Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

hàn quốc trong trào lưu công nghiệp hoá ở đông á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.06 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay có rất nhiều nước đã thành công trong việc phát
triển kinh tế của mình. Trong chuyên đề này chúng tôi đề cập đến
Hàn Quốc là một trong những nước đi đầu trong trào lưu công
nghiệp hoá ở Đông Á. Hàn Quốc đã tập trung cao độ những công
ty lớn và những mục tiêu đầy tham vọng nhất.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế sau thời kỳ
mở cửa Việt Nam đang triển khai kinh nghiệm và vận dụng sáng
tạo chúng phù hợp với hoàn cảnh chúng ta hiện nay.
Tôi hy vọng chuyên đề này có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo, phục vụ tốt công tác nghiên cứu góp phần vào quá
trình hoạch định chính sách, xây dựng đất nước Việt Nam ngày
càng phồn thịnh.

1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CON NGƯỜI, ĐẤT NƯỚC HÀN QUỐC SAU
CHIẾN TRANH
Cuộc chiến tranh Triều Tiên, có lẽ được xem là cuộc chiến mang tính
huỷ diệt nhất trong lịch sử thế giới, đã tàn phá Nam Triều Tiên cũng như
Bắc Triều Tiên. Seoul đã đổi chủ đến bốn lần, mỗi lần là một cuộc chiến
khốc liệt. Chỉ có một phần nhỏ của xứ sở, ở miền đông nam, là không bị
phương Bắc xâm phạm. Trong số hai mươi triệu người Nam Triều Tiên khi
chiến tranh chấm dứt vào năm 1953, khoảng 1/4 là những người phiêu tán
không cửa không nhà, hầu như không có của cải. Trên 1 triệu thường dân và
320.000 binh sĩ ở miền Nam đã hy sinh. Một đại đa số những người tử vong
là những người trai tráng mà nếu còn sống họ sẽ đóng góp cho lực lượng lao
động và cho thu nhập của gia đình họ.


Vào năm 1953, Nam Triều Tiên có một cơ sở công nghiệp thậm chí
còn èo oặt hơn của Đài Loan năm 1949. Nam Triều Tiên đã không đạt được
mức tổng sản lượng quốc dân GDP là 100 USD một năm cho đến năm 1963.
Tại Triều Tiên, người Nhật đã thuần hoá sông Yalu vào thập niên 1930 bằng
cách xây dựng những nhà máy thuỷ điện cực lớn, cung cấp 90% điện năng
của cả nước Triều Tiên. Nhưng khi đất nước bị phân đôi tất cả những
phương tiện này đã thuộc về Bắc Triều Tiên.
Tại Nam Triều Tiên, đường biên giới mới tại vĩ tuyến thứ 38 đã phân
cách giả tạo đất nước thành hai nửa mà dưới thời cai trị của người Nhật đã
phát triển như một nền kinh tế bổ túc nhau. Các nhà lãnh đạo chính trị đã bắt
đầu phát triển các mối liên kết đất nước vào cuối thập niên 1940, giờ đây lại
phải xây dựng một căn bản chỉ trong miền Nam. Các công ty đã phải định
hướng lại những tuyến cung cấp và thị trường của mình.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

II. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ
1. Xây dựng nền tảng cho cuộc công nghiệp hoá
1.1 Sự đoàn kết.
Các nhà lãnh đạo thực dân Nhật Bản không hề dành cho người Triều
Tiên có dịp để ngoi lên những vị trí lãnh đạo đích thực. Syngman Rhee
người đã nắm nền chính trị của Nam Triều Tiên từ cuối thế chiến thứ hai
cho tới năm 1960, là một nhà nhà ái quốc đã qua thử thách. Ông đã bị tù đày
từ năm 1898 đến 1904 vì hoạt động yêu nước, và từ lâu đã bảo vệ chính
nghĩa của Triều Tiên các cơ quan quốc tế như Hội Quốc Liên.
Kể từ hậu bán thế kỷ 19, Triều Tiên đã bị xâu xé vì những cuộc nổi dậy
ở một mức độ to lớn. Các phong trào phản kháng thường đề xuất chuyện
công bằng xã hội và chính quyền nhân đạo nhưng lại chẳng hề kêu gọi các
nhà đầu tư xét đến chuyện xây dựng hay khuếch trương các nhà máy. Vào
mùa xuân 1919, người Nhật đã thẳng tay đàn áp phong trào đòi quyền độc

lập.
Vào cuối thập niên 1950, những cuộc dấy động của công chúng chống
lại Syngman Rhee đã tăng cho đến khi họ lật đổ được chính quyền của ông
ta vào tháng 4 năm 1960. Phác Chính Hy đã nắm được quyền lực vào năm
1961 thông qua một cuộc đảo chính quân sự và đã củng cố quyền hành của
mình bằng sự đàn áp đối lập mạnh mẽ. Nhiều người đã lo sợ rằng sự mất
đoàn kết sẽ khiến cho miền Nam dễ làm mồi cho cuộc tiến công của miền
Bắc.
Sau khi đất nước bị phân đôi, miền Bắc đã bắt đầu bằng một cơ sở
công nghiệp khá đồ sộ, có được nguồn viện trợ của Liên Xô. Quyết định
giảm bớt viện trợ kinh tế của Mỹ trong thập niên 1960, tiếp đó là sự ra đời
của học thuyết Nixon trong thập niên 1970 nhằm làm giảm sự hiện diện về
quân sự của Mỹ tại Châu Á và việc Caacter tỏ ý muốn rút quân đội Mỹ ra
khỏi Triều Tiên đã kích thích mạnh mẽ cho Nam Triều Tiên tìm kiếm một
căn bản kỹ nghệ độc lập thích đáng hỗ trợ cho những nỗ lực phòng thủ đất
nước của riêng mình.
1.2. Nguồn nhân lực có động cơ và có kỷ luật.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Trong những nỗ lực để công nghiệp hoá, Nam Triều Tiên ngoài diện
tích rộng lớn còn có lợi thế dân chúng rất có kỷ luật, một ý thức dân tộc rất
sắc nét, và một sức sống dân tộc rất mạnh mẽ.
Quyết tâm và sức sống của người Triều Tiên có thể là khó đo lường
chính xác, nhưng dẫu sao những điều đó cũng là có thực. Quyết tâm của xứ
sở này rõ ràng là đã được tôi luyện do chế độ thực dân áp bức của Nhật Bản
trước kia và cuộc chiến tranh Triều Tiên khốc liệt, và nó lại càng kiên cố
hơn khi người Nam Triều Tiên đạt được niềm tin từ sự thành công kinh tế
của họ. Ở thời điểm đỉnh cao của tốc độ phát triển của tốc độ phát triển của
Nhật Bản, người Nhật Bản trung bình chưa bao giờ làm việc đến 50 giờ một

tuần. Trong suốt thời phát triển nhanh chóng của Nam Triều Tiên, tuần làm
việc đã lên tới mức 60 giờ một tuần, và vào cuối thập niên 1980 tuần làm
việc vẫn tiếp diễn ở mức bình quân 55 giờ, nhiều hơn 10 giờ một tuần so với
bất kỳ một nước công nghiệp hoặc đang công nghiệp hoá nào khác. Hàn
Quốc đã bắt đầu xúc tiến công nghiệp hoá trong năm 1965 với trình độ công
nghệ và đồng lương khá thấp hơn nhiều so với Nhật Bản năm 1955 và thế là
đã đạt được sức cạnh traanh kỹ nghệ bằng các nỗ lực cá nhân rất lớn. Trong
các đề án xây dựng ở Trung Đông, các công nhân Triều Tiên là vô địch về
mức sẵn sàng làm việc nhiều giờ dưới một khí hậu nóng như thiêu đốt.
Trong những năm gần đây, nhiều người Nhật tiếc cho sự suy tàn về đạo đức
lao động của người Mỹ, nhưng những lời bình của họ về Triều Tiên thì lại
giống y như các than phiền của người Mỹ về người Nhật " Người Triều
Tiên, một số người Nhật nói, làm việc dai đến độ không ngờ nổi, như là
người máy vậy. Họ có một " tinh thần khao khát " và không ngớt cuỗm mất
những bí mật công nghiệp của ta ".
Người Hàn Quốc tiếp cận với học vấn cũng với lòng sốt sắng tương tự.
Vào thời điểm độc lập, gần nửa dân số Triều Tiên là mù chữ, nhưng không
có xứ nào lại có bước tiến nhanh về học vấn hơn họ, đặc biệt là trong học
vấn đại học. Và cũng không có thanh niên nước nào sốt sắng bằng họ trong
việc theo đuổi tri thức và thông tin, chủ yếu là từ Mỹ và từ Nhật Bản lẫn từ
Châu Âu. Các sinh viên không hề thua kém bất kỳ ai trong chuyện chuẩn bị
các kỳ thi vào đại học. Số lượng các sinh viên trong các trường đại học tại
Mỹ và Nhật Bản gộp lại nhiều hơn bất kỳ nước nào khác, và một phần lớn
đã quay trở về đất mẹ của họ, đặc biệt trong những năm gần đây khi kỹ năng
của họ đang có nhu cầu lớn. Người Hàn Quốc đã thu thập thông tin không
chỉ trong khoa học kỹ thuật, mà cả trong kinh tế học và các khoa học xã hội
khác, lẫn trong các khoa nhân văn. Thế là họ đã thu được, không chỉ thông
tin chuyên biệt, mà cả một cảm thức rộng rãi về sự phát triển của lịch sử.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


1. 3. Kiến thức về Nhật Bản.
Không có nước nào bằng Hàn Quốc hiểu cặn kẽ về chính quyền doanh
nghiệp, kỹ thuật học và thậm chí ngôn ngữ của người Nhật. Dưới thời cai trị
của người Nhật, người Triều Tiên đã không nắm được các chức vụ hàng đầu
trong chính quyền hay trong những công ty lớn, nhưng một số đã học được
về tổ chức lớn trong khi đang giữ những chức vụ thấp hơn, và một số khác
đã đứng đầu các công ty nhỏ làm ăn với các công ty của Nhật. Trong năm
1990, 250. 000 học sinh trung học là đang học tiếng Nhật, chiếm xấp xỉ 70%
tổng số học sinh trung học không phải là người Nhật trên toàn thế giới đang
học tiếng Nhật. Pắc Chung Hy người đã cai trị Nam Triều Tiên từ 1961 đến
1979, từng theo học một học viện quân sự của người Nhật và đã phục vụ 2
năm trong quân đội Mãn Châu trong thế chiến thứ 2 với cấp bậc trung uý.
Ông ta và nhiều người đồng thế hệ với ông không chỉ có mối thiện cảm với
sự tổ chức của người Nhật, mà còn duy trì cả những quan hệ mật thiết tại
nước Nhật. Sau cuộc phát triển kinh tế bắt đầu vào giữa thập niên 1960
cộng với chuyện miền Pusan của Hàn Quốc gần sát với Shimonoseki của
Nhật Bản, và phát thanh truyền hình, ấn phẩm của Nhật Bản đã đầy rẫy, thì
sự giao tiếp với khoảng 600. 000 đến 700. 000 người Triều Tiên vẫn đang
sống ở nước Nhật đãgiúp cho người Triều Tiên tiếp cận tốt với thông tin của
người Nhật Bản.
Bởi cả độ sâu thấm nhuyễn của người Nhật Bản lẫn chất áp bức của
chủ nghĩa thực dân Nhật, mà Hàn Quốc đã có một tình cảm vừa yêu vừa
ghét sâu đậm. Trong bất cứ tình huống nào, trong từng lĩnh vực một không
có nước nào hưởng lợi từ việc hiểu được sự thành công của Nhật Bản cho
bằng Hàn Quốc
1. 4. Nông nghiệp có hiệu năng.
Sau khi thoát khỏi sự cai trị của người Nhật Bản, Nam Triều Tiên đã
thực thi cuộc cải cách ruộng đất, và với sự hỗ trợ của người Mỹ, đã tiến
hành một chương trình năng động để canh tân nông nghiệp. Năm 1961 khi

cuộc công nghiệp hoá bắt đầu, gần 2/5 tổng sản lượng quốc gia của Hàn
Quốc là xuất phát từ nông nghiệp và nông nghiệp vẫn xoay quanh chuyện
trồng lúa vào những năm sau chiến tranh Triều Tiên, sản xuất nông nghiệp
đã gia tăng cực nhanh hơn cả thời kỳ trước thế chiến thứ 2. Vào thập niên
1970, Hàn Quốc đã đạt được năng suất lúa trên mỗi hecta cao nhất, so với
bất kỳ nước nào trên thế giới. Năng suất nông nghiệp không chỉ giúp họ
không phải nhập khẩu lương thực mà còn cho phép một số nông gia mở các
xưởng công nghiệp nữa.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

2. Cách tiếp cận công nghiệp hoá của nhà nước
Cuộc gấp rút hướng đến công nghiệp hoá của Hàn Quốc đã khởi đầu
nghiêm chỉnh từ năm 1961. Nỗ lực của Hàn Quốc để công nghiệp hoá đã
dựa vào một số nhà lãnh đạo quân sự mạnh muốn dồn sức cho việc phát
triển kinh tế, một số sĩ quan quân đội trẻ có đầu óc kinh doanh, một giới thư
lại thiếu kinh nghiệm nhưng lại có tài, một cơ sở rộng rãi gồm những thương
nhân có kỷ luật sẵn sàng làm việc để xây dựng một căn bản kinh tế cho cuộc
phòng vệ chống miền Bắc và một quyết tâm của đất nước muốn bắt kịp các
thành công của người Nhật.
Khi Phác Chung Hy nắm quyền vào tháng 5 năm 1961, ông đã quyết
định rằng sau khi không còn viện trợ của Mỹ nữa thì Hàn Quốc cần phải có
năng suất hàng hoá cần thiết cho cuộc phòng thủ đất nước. Ông muốn cải
thiện đời sống của dân chúng đang chịu cảnh nghèo đói, và ông đã nhận
thức rằng mình cần đến sự tiến bộ kinh tế để bảo vệ vị trí chính trị của mình
chống lại những ai xem việc nắm quyền của ông là bất hợp pháp. Ông đã
xem sự tiến bộ kinh tế là một sứ mệnh. Trong 100 ngày đầu tiên của mình
ông đã thành lập một Uỷ ban hoạch định kinh tế để điều phối việc triển khai
nhanh chóng và công bố kế hoạch 5 năm lần thứ nhất sẽ bắt đầu vào tháng 1
năm 1962.

Hăm hở phát triển kỹ nghệ và biết rằng khi người Mỹ bắt đầu rút khỏi,
Hàn Quốc sẽ phải xuất khẩu để mua trang thiết bị nhằm sản xuất ra hàng hoá
của riêng mình. Phác vào năm 1961 đã tức thời bắt đầu khuyến khích sản
xuất công nghiệp cho xuất khẩu. Hàn Quốc trong sự gấp rút của mình đã tức
thời lao ngay vào việc phát triển công nghiệp định hướng cho việc xuất khẩu
trong khi việc thay thế nhập khẩu vẫn còn ở những bước ban đầu. Chính phủ
bắt đầu đề ra các chỉ tiêu xuất khẩu cho các công ty và cung ứng tài nguyên
cần thiết để giúp họ thực hiện những chỉ tiêu đó và các công ty đã làm việc
theo đó. Năm 1962, Hàn Quốc đã xuất khẩu tổng giá trị hàng hoá là 42 triệu
USD và chỉ có 9 triệu USD là hàng chế biến. Vào năm 1970, Hàn Quốc đã
xuất khẩu 1 tỷ USD giá trị hàng hoá, và vào những năm 1981 là 21 tỷ USD
gần như hoàn toàn là hàng chế tạo.
Đỉnh quyền lực Phác đã tuyển một nhóm gồm các nhà điều hành doanh
nghiệp có khả năng và các kỹ trị gia kinh tế họp đều đặn với ông. Ông cũng
bắt đầu gặp gỡ với một nhóm khoảng 50 cố vấn học giả, nhưng khi thấy
rằng một số lời khuyên của họ thiếu thực tiễn, chẳng lâu sau ông đã giải tán
nhóm này và thuê một ít người trong số họ làm phụ tá trong Hội đồng tối
cao của ông. Ông nổi tiếng là người biết nghe lời khuyên của những người
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hiểu biết, mau chóng học hỏi và làm những gì cần phải làm cho nền kinh tế.
Chính quyền thì nhỏ nên các quyết định vẫn được tập quyền cao độ. Nếu
Tưởng Giới Thạch giống như một vị chủ tịch hội đồng cho phép các siêu kỹ
trị gia của mình quyền tự trị đáng kể trong việc phát triển kinh tế, thì Phác
Chung Hy lại giống như một viên tướng đang ở tại trận tiền, tự mình đưa ra
những quyết định quan trọng.
Một số những người ủng hộ sớm nhất của Phác Chung Hy là những
viên tướng quân sự, gốc từ Bắc Triều Tiên đã từng phục vụ chung với ông
trong quân đội Mãn Châu. Nhưng ông ta và những người thuộc số đang trở

thành những cộng sự những doanh gia lẫn những viên chức quân sự thân cận
nhất của ông ta đều có gốc từ Kyongsang-do, miền đông nam của bán đảo
Triều Tiên. Phác đã lớn lên gần Taegu, trạm dừng chính đầu tiên ở phía Bắc
cảng Pusan trên tuyến đường sắt quan trọng đi Seoul, do người Nhật xây
dựng và về sau đã mở rộng sang Mãn Châu. Và vào lúc Phác trưởng thành,
miền này đã được thương mại hoá hoàn toàn, chịu ảnh hưởng sâu đậm của
người Nhật, thế là ông ta và bè bạn mình đã lớn lên với một sự hiểu biết
rành về phát triển kinh tế hơn so với hầu hết lớp trẻ ở những miền khác.
Phác thường thông qua các bạn bè để lựa chọn những cố vấn mà ông có thể
tin được, nhưng không như Syngman Rhee, ông ta đủ mạnh để kháng lại
những bạn bè kém khả năng vốn chỉ muốn được khen thưởng thôi, và tuyển
những ai có thể làm được việc.
Các cố vấn kinh tế ngoại quốc chính yếu cho Hàn Quốc từ cuối chiến
tranh Triều Tiên cho đến 1965 là người Mỹ. Người Mỹ góp một vai trò
trong việc canh tân nông nghiệp và trong việc xây dựng lại đường xá cầu
cống, trong việc củng cố các bờ sông làm tăng điện năng và nhập khẩu công
nghệ mới. Vào giữa thập niên 1960 khi Hoa Kỳ dần kết thúc chương trình
viện trợ và khi Phác bắt đầu bình thường hoá quan hệ với Nhật Bản, vai trò
của Nhật nhanh chóng trở nên quan trọng. Nhật Bản bắt đầu mở rộng các
khoản cho vay và Phác cùng với cộng sự của mình đã quay sang Nhật Bản
để tìm kiếm công nghệ, thiết bị sản xuất và một mô hình toàn cục cho sự
phát triển. Tuy nhiên chuyện các tình cảm bài Nhật nổi lên năm 1965, khi
các sinh viên biểu tình chống Phác vì quay lại bang giao với Nhật, đã khiến
cho các viên chức chính quyền không tiện nói hết về mức gần gũi đích thực
của các quan hệ kinh tế của Nam Triều Tiên với Nhật.
Hàn Quốc bắt đầu công nghiệp hoá với một căn bản kỹ thuật và một
mức sống cực kỳ thấp kém. Bởi có ít kỹ nghệ ngoại trừ ngành dệt ở miền
Nam trước chiến tranh Triều Tiên, nên Hàn Quốc đã thiếu những kỹ sư và
những nhà quản trị có kinh nghiệm để giúp cho việc tái thiết. Quyết tâm tiến
bước với tốc độ nhanh nhất có thể được, chính phủ Hàn Quốc đã vay của

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nước ngoài rất nhiều. Người Hàn Quốc lao vào các dự án ngay khi các kế
hoạch hoặc kỹ thuật học cần thiết đều chưa sẵn sàng hẳn đâu vào đó và rồi
ứng biến, làm việc đến hết sức chịu đựng để giải quyết bất kỳ vấn nạn nào
phát sinh. Đôi khi sự hành động mau chóng là cần thiết và trong những tình
huống như thế Hàn Quốc đã được lợi từ đẳng cấp tập quyền của mình và
một vị tổng thống tích cực, một con người hành động dứt khoát và đã thi
hành các kế hoạch mà không hề trì hoãn.
Đường lối tiếp cận của Hàn Quốc bắt đầu bằng cuộc hiện đại hoá bằng
cách củng cố nông nghiệp và cơ sở hạ tầng rồi chuyển sang sản xuất nông
nghiệp. Vào đầu thập niên 1960 Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển sang sản
xuất phân bón nhằm thay thế nguồn cung cấp mà trước kia lấy từ miền Bắc
hay từ nước ngoài. Họ cũng bắt đầu sản xuất ra máy móc nông nghiệp và
tăng cường các cơ sở hạ tầng bằng cách canh tân các xa lộ, các cảng và
phương tiện giao thông. Với công cuộc đô thị hoá, đất nước đã bắt đầu phát
triển một cơ sở hạ tầng đô thị, và khi sản lượng công nghiệp đã vượt qua sản
lượng nông nghiệp, họ đã hướng đến trong các thập niên 60 và 70, việc tổ
chức các cộng đồng nông thôn để khuyến khích phát triển nông thôn mà
không đè nặng lên ngân sách quốc gia. Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng Hàn
Quốc đã cố gắng nhanh chóng sản xuất hàng hóa của chính mình cho tiêu
dùng thường nhật hơn là dựa vào nhập khẩu, và trước năm 1961 họ đã đạt
được sự tiến bộ lớn trong việc giảm bớt tỷ lệ hàng tiêu dùng nhập khẩu và
tăng tỷ lệ những hàng được dùng để mở rộng năng suất công nghiệp. Họ đã
khuyến khích sản xuất vải vóc, quần áo, giày thể thao và về sau là hàng
điện tử để xuất khẩu. Với một nền kinh tế nhỏ bé hơn của Nhật Bản, Hàn
Quốc không thể dựa vào thị trường quốc nội, và đã trở nên phụ thuộc khá
nhiều vào xuất khẩu so với Nhật. Họ đã cố gắng nâng cấp công nghệ để vừa
mở rộng quy mô xuất khẩu lẫn để cải tiến năng suất, nhằm kiếm cách giữ

được sức cạnh tranh quốc tế đồng thời tăng được mức lương lên.
Lúc đầu, do Hàn Quốc không thể tự làm ra được thiết bị sản xuất, và tự
mình chế biến các nguyên liệu thô nên đã nhập khẩu thiết bị công nghệ từ
Nhật Bản. Trong ngành dệt, chẳng hạn sợi hoá học hoặc phẩm dầu hoả để
chế sợi lúc đầu là phải nhập. Hăm hở vươn tới trước nhưng thiếu công nghệ
riêng của mình, các ngành máy móc và điện tử của Hàn Quốc thường bắt
đầu bằng việc lắp ráp các bộ phận được sản xuất từ Nhật Bản. Khi người
Triều Tiên bắt đầu đóng tàu, không chỉ các thanh truyền mà còn nguyên cả
khối máy là đều nhập từ Nhật. Nhưng người Triều Tiên đã học càng học
càng tốt, càng làm ra nhiều bộ phận cho những sản phẩm mà họ đã lắp ráp
và rồi tiến đến lắp ráp những sản phẩm phức tạp hơn. Với việc có quá ít
những kỹ thuật gia so với ở Nhật Bản, người Triều Tiên không thể sản xuất
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

được nhiều sản phẩm rộng rãi và đương nhiên là họ đã tập trung vào một
nhóm nhỏ những lĩnh vực đang đầy hứa hẹn. Khi người Hàn Quốc thu được
kinh nghiệm trong việc sản xuất một sản phẩm nhất định nào đó, họ đã tiếp
tục dấn tới để thu hẹp hoặc xoá bỏ khoảng cách biệt về chất lượng so với
Nhật Bản.
Thế nhưng nhu cầu nhập các bộ phận và trang thiết bị từ Nhật của Hàn
Quốc đã tạo ra một sự mất cân đối rất lớn về mậu dịch giữa hai nước. Các
nhà thư lại Nhật Bản, nôn nóng thôi thúc đất nước chuyển sang công nghệ
cao, đã khuyến khích các công ty Nhật nhượng lại những sản phẩm thuộc
cấp thấp trong bậc thang công nghệ cho những nước như Hàn Quốc. Trong
thực tế các công ty Nhật đang dõi theo việc thâm nhập vào kỹ nghệ Mỹ, đã
cố gắng hết mức để tiếp tục sản xuất thật nhiều trong nước có thể được.
Cho đến cuối thập niên 1980, Nhật Bản hầu như không mua hàng chế tạo
nào từ Hàn Quốc cán cân mậu dịch của Nhật Bản với Hàn Quốc vẫn còn ở
mức nhập siêu, nhưng bởi vì Hàn Quốc đã xuất khẩu được hàng hoá sang

Mỹ, nên hầu như suốt thập niên 1980, họ đã đạt gần tới mức cân bằng các
kết toán mậu dịch của mình.
Từ buổi đầu của nỗ lực công nghiệp hoá, người Triều Tiên đã e ngại về
sức chi phối của người Nhật lên nền kinh tế của mình, và với sự miễn cưỡng
của các công ty Nhật trong việc chia sẻ các kỹ thuật học của họ. Hàn Quốc
cũng giống như Nhật vào thập niên 1960 khi âu lo về sức chi phối của người
Mỹ, đã duy trì kiểm soát khắt khe đối với đầu tư trực tiếp của người Nhật,
vốn của ngưòi Nhật, và các sản phẩm của người Nhật, Hàn Quốc cũng đã
bảo hộ các kỹ nghệ non trẻ của mình cho đến khi chúng đã có một tầm cỡ
cực vững và thậm chí lúc đó vẫn chống chuyện mở cửa thị trường của mình
cho các sản phẩm nước ngoài. Hàn Quốc vẫn là một trong vài nước hoàn
toàn không nhập xe hơi của Nhật, một chính sách mà Nhật đã trả đũa lại khi
Hàn Quốc bắt đầu sản xuất ra xe hơi có sức cạnh tranh trong các thị trường
quốc tế thông qua sự cảnh giác thường xuyên ở mọi cấp độ, các quan chức
và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Triều Tiên đã thành công trong việc kìm
hãm mức độ đầu tư trực tiếp của người Nhật và ngăn chặn được sự chi phối
về tài chính của Nhật Bản. Kinh nghiệm của Triều Tiên, dĩ nhiên trái ngược
hẳn với hoàn cảnh tại Hoa Kỳ và Đông Nam Á, những nơi mà sự đầu tư trực
tiếp của người Nhật tăng lên nhanh chóng vào hậu thập niên 1980. Người
Triều Tiên hăm hở tìm kiếm kỹ thuật học nơi người Nhật, nhưng họ đã
chiến đấu, như người Nhật đã từng chiến đấu trước kia, để giữ quyền kiểm
soát trong đôi tay của mình.
Các công ty Nhật thấy được kinh nghiệm của công nghiệp Mỹ, đã hết
sức cẩn trọng chuyện chia sẻ công nghệ với những nước khác vì sợ rằng
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

điều đó có thể dẫn đến điều mà họ gọi là cái "boomerang" tức là sự xâm
nhập trở lại của những sản phẩm dùng đến công nghệ đó vào chính những
thị trường riêng của họ. Thế nhưng có một người Nhật thì lại sẵn sàng muốn

chia sẻ kỹ thuật học của họ theo những hoàn cảnh nhất định nào đó, như khi
người Triều Tiên có chọn lựa nhận công nghệ từ các đối thủ cạnh tranh với
họ, người Nhật hay nước ngoài. Ngay cả khi người Nhật phải miễn cưỡng
chia sẻ, họ cũng không thể ngăn hoàn toàn dòng chảy của kỹ thuật học được.
Nhiều người phương Tây đã từ bỏ việc thâu thập kỹ thuật học từ người
Nhật, nhưng người Triều Tiên thì vẫn một mực thâu thập thật nhiều kỹ thuật
học từ Nhật hơn là từ Mỹ, và nhiều hơn mức mà phần lớn người phương
Tây có thể nghĩ ra.
Trong một số trường hợp, người Triều Tiên đơn thuần là xin cấp giấy
phép công nghệ hoặc mua quyền sử dụng bằng sách chế. Họ cũng cần mẫn
trong chuyện nghiên cứu thông tin đã phổ biến sẵn. Trong thập niên 1980,
mỗi năm có hàng trăm người Triều Tiên được nhận vào các học viện kỹ
thuật và các chương trình đào tạo kỹ thuật của các trường đại học Nhật Bản.
Đối với học vấn trên đại học, người Triều Tiên thường là đến học ở Hoa Kỳ.
Có lúc, xấp xỉ phân nửa số 30 sinh viên chuyên ngành đóng tàu tại viện MIT
là người Triều Tiên.
Còn trong trường hợp sắt thép, một nhóm những nhà lãnh đạo kinh
doanh sáng suốt người Nhật, đứng đầu là Shigeo Nagano, đã quyết định
rằng việc có quan hệ quốc tế hoà bình tại Đông Á đòi hỏi phải có sự khang
kiện kinh tế tại những nước khác. Thế nên New Japan Steel đã giúp đỡ bằng
cách bán công nghệ của mình để lập ra nhà máy thép lớn của Triều Tiên tại
Pohang, nhà máy này bắt đầu sản xuất ra thép vào năm 1973. Vào năm
1983, Pohang đã sản xuất được 9 triệu tấn thép thô một năm, nhiều hơn mức
sản xuất của Đài Loan. Ở Pohang, cách bố trí nhà máy, sự tổ chức và phong
cách quản trị, máy móc, và thậm chí cả bộ đồng phục của các viên kỹ sư
thép hầu như đã chẳng khác gì hết với những nhà máy thép lớn của Nhật
Bản. Vào cuối thập niên 1980, khi kỹ nghệ thép của Hàn Quốc đã tiến bộ
nhanh chóng hơn mức dự định của người Nhật, những người thừa kế Shigeo
Nagano đã ngần ngại trong việc chia sẻ thêm kỹ thuật học của họ. Đối với
những đợt hiện đại hoá mới về thép của họ vào cuối thập niên 1980 và đầu

thập niên 1990, đương nhiên, người Triều Tiên đã quay sang người Châu
Âu.
Khi người Hàn Quốc mua máy móc từ người Nhật, họ đã mặc cả để
học càng nhiều càng tốt về các bộ phận kỹ thuật sửa chữa. Họ đã làm việc
như những người đối tác và những nhà cung cấp cho các công ty của Nhật.
Họ đã mời các những nhà tư vấn Nhật, những người nghỉ hưu, và những
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

người khác nữa mà vì lý do nào đó sẵn sàng chia sẻ kỹ thuật học, người
Triều Tiên chuyên làm chuyện “thiết kế ngược”, thận trọng tháo rời những
sản phẩm thành công của nước ngoài để nghiên cứu chúng và tạo ra những
sản phẩm giống bản gốc. Hàn Quốc quả không có đối thủ, thậm chí cả với
Nhật Bản, trong chuyện tốc độ mà họ đã đi từ chỗ hầu như không có kỹ
thuật học công nghiệp nào vươn lên hàng những quốc gia kỹ nghệ của thế
giới.
Ngay sau khi có thể vay mượn được vốn cần thiết vào cuối thập niên
1960, Hàn Quốc đã quyết định khuyếch trương kỹ nghệ nặng và ngành hoá
chất. Họ theo đuổi chương trình trong suốt thập niên 1970, mặc dù các dự án
đã phải dẫn đến những món nợ cực lớn với các cơ quan nước ngoài và lạm
phát. Những sản phẩm công nghiệp nặng đầu tiên của Hàn Quốc đã tham gia
vào thị trường ngay sau cú sốc đầu tiên, khi thế giới đang đi vào một cơn
suy thoái. Vào cuối thập niên 1970, do không thể bán đủ sản phẩm của mình
để trả những khoản nợ, Hàn Quốc đã gặp phải những khó khăn kinh tế
nghiêm trọng. Lúc đầu khi Triều Tiên khuyếch trương công nghiệp nặng vào
đầu thập niên 1970, một số nhà lãnh đạo Đài Loan đã lo sợ mình bị tụt lại xa
phía sau. Về sau, khi những mất cân đối về mậu dịch và các khoản nợ của
Hàn Quốc thì cứ phình to lên, người Đài Loan mới an tâm rằng mình thận
trọng hơn và họ đã nhanh chóng lo trả các món nợ nước ngoài của mình.
Nhưng mặc dù có những vấn nạn, chương trình công nghiệp nặng của Triều

Tiên vẫn cứ tiến bước vào đầu thập niên 1980. Hàn Quốc đã tiếp tục theo
đuổi một nỗ lực công nghiệp nặng trong sắt thép, đóng tàu và xe hơi. Mặc
dù họ đã cho vay mượn rất nhiều để tài trợ cho cuộc khuyếch trương này,
nhưng một thoáng cơ may đã kéo dài từ năm 1985, lúc đồng yên của Nhật
tăng lên đáng kể so với đồng đô la, cho đến năm 1988, lúc đồng won của
Triều Tiên cao giá hơn so với đồng đô la, đã cho phép người Triều Tiên đạt
được bước tiến đáng kể trong cuộc chi trả những khoản nợ nần của họ.
3. Các doanh nhân
Uỷ ban kế hoạch kinh tế và Bộ thương mại và công nghiệp của Triều
Tiên đã đưa ra cho các công ty Triều Tiên những chỉ thị tỷ mỉ. Thông qua
việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động ngân hàng, chính phủ Hàn Quốc có thể
quyết định chuyện những công ty nào được nhận những khoản vay nào đó ở
mức lãi suất nào đó. Nhưng tự bản thân công ty phải chịu trách nhiệm về
những lời và lỗ của mình.
Các nhà lập kế hoạch của Hàn Quốc hiểu cách Nhật Bản đã chuẩn bị ra
sao vào thập niên 1960 cho chuyện mở cửa tất yếu các thị trường của mình
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

do kết quả của những áp lực bên ngoài. Nhật Bản đã chuyển sang gia tăng
quy mô của các công ty của mình, nhằm cho phép họ làm ra những sản
phẩm có sức cạnh tranh trên một quy mô lớn và thế là tránh được các nhập
khẩu thông qua các áp lực của thương trường. Người Hàn Quốc trở nên tin
rằng để cạnh tranh trên các thị trường quốc tế và trụ vững được trước sự đe
doạ của hàng nhập khẩu của nước ngoài, họ cũng sẽ cần đến những công ty
đồ sộ. Chính phủ Hàn Quốc tích cực thúc đẩy những công ty của mình gấp
rút mở rộng quy mô.
Vào sau chiến tranh Triều Tiên, công nghiệp phần lớn tập trung ở các
thành phố đông nam là Taegu và Pusan, bởi những nơi này đã từng được
Nhật phát triển, và chúng cũng là những miền đô thị lớn duy nhất không

từng bị miền Bắc chiếm. Phác Chung Hy và các đồng sự của ông đã tuyển
kỹ những công ty thành công, có những doanh nhân nổi tiếng là giỏi và
giành cho những công ty đó các khoản vay của nhà nước với lãi suất thấp,
những khích lệ về thuế, và bất kỳ tài nguyên nào cần thiết nhằm củng cố họ
trở thành chaebol đa dạng hoá hùng mạnh, dưới quyền kiểm soát chặt chẽ
của một công ty chủ vì rằng các công ty chaebol hầu như mới mẻ hoàn toàn,
được thành lập trong thời hậu chiến, nên chúng khác hẳn với zaibatsu già
đời của người Nhật. Ở Nhật Bản, Mitsubishi đã từng làm ăn cả thế kỷ nay,
Sumitomo và Mitsu thì đã từng nhiều thế kỷ nay. Ngay cả trước thế chiến
thứ 2, khi các zaibatsu vẫn còn dưới quyền kiểm soát của những công ty
chủ, quyền sở hữu cũng đã được tách khỏi quyền điều khiển. Nhưng còn tại
Hàn Quốc, ngay cả trong cuối thập niên 1980, trên 40 thuộc 50 chaebol hàng
đầu vẫn còn dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của những nhà sáng lập đầu tiên.
Nhà sáng lập, nói chung, đã khởi nghiệp trong một doanh vụ sinh lợi ở
một lĩnh vực duy nhất nào đó như xay gạo, chế biến thực phẩm, xây dựng,
buôn bán, dệt, hay bất động sản. Khi cuộc kinh doanh cho thấy là thành
công, doanh nhân đó đa dạng hoá sang những lĩnh vực mới và đầy hứa hẹn,
thường là vay mượn để khuyếch trương nhằm tận dụng những cơ may phát
triển. Các nhà sáng lập là những nhà lãnh đạo vững vàng, hoàn cảnh của họ
đòi hỏi nhiều sáng kiến, cái nhìn táo bạo, những phản ứng đầy thuyết phục
và mau lẹ. Như với những nhà sáng lập lớn tại nhiều nước, sự thành công và
kinh nghiệm đã làm tăng thêm lòng tự tin của họ và cũng khiến họ có
khuynh hướng tự mình đưa ra tất cả các quyết định cuối cùng hay quan
trọng. Có lẽ các nhà sáng lập chaebol có khuynh hướng liều lĩnh hơn so
những người ở địa vị tương tự ở hầu hết các nước khác là bởi vì có chính
quyền đứng đằng sau lưng họ, sẵn sàng giúp đỡ họ.
Gợi ý để các công ty mở rộng sang những lĩnh vực mới đôi khi xuất
phát từ chính quyền, vốn đã nắm chặt trong tay những cơ sở tài chính. Các
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


nhà lập kế hoạch của nhà nước khi tin rằng có thể mở thêm một lĩnh vực
quan trọng mới, họ đã khuyến khích các công ty có những khả năng về quản
trị và kỹ thuật thích đáng. Trong một lãnh vực mới hoặc một mặt hàng quan
trọng mới, họ cố gắng khuyến khích phát triển ít nhất hai công ty chính sao
cho sự cạnh tranh giữa họ sẽ làm giảm hiểm hoạ độc quyền và cung cấp
cùng dạng cạnh tranh có trọng điểm giữa các công ty vốn đã từng có. Khi
các công ty thất bại, các viên chức chính quyền tạo ra những khích lệ để
động viên những công ty khác nhập cuộc nhằm tránh những vấn nạn về thất
nghiệp. Thế là chaebol đa dạng hoá thuộc tầm cỡ lớn đã mở rộng cực kỳ
nhanh chóng hơn là khi chỉ dựa vào động lực thị trường không thôi.
Một lãnh vực đã đóng một vai trò quan trọng độc đáo vào sự phát triển
của các chaebol là ngành xây dựng. Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, việc tái
thiết đường sá, thiết lộ, đê sông, cơ sở cảng, và công trình công cộng đã là
một ưu tiên khẩn thiết. Người Mỹ đã cung cấp trang thiết bị xây dựng hiện
đại, mà người Triều Tiên đã nhanh chóng thủ đắc được. Trong suốt cuộc
chiến tranh Việt Nam, khi người Mỹ muốn tìm những nhà thầu cho công
trình xây dựng tại Việt Nam, các công ty Triều Tiên, vốn lúc ấy đã có kinh
nghiệm trong cách làm việc với quân đội Mỹ, đã thường là những người bỏ
thầu thấp nhất. Sau cú sốc dầu hoả năm 1973, các nước sản xuất dầu, giàu sụ
với số của cải mới có được nhưng lại thiếu kỹ sư tài giỏi và những công
nhân thiện chí, đã hợp đồng các dự án với những công ty xây dựng ngoại
quốc. Các chaebol của Triều Tiên đã hoàn thành tốt và đã giành được một
phần suất khá lớn những hợp đồng thầu xây dựng dân dụng. Năm 1979,
riêng ở ả Rập Saudi không thôi, đã có 68 công ty và 93. 000 công nhân
Triều Tiên. Hai phần ba công nhân xây dựng Triều Tiên là những cựu chiến
binh, có kỷ luật cao, thông thạo với máy móc hiện đại, và quen với nếp sống
nơi doanh trại. Họ sẵn sàng làm việc dài giờ để kiếm được thật nhiều hơn
mức có thể kiếm được nơi miền quê hương nghèo khổ của mình. Các
chaebol của Triều Tiên như Huyndae, Dealim và DongAh đã từng có thời

phát triển ồ ạt và nhanh chóng bởi sự thành công của họ trong nghề xây
dựng ở Trung Đông và một số công ty nhỏ đã dần lớn lên để trở thành
chaebol. Qua gần một thập niên, những công ty này gộp lại thế là đã tạo ra
nhiều tỷ đô la ngoại tệ hàng năm, nhờ đó họ mở rộng cơ sở kỹ nghệ ở trong
nước.
Một số sở hữu chủ gia đình của chaebol Triều Tiên thì thu được nhiều
tài sản đáng kể, mặc dù nhiều người đã tái đầu tư đáng kể số thu nhập vào
những kinh doanh của họ. Cho đến cuối thập niên 1980, khoảng cách biệt
giữa thang lương của công nhân áo xanh và công nhân áo trắng vẫn còn lớn.
Trong một số chaebol, các chủ nhân đã bị chỉ trích là thuộc phe nhóm xuất
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thân từ miền Taegu, vốn cũng gồm cả những cả những nhân vật chính trị
hàng đầu. Thông tin bên trong có liên quan đến việc những những chaebol
này thu được một số tiền quỹ của họ ra sao đã không được công bố đầy đủ,
và các doanh nhân có liên quan bị công kích là hưởng được sự thiên vị và
chính quyền thì nhận hối lộ. Cùng lúc đó, tuy nhiên, không một ai nghi ngờ
gì chuyện các nhà sáng lập chaebol là những doanh nhân rất có hiệu quả và
làm ăn chăm chỉ.
Chaebol của Hàn Quốc nói chung bao gồm một nhóm công ty đa dạng
thuộc những lĩnh vực khác nhau, do một công ty chủ độc nhất điều khiển.
Nhà sáng lập của một chaebol thường là đặt bà con của mình vào coi sóc
những công ty gia nhập hoặc những công ty nhánh quan trọng nhằm duy trì
quyền kiểm soát cá nhân đáng tin cậy. Thu nhập của công nhân áo xanh, qua
suốt 3 thập niên phát triển, thì cao hơn so với các công ty Nhật. Lòng trung
thành chưa phát triển cao lắm, và công nhân đã nhanh chóng bỏ đi khi
những công ty đang khuyếch trương, thiếu những nhà quản trị và kỹ thuật
gia tài giỏi, đưa ra những điều kiện tốt đẹp đáng kể để câu nhử công nhân bỏ
sang. Mặc dù thu nhập của công nhân áo trắng cũng cao theo tiêu chuẩn của

người Nhật, nhưng vào thập niên 1980 thì các chaebol cực lớn đã bắt đầu
triển khai như tại Nhật Bản, một ban nhân viên áo trắng chuyên nghiệp, có
tính chuyện thâm niên, triển vọng thuê mướn dài hạn và một tập hợp phúc
lợi khá hậu hĩ hơn so với những xí nghiệp nhỏ. Hơn nữa, bởi liên quan đến
chuyện trung thành, các chủ nhân thường là một nhóm nòng cốt nhỏ gồm
những nhân viên được tín cẩn đặc biệt và các thành viên gia đình, vốn có
thăng tiến nhanh hơn những nhân viên áo trắng bình thường. Chỉ vào cuối
thập niên 1980, với sự bành trướng nhanh chóng và đã qua cái thời của thế
hệ sáng lập, hầu hết các chaebol mới bắt đầu trải qua một cuộc cách mạng
về quản trị. Tuy nhiên, thế hệ thứ hai của các gia đình chaebol thường là vẫn
tiếp tục chiếm giữ những chức vụ chủ chốt, vốn vẫn chưa mở ra những nhà
quản trị ăn lương, chưa được tín cẩn mấy.
Hàn Quốc cũng đã phát triển một lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ, rất thành
công, đa dạng và năng động, vốn đã tận dụng được những cơ may mới.
Nhiều nhà sản xuất nhỏ của Triều Tiên để giành được những khách hàng
chắc chắn và nâng cấp công nghệ của mình đã bắt đầu liên kết với những
nhà sản xuất lớn.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

III. MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM SO SÁNH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT
NAM
Đầu những năm 1980, tình trạng khủng hoảng sâu sắc của nền kinh tế
Việt Nam buộc chính phủ phải tiến hành cải cách triệt để, chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
mở. Sau khoảng một thập niên thực hiện cải cách nền kinh tế Việt Nam đã
đạt được những thành tựu quan trọng. Tổng sản phẩm quốc dân tăng trung
bình hàng năm 7, 5%, lạm phát đã được đẩy lùi từ 500 - 700%/năm xuống
còn khoảng 10%/năm.
Liên hệ với những điểm đã phân tích ở trên về kinh nghiệm phát triển

kinh tế của Hàn Quốc có thể thấy rõ những nét tương đồng và không tương
đồng trong quá trình thực hiện đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam với quá trình
phát triển ở Hàn Quốc như sau :
1. Về huy động các thành phần kinh tế
Trong phát triển kinh tế thị trường, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi
mới, chính phủ Việt Nam đã định rõ phương hướng phát triển kinh tế trong
giai đoạn mới là chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước, trong đó nhấn mạnh phát triển kinh tế với nhiều thành phần với vai trò
tích cực của kinh tế nhà nước. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần đã thay đổi một cách cơ bản nhận thức trước đây về phương hướng
phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó đã giải phóng
khu vực kinh tế tư nhân, lực lượng lớn nhất của nền kinh tế quốc dân, mở
cho họ nhiều cơ hội mới, kinh doanh năng động và tăng trưởng nhanh
chóng. Đây là một trong những vấn đề mấu chốt để nhà nước thực thi cơ chế
kinh tế mới : cơ chế thị trường. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước hiện
nay cũng được hiểu theo một cách khác trước. nếu như trước đây khu vực
kinh tế nhà nước giữ vị trí thống trị trong nền kinh tế thì qua việc thực hiện
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cải cách đã làm thay đổi mối tương quan đó. Với sự phát triển khá mạnh của
nền kinh tế tư nhân thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và những biến
đổi theo xu hướng thị trường trong các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước,
trong nền kinh tế đã hình thành hai khu vực chính là kinh tế nhà nước và
kinh tế tư nhân với những hoạt động kinh doanh vừa cạnh tranh vừa hợp tác.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn những tồn tại đáng lưu ý: tình trạng không rạch
ròi về chức năng đã làm giảm đi tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế của
từng khu vực. Xu hướng thị trường hoá trong khu vực kinh tế nhà nước chưa
được đẩy mạnh. Vai trò điều tiết nền kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước
chưa được thực hiện tốt như ở Hàn Quốc. ở Việt Nam, quá trình đổi mới

kinh tế quốc doanh có phần chậm chạp, giữ được ổn định, nhưng hoạt động
kém hiệu quả. Lời giải đáp tốt nhất cho vấn đề này vẫn chưa tìm ra.

2. Mở cửa nền kinh tế
Nếu như "mở cửa" đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế Hàn Quốc
thì mở cửa cũng đã trở thành một đầu tàu trong công cuộc đổi mới kinh tế ở
Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua. Chính sách mở cửa có ý nghĩa quyết
định cho sự phát triển của nền kinh tế. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện
những bước đi đầu tiên của nền kinh tế mở khởi đầu bằng việc coi chương
trình xuất khẩu là chương trình quyết định các chương trình kinh tế khác
(1986), rồi đến việc công bố luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và chương
trình tiếp nhận ODA những năm gần đây. Tuy vậy so với Hàn Quốc về điểm
này, trong quá trình thực hiện chính sách về mở cửa, Việt Nam vẫn đang
gặp phải nhiều vấn đề khó khăn chưa giải quyết được: một chính sách
thương mại quốc tế thích hợp vẫn còn đang là vấn đề chưa được xác định rõ
ràng. Mặc dù nguyên tắc của một nền kinh tế mở đã được khẳng định,
nhưng những đường nét cụ thể cho một chiến lược kết hợp hay thay thế
nhập khẩu với hướng vào xuất khẩu chưa được định ra, việc tiếp nhận các
chương trình đầu tư và viện trợ nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn do còn
thiếu luật pháp, bộ máy quản lý quan liêu, các chính sách về thuế, tỷ giá hối
đoái trong thương mại chưa đủ sức thuyết phục.
Đối với Việt Nam, để khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn và rút ngắn
quá trình công nghiệp hoá, qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước, chúng tôi
thấy nước ta cần và có thể thực hiện chiến lược bổ sung giữa hướng vào
xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, không cần tuần tự đi qua chiến lược thay
thế nhập khẩu mất một vài chục năm rồi mới chuyển sang hướng vào xuất
khẩu như nhiều nước đã làm, như thế sẽ chậm, mà có thể bắt đầu thực hiện
ngay chiến lược hướng vào xuất khẩu đồng thời với việc thực hiện có chọn
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


lọc và có điều chỉnh một số chính sách biện pháp cần thiết để bảo vệ và
nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của các ngành công nghiệp non trẻ đã
có.
3. Về vấn đề phát triển nguồn nhân lực
Ở Việt Nam, giáo dục phổ thông khá phát triển. Đó là một vốn quý,
một lợi thế. Như vậy đối với lao động phổ thông ở Việt Nam, nhìn chung
trình độ học vấn không thấp, tuy nhiên chất lượng đào tạo nghề nghiệp còn
thấp, xu hướng chung của công nghệ mới hiện nay đòi hỏi lao động kỹ thuật
nhiều hơn lao động thông thường, do đó vấn đề đào tạo đội ngũ người lao
động có chất lượng cao đáp ứng những yêu cầu mới của thị trường, của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt, vừa
lâu dài trong phát triển kinh tế của Việt Nam.
4. Về công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Việc chuyển sang quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nền
kinh tế thị trường mới là bước khởi đầu. Mô hình công nghiệp hoá, hiện đại
hóa nền kinh tế lấy công nghiệp nặng làm nền tảng trước đây có lẽ thích hợp
với Nga nhiều hơn là Việt Nam, ít nhất là trong 2 - 3 thập kỷ tới. Song một
mô hình công nghiệp hoá theo hướng mới vẫn chưa được xác định thực một
cách rõ ràng. Việt Nam mới chỉ đi những bước chập chững trong những
chặng đường đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy
quá trình này đã được triển khai thực hiện một cách tích cực ở nhiều hướng
khác nhau, có một số mặt thuận lợi do công cuộc đổi mới và tình hình quốc
tế và khu vực đem lại, song so với nhiều nước đang phát triển khác thì Việt
Nam vẫn còn rất hạn chế như việc huy động và sử dụng các nguồn vốn còn
kém, khu vực kinh tế nhà nước chưa mang lại hiệu quả cao, kinh doanh tư
nhân chưa lớn mạnh, luật pháp còn thiếu, bộ máy quản lý quan liêu, cồng
kềnh, tham nhũng cao, hiệu quả thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội còn
yếu kém, nói chung chưa có một cơ chế quản lý năng động đủ đáp ứng nhu
cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng trưởng nhanh.

Phải chăng Việt Nam cần thực hiện một chiến lược công nghiệp hoá
mới không phải theo một nguyên tắc tĩnh và cứng nhắc lấy công nghiệp
nặng làm then chốt như trước đây, mà dựa trên nguyên lý động, linh hoạt
của sự thay đổi về lợi thế so sánh ? Để trả lời câu hỏi này, không những cần
nghiên cứu lợi thế so sánh của Việt Nam, mà còn cần nghiên cứu kinh
nghiệm của nhiều nước nhất là những bài học kinh nghiệm thành công của
Hàn Quốc.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

KẾT LUẬN
Trong số tất cả những con rồng nhỏ, Hàn Quốc đã có mức tập trung cao
độ những công ty lớn và những mục tiêu đầy tham vọng nhất. Không có
quốc gia nào cố gắng cật lực và đã vươn xa nhanh cực kỳ đến thế, từ thủ
công lên công nghiệp nặng, từ nghèo đói lên phú thịnh, từ những nhà lãnh
đạo thiếu kinh nghiệm lên những nhà hoạch định, những nhà quản trị và
những kỹ sư hiện đại.
Bằng chứng Hàn Quốc đã tương phản mạnh mẽ với nhận thức về bất
kỳ một nguyên nhân đơn lẻ có tính chất quyết định nào của thành công kinh
tế. Thay vào đó, bằng chứng Hàn Quốc đã cho thấy sự kết hợp những yếu tố
luôn gắn liền với quá trình phát triển. Không có nền kinh tế nào có thể thành
công được nếu thiếu 3 yếu tố : hướng ngoại, ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư
vào con người. Kinh nghiệm phong phú gợi ra rằng những công thức có tính
chất phổ biến và rộng khắp là không thể và có những hoàn cảnh cụ thể của
từng nước sẽ đóng vai trò quyết định. Tuy vậy phần lớn kinh nghiệm cho
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thấy sự đóng góp quan trọng của các chính sách kinh tế ổn định và có tính
cạnh tranh, nới lỏng kinh doanh. Điều thú vị là, điểm mấu chốt của quá trình

hoạch định chính sách là vai trò tích cực của chính phủ trong việc theo dõi
tiến hành phát triển, vạch ra những kế hoạch dài hạn, thay đổi cho phù hợp
cơ cấu thể chế nhằm thực hiện có hiệu quả các chính sách.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế Đông - Đông Nam Á và ý
nghĩa đối với Việt Nam - PTS Đỗ Đức Định
2. Tổng quan về kinh nghiệm Đông Á - Danny M. Leipziger và Vinod
Thomas.
3. Những bài học của Đông Á - Những nền tảng chung về thành công của
Đông Á - Peter A. Petri.
4. Sự thần kỳ của Đông Á - Xây dựng cơ sở cho tăng trưởng - John Page.
5. Những bài học gần đây của sự phát triển - Lawrence H. Summer and
Vinod Thmas.
6. Đông Á và Đông Nam Á năm 2020 - Jean Raphel Chaponniere.
7. Phát triển kinh tế ASEAN - Phân tích về vai trò của nhà nước - Hal Hill.
8. Nhật Bản và công nghiệp hoá ở châu Á - Yutaka Kosai và Trần Văn Thọ.
9. Kinh tế chính trị học của chính sách công nghiệp ở Hàn Quốc - Ha Joon
Chang.
10.Bốn con rồng nhỏ - Trào lưu công nghiệp hoá ở Đông Á - Ezra F. Vogel.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hàn Quốc trong trào lưu công nghiệp hoá ở Đông Á (18 trang)
L I M UỜ Ở ĐẦ 1
Cu c chi n tranh Tri u Tiên, có l đ c xem l ộ ế ề ẽ ượ à
cu c chi n mang tính hu di t nh t trong l ch s ộ ế ỷ ệ ấ ị ử
th gi i, đã t n phá Nam Tri u Tiên c ng nh B c ế ớ à ề ũ ư ắ

Tri u Tiên. Seoul đã đ i ch đ n b n l n, m i l n lề ổ ủ ế ố ầ ỗ ầ à
m t cu c chi n kh c li t. Ch có m t ph n nh c a ộ ộ ế ố ệ ỉ ộ ầ ỏ ủ
x s , mi n đông nam, l không b ph ng B c xâm ứ ở ở ề à ị ươ ắ
ph m. Trong s hai m i tri u ng i Nam Tri u Tiên ạ ố ươ ệ ườ ề
khi chi n tranh ch m d t v o n m 1953, kho ng 1/4 l ế ấ ứ à ă ả à
nh ng ng i phiêu tán không c a không nh , h u ữ ườ ử à ầ
nh không có c a c i. Trên 1 tri u th ng dân v ư ủ ả ệ ườ à
320.000 binh s mi n Nam đã hy sinh. M t đ i đa s ĩ ở ề ộ ạ ố
nh ng ng i t vong l nh ng ng i trai tráng m ữ ườ ử à ữ ườ à
n u còn s ng h s đóng góp cho l c l ng lao ế ố ọ ẽ ự ượ
đ ng v cho thu nh p c a gia đình h . ộ à ậ ủ ọ 2
21

×