi rõ trong các Luật
về Ngân hàng Trung ương, Luật các TCTD, Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
hàng, Luật Bảo Hiểm tiền gửi, Luật phá sản và các Luật khác có liên quan nhằm bảo
đảm tính đồng bộ của nghiệp vụ này.
- Thứ tư, Cơ quan đầu mối thực hiện M&A cần có đủ năng lực tài chính để có
thể hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt trường hợp xảy ra khủng hoảng hệ thống.
- Thứ năm, các cơ quan trong mạng an toàn tài chính quốc gia cần dự báo các
khả năng rủi ro và hoạch định chính sách thích hợp cho từng tình huống.
- Thứ sáu, các nhà hoạch định chính sách cần có bộ phận nghiên cứu chuyên
sâu về M&A tại nước mình để có cái nhìn tổng quát và sát thực hơn về đặc điểm của
các ngân hàng có xu hướng M&A. Từ đó, rút ra nhiều vấn đề cần quan tâm để thực
hiện thương vụ M&A một cách tốt đẹp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG SÁP NHẬP, HỢP NHẤT VÀ
MUA LẠI TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

2.1 Thực trạng hoạt động sáp nhập, hợp nhất và mua lại trong ngành ngân
hàng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1.1 Nguyên nhân:
Mua bán, sáp nhập ngân hàng có nguyên nhân chính là do hệ thống ngân hàng
yếu kém, chứa đựng những rủi ro làm ảnh hưởng đến hệ thống. Tình trạng yếu kém
hiện tại trong hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân phức
hợp, đan xen lẫn nhau, và diễn ra trong cả một quá trình kéo dài ít nhất từ vài năm
trước. Nổi lên trong đó là sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng
của hệ thống ngân hàng trong thời gian ngắn đi kèm với sự yếu kém về quản trị trong
từng ngân hàng, quản trị cả hệ thống ngân hàng, cũng như sự thiếu vắng các động cơ
khuyến khích các ngân hàng thực thi nghiêm túc việc đánh giá, công tác phòng ngừa
rủi ro đúng đắn. Chính khiếm khuyết về cấu trúc đó đã đẩy hệ thống ngân hàng lún
sâu vào khó khăn khi có các biến động vĩ mô mang lại từ bản thân các chính sách kinh
tế trong nước lẫn biến động đến từ bên ngoài.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Có ba tập hợp yếu tố dẫn đến sự cấp thiết của việc sáp nhập, hợp nhất và mua
lại trong ngành ngân hàng Việt Nam .
► Bùng nổ về số lượng, không đi kèm với gia tăng chất lượng:
Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 6 - 2011, tại Việt Nam có 5 NHTM
nhà nước; 1 Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam; 37 NHTM cổ phần tư nhân; 48
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam; 5 ngân hàng liên doanh; 5 ngân hàng
100% vốn nước ngoài; 48 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài; 17 Cty tài chính;
13 Cty cho thuê tài chính. Sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng trong
những năm gần đây, nhưng không đi kèm với sự tăng cường, hoàn thiện công tác quản
lý và phòng ngừa rủi ro, quản trị ngân hàng, xem nhẹ công tác phòng ngừa rủi ro,
chạy theo tăng trưởng tín dụng ở những lĩnh vực biến động như chứng khoán, bất
động sản cũng như sự không minh bạch thẳng tay của công tác thanh tra giám sát
của NHNN.
Mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thấp so với hệ thống

ngân hàng trong khu vực. Sự lớn mạnh của quy mô vốn, tài sản và tốc độ tăng trưởng
của nguồn vốn dần đáp ứng được tốc độ tăng trưởng của tài sản đã góp phần cải thiện
tỷ lệ an toàn vốn qua từng năm. Hiện nay, tỷ lệ này của Việt Nam trên thực tế đã đáp
ứng đủ yêu cầu về an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế Basel II (8%). Mặc
dù vậy, nếu so sánh với mức bình quân 13,1% của các ngân hàng khu vực châu Á
Thái Bình Dương (gồm 52 ngân hàng thuộc 10 nước) và với tỷ lệ 12,3% của các ngân
hàng của các nước châu Á mới nổi (gồm 14 ngân hàng Thái Lan, Indonesia, Malaysia,
Philippines) thì tỷ lệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn rất
nhiều (giữ ở mức trên 10% với các NHTM lớn, riêng khối các NHTMNN vẫn chỉ đạt
9,6%).
► Bất cân đối cơ cấu và rủi ro đạo đức:
Tập hợp yếu tố thứ hai làm tăng tính dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng
Việt Nam là sự bất cân đối về thị phần cũng như sở hữu chi phối, rủi ro đạo đức, và
thiếu vắng cơ chế khuyến khích thực thi các biện pháp quản trị đúng đắn.
Mặc dù số lượng ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng gần đây, có thể nói hệ
thống ngân hàng Việt Nam vẫn bị chi phối bởi một số "ông lớn" ngân hàng thương
mại nhà nước vốn chiếm thị phần đa số trong thị trường ngân hàng. Tuy nhiên, sự tập
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
trung quá mức này cũng sẽ chẳng có gì đáng nói nếu đi kèm với nó là động lực
khuyến khích các hoạt động đúng đắn. Sự bất đối xứng còn hiện diện ngay trong cơ
cấu sở hữu của một ngân hàng thương mại, nơi một hoặc một vài cá nhân cổ đông vẫn
chiếm đa số cổ phần của ngân hàng. Sự tập trung quá mức này còn dẫn đến tình trạng
bất đối xứng thông tin giữa các cổ đông và vì thế những cổ đông chi phối là người
hưởng lợi. Cho dù việc cung cấp thông tin là bắt buộc thì thông tin cung cấp cũng
không được đảm bảo là chính xác do công tác kiểm toán và các tiêu chuẩn kế toán yếu
kém.
Rủi ro đạo đức tồn tại phổ biến trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua
việc Chính phủ trực tiếp can thiệp, chỉ đạo, hoặc bảo lãnh cho vay một số dự án,
doanh nghiệp, ngành nghề, bộ phận kinh tế nào đó, dẫn đến việc các ngân hàng cho

vay mà không cần bận tâm đến tính khả thi của dự án, khả năng sống còn của doanh
nghiệp (đây cũng có thể coi là biểu hiện của việc tước đi động cơ buộc ngân hàng thực
thi chính sách phòng ngừa rủi ro đúng đắn). Theo đó là cho vay quá mức, lợi nhuận
thấp, dòng tiền hạn chế, và kết cục phát sinh các khoản nợ xấu. Rủi ro đạo đức cũng
phát sinh từ việc Chính phủ tuyên bố công khai sẽ cứu giúp các ngân hàng có nguy cơ
mà không hề đưa ra một lộ trình thoái lui nào. Bảo hiểm tiền gửi công khai và ngầm
định cũng là một nguồn khác cho rủi ro đạo đức, làm cho giới quản lý ngân hàng ở
Việt Nam càng thêm mạo hiểm đầu tư vào những lĩnh vực đầy rủi ro mà họ sẽ không
bao giờ dám làm khi khác đi.
► Tính hai mặt của chính sách vĩ mô và hội nhập:
Tập hợp yếu tố thứ ba góp phần tạo ra sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng là các
chính sách kinh tế vĩ mô và sự hội nhập tài chính.
Chính sách kinh tế vĩ mô:
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro
đó tích tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ
mô, khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, thị trường chứng khoán và thị trường bất động
sản lao dốc. Cho đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với những rủi
ro ngày một gia tăng, nổi bật là:
- Rủi ro tín dụng: Trong những năm trước, nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế,
chính sách tiền tệ và tài khóa được nới lỏng tối đa và tín dụng vì thế tràn ngập nền
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
kinh tế. Một mặt để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp và người dân trong khi nguồn vốn kinh doanh lại dựa chủ yếu vào hệ
thống ngân hàng nên tổng tín dụng cho nền kinh tế đã tăng rất nhanh, thậm chí đã có
hiện tượng “tín dụng nóng” khi tốc độ tăng tổng tín dụng hằng năm thường xuyên trên
dưới 30%, thậm chí có năm lên tới trên 50% như năm 2007. Hơn nữa, do sự hấp dẫn
của thị trường bất động sản (BĐS) và thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua
nên nhiều NHTM đã tập trung quá nhiều vốn cho những thị trường đầy rủi ro này, góp
phần không nhỏ vào thổi phồng “bong bóng” BĐS và chứng khoán. Khi thị trường

BĐS và chứng khoán đảo chiều đi xuống thì rủi ro tín dụng sẽ tăng cao. Mặt khác, do
một số NHTM mới thành lập nên mặc dù quy mô vốn không lớn song vẫn cần tăng
nhanh quy mô tín dụng để quy mô tài sản có phù hợp với quy mô vốn, đồng thời đáp
ứng yêu cầu lợi nhuận của cổ đông cũng như thỏa mãn tham vọng nhanh chóng vươn
lên bằng các NHTM có quy mô lớn hơn. Trong điều kiện đó, một số NHTM đã bất
chấp các quy tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc độ tăng tín dụng tới hàng
chục phần trăm mỗi năm, kể cả tín dụng cho những lĩnh vực rủi ro cao như chứng
khoán và BĐS.
Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, khi người vay nợ gặp khó khăn thì rủi ro
tín dụng sẽ gia tăng, nhất là khi ngân hàng quá dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho vay
và không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ. Khi lạm phát đã có dấu
hiệu nguy hiểm thì gánh nặng kiềm chế lạm phát lại bị dồn lên vai chính sách tiền tệ.
Lãi suất tăng cao, còn tín dụng cho chứng khoán và bất động sản bị thắt lại. Khi Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) quyết định thắt chặt tín dụng cho BĐS, chứng khoán và tiêu
dùng xuống mức 22% tổng tín dụng vào giữa năm 2011 và mức 16% vào cuối năm
2011 thì rủi ro tín dụng của những NHTM này tăng vọt. Giá chứng khoán và bất động
sản sụt giảm làm cho giá trị các khoản thế chấp cũng sụt giảm tương ứng. Đi kèm với
đó là tình trạng nhiều nhà đầu cơ mất khả năng thanh toán đã làm tăng tỷ lệ nợ xấu
trong lĩnh vực này và làm xấu đi nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của nhiều ngân
hàng. Hậu quả là tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng tăng mạnh. Theo công bố của NHNN,
tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng từ 2,2% tổng tín dụng vào cuối năm
2010 lên 3,1% vào giữa năm 2011, trong đó, gần một nửa là nợ xấu có khả năng mất
vốn.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Rủi ro thanh khoản: Do một số NHTM có tốc độ tăng dư nợ tín dụng quá cao
trong khi quy mô vốn còn hạn chế nên tính thanh khoản của những NHTM này xuống
thấp, thậm chí có những thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả là để đảm bảo tính
thanh khoản, một số NHTM đã phải chấp nhận lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
lên tới 20-30%/năm, thậm chí trên 40%/năm bất chấp lãi suất tái chiết khấu do NHNN

công bố hiện nay chỉ là 13%/năm. Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến
hàng chục nghìn tỷ VND trên thị trường mở và thị trường liên ngân hàng (LNH) để
bảo đảm thanh khoản cho toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản còn đi đôi với rủi ro kỳ
hạn khi tuyệt đại đa số vốn huy động có kỳ hạn ngắn, thậm chí rất ngắn, song các
NHTM lại cấp tín dụng ở tất cả các kỳ hạn với một tỷ lệ không nhỏ dành cho vay
trung và dài hạn.
- Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái: Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm
phát cao và những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ thống
NHTM trước những rủi ro rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn, đột ngột về lãi
suất, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay cùng với những biện pháp điều hành lãi
suất còn mang nặng tính hành chính đã khiến cho các ngân hàng thương mại thường
xuyên trong trạng thái đối phó, khi thì chạy đua tăng lãi suất huy động, khi lại giữ lãi
suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến động lãi suất, hiện tượng “vượt trần,
phá rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến làm giảm hiệu lực của các chính sách
tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của không ít cán bộ quản lý cũng
như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng… do đó hoạt động của không ít
NHTM rất bấp bênh, chênh vênh giữa trạng thái lãi - lỗ, kỷ luật kinh doanh không
được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Bên cạnh đó, do tình
trạng đô-la hóa chậm được khắc phục, cộng với việc phát sinh thêm tình trạng vàng
hóa với cả trăm tấn vàng được các NHTM huy động song không được sử dụng có hiệu
quả nên các NHTM Việt Nam còn phải đương đầu với rủi ro tỷ giá hối đoái và cả rủi
ro giá vàng. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2011 mà tỷ giá hối đoái VND/USD đã tăng
trên 10%, trong khi do chênh lệch lãi suất giữa cho vay VND và USD tới trên
10%/năm nên tín dụng ngoại tệ đã tăng rất nhanh trong thời gian qua. Cũng trong thời
gian đó, giá vàng cũng đã tăng tới 25%, có thời điểm lên tới hơn 49 triệu VND/lượng.
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay
Những biến động đó đã tác động rất mạnh tới mức độ an toàn của cả tài sản Có và tài
sản Nợ của các NHTM
Lãi suất VND cao còn dẫn đến chênh lệch lãi suất cho vay bằng VND và USD

tăng lên trong khi NHNN tuyên bố là sẽ giữ ổn định tỷ giá. Trong môi trường đó, các
doanh nghiệp và ngân hàng được khuyến khích vay nước ngoài, vay bằng ngoại tệ
thay vì nội tệ (trong khi nguồn thu trả nợ lại bằng nội tệ) và không bận tâm đến việc
phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá. Nếu trong những tháng tới, tỷ giá vì một lý do nào
đó tăng vọt, chắc chắn tỷ lệ nợ xấu của những con nợ vay bằng ngoại tệ nhưng lại có
nguồn thu chủ yếu bằng nội tệ sẽ tăng vọt.
- Hội nhập tài chính :
Hội nhập tài chính cũng là một lý do quan trọng làm tăng khả năng bị tổn
thương của hệ thống ngân hàng nội địa. Sự cho phép thành lập và hoạt động các ngân
hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, một mặt, mang lại những lợi
ích thiết thực như chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, mặt khác lại làm tăng
tính cạnh tranh trong hệ thống. Do sự ưu việt hơn trong hoạt động và tập trung vào
khu vực doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước hàng đầu, các ngân hàng
nước ngoài đã lấn át các ngân hàng nội địa ở phân khúc này, buộc các ngân hàng nội
địa phải lấn sâu thêm vào phân khúc hạng trung gồm những doanh nghiệp hạng hai,
doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân, là phân khúc tất nhiên có độ rủi ro
cao hơn.
Như một vòng lẩn quẩn, vì rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường áp dụng
lãi suất cao hơn cho các đối tượng vay này (không hiếm khi vượt quá sức chịu đựng
của họ khi có biến động vĩ mô) và dùng thế chấp là bất động sản hay một số tài sản có
tính thanh khoản khác. Hai yếu tố này sẽ làm ngân hàng dễ bị tổn thương hơn nữa
trong môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn với lãi suất tăng cao và giá bất động sản giảm
dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng thêm.
Ngoài ra ngân hàng nội địa còn cạnh tranh với nhau theo khu vực địa lý, mở
thêm nhiều chi nhánh và địa điểm giao dịch ở những vùng sâu, vùng xa hơn, đồng
nghĩa chi phí hoạt động tăng lên trong khi mức độ rủi ro cũng tăng lên.
Tóm lại, chúng ta phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để khắc phục những yếu
kém tồn tại trong hệ thống, nhằm lành mạnh hóa toàn bộ hệ thống ngân hàng, đảm bảo
Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Xu hướng và giải pháp trong M&A ngân hàng trong giai đoạn hiện nay

hệ thống hoạt động an toàn, thông suốt, trở thành kênh dẫn vốn đáng tin cậy và hiệu
quả, giảm thiểu các rủi ro, đặc biệt là giảm rủi ro tín dụng, giảm tỷ lệ nợ xấu, tăng tính
thanh khoản và tăng khả năng quản trị rủi ro của từng NHTM cũng như toàn hệ thống.
Muốn vậy, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng phải được đặt trong một chương trình tổng
thể với những nguyên tắc nhất quán, có những hình thức, lộ trình cơ cấu lại một cách
cụ thể, khả thi, đồng thời gắn bó chặt chẽ với chương trình cơ cấu lại nền kinh tế, đặc
biệt là cơ cấu lại các doanh nghiệp và cơ cấu lại đầu tư.
2.1.2 Thực trạng:
Có không ít ý kiến cho rằng, cần phải coi việc phá sản ngân hàng là chuyện
bình thường như phá sản doanh nghiệp, nhưng đối với một lĩnh vực hoạt động nhạy
cảm và có tính lan truyền rộng như lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thì việc phá sản ngân
hàng sẽ để lại rất nhiều hệ lụy cho cả nền kinh tế, nhất là đối với một nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng với dư nợ tín dụng chiếm khoảng 120% GDP và
vốn tự có của các ngân hàng hiện vẫn còn quá mỏng so với các nước trên thế giới và
khu vực. Đối với bất kỳ quốc gia nào, kể cả các nước phát triển, đây chỉ là giải pháp
cuối cùng khi chính phủ của các quốc gia này không thể nâng đỡ nổi các ngân hàng và
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng không còn hiệu quả nữa. Ngay cả với cường
quốc như Mỹ thì việc phá sản của các ngân hàng thời gian qua đã để lại rất nhiều hệ
lụy về kinh tế - xã hội cho quốc gia này. Vì vậy, phá sản, giải thể ngân hàng sẽ chưa
được các nhà quản lý Việt Nam tính đến trong bối cảnh hiện nay.
Vì vậy, giải pháp phù hợp nhất để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là sáp nhập,
hợp nhất, mua lại giữa các ngân hàng. Quá trình này không chỉ diễn ra giữa các ngân
hàng yếu với ngân hàng mạnh hay giữa các ngân hàng yếu với nhau mà bản thân giữa
các ngân hàng mạnh cũng cần có sự liên kết, sáp nhập, hợp nhất để tạo ra những ngân
hàng lớn mạnh hơn, đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế
giới. Nhất là khi sự hiện diện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam gia tăng.
Quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là không phân biệt ngân hàng nhỏ hay
ngân hàng lớn mà chỉ phân biệt ngân hàng mạnh hay ngân hàng yếu. Mục tiêu của quá
trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là nhằm: (i) tạo ra một hệ thống ngân hàng lành

Nhóm 9_TCDN đêm 1 PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn

×