Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.02 KB, 15 trang )

1

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ mục đích, u cầu của chương trình Tốn lớp 2 - Chương trình giáo
dục phổ thơng 2018, với những hạn chế về tâm lý lứa tuổi, việc đọc, tìm hiểu đề tốn,
tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số đối với các em cịn gặp nhiều khó khăn.
Việc nâng cao chất lượng dạy học mơn Tốn ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2
nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn băn khoăn trăn trở, làm
thế nào để giúp học sinh lớp 2 giải tốn có lời văn đạt kết quả cao. Bản thân tôi nhận
thấy cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài
toán một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận thơng qua
cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các
em hứng thú, say mê học tốn. Với những lý do trên, tơi đã chọn giải pháp là nghiên
cứu thực hiện sáng kiến:
“Một số biện pháp dạy giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm đưa ra được một số biện pháp giúp học sinh biết cách tóm tắt đề
tốn, phương pháp giải bài tốn có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng. Có
định hướng giải phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 2,
góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện kĩ năng giải toán cho
học sinh.
3. Thời gian, đối tượng, phạm vi
3.1 Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu nghiên cứu từ đầu năm học 2021 – 2022. Các
năm tiếp theo tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện.
3.2 Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về phương pháp giải các bài tốn có lời văn
trong chương trình tốn lớp 2. Khả năng đọc hiểu đề tốn, tìm hiểu, tóm tắt và giải bài tốn
có lời văn của học sinh lớp 2 và yêu cầu cơ bản về kiến thức kỹ năng trong sách giáo khoa
mơn Tốn lớp 2 mới – CTGDPT 2018.
3.3 Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 2A - Trường Tiểu học Phú Sơn – Ba Vì –
Hà Nội


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Tư duy của học sinh Tiểu học đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Các em sẽ
dễ nhận thức được những gì cụ thể, gần gũi, thường bắt đầu bằng những biểu tượng
đơn giản nên kiến thức toán học được hình thành chủ yếu bằng con đường thực
nghiệm. Xu thế dạy học toán theo cách tổ chức cho học sinh hoạt động bằng tay với
các đồ vật, hoạt động quan sát với các mơ hình, hình vẽ, ... Vì vậy, phương pháp dạy
học nhất thiết phải mang tính trực quan, sinh động.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải tốn theo u cầu của chương trình
mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng
dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Nếu như học sinh nắm bắt
được cách giải toán ngay từ lớp 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt
và gọt giũa, để thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp
sau.
2. Cơ sở thực tiễn
Với hơn 20 năm dạy học ở trường Tiểu học, một điều khiến tơi trăn trở băn
khoăn và suy nghĩ rất nhiều, đó là làm thế nào khắc phục được tình trạng học sinh


2

trong cùng một lớp nhưng trình độ nhận thức lại không đồng đều. Cùng một kiến thức
do giáo viên đưa ra, có em nắm bắt rất nhanh, say sưa hứng thú bắt tay ngay vào việc
tìm hiểu và giải quyết vấn đề nhưng cũng có em thì ngồi đó với tâm trạng hờ hững do
không nắm được bản chất của vấn đề đó, sinh ra chán nản, hiệu quả giảm sút rất
nhiều,... Đó là một thực tế mà người giáo viên đứng lớp ai cũng gặp phải, nhất là trong
quá trình dạy giải tốn có lời văn. Chính vì vậy mà tôi đã lấy cơ sở từ lớp 2B của năm
học 2020 - 2021 đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu để giải quyết vấn đề này nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục, giúp các em có kĩ năng khi giải tốn có lời văn.
3. Thực trạng

Năm học 2021- 2022 diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 kéo dài, học
sinh phải học trực tuyến và học 1 buổi/ngày. Với thực tế học sinh lớp tơi cịn có một số
các em đọc, hiểu chậm nên tiếp thu kiến thức mới cũng chậm. Cộng với khả năng ghi
nhớ hạn chế dẫn đến việc vận dụng kiến thức của các em gặp nhiều khó khăn. Cụ thể
là khả năng đọc hiểu bài toán của các em chưa tốt nên nhiều học sinh khơng biết tóm
tắt, khơng biết phân tích đề, khơng biết yêu cầu của đề là gì và xác định sai dạng toán.
Một số học sinh thiếu tự tin khi giải tốn, có em làm được phép tính nhưng chưa hiểu
được cách ghi lời giải, ghi sai đơn vị, … Việc giúp các em học tốn theo hướng “giải
trí tinh thần”, vừa giúp việc học tốt mơn tốn là điều cần thiết mà tơi ln lưu tam, tìm
hướng giải quyết.
Qua thực tế giảng dạy trong thời gian qua ở khối lớp 2, tơi nhận thấy “Giải tốn
có lời văn” là mạch kiến thức tương đối khó đối với học sinh. Việc học sinh học
tốn và giải tốn có lời văn thường rất chậm chạp so với các dạng bài tập khác. Các
em thường có một thói quen khơng tốt cho lắm đó là: đọc đề bài qua loa, sau đó giải
bài tốn ngay. Vì vậy, các em cịn lúng túng trong việc xác định dạng tốn và tóm tắt
đề tốn. Khi giải bài tốn các em ít tư duy, cịn máy móc, nếu đề cho nhiều hơn là làm
phép tính cộng, ít hơn là làm phép trừ, gấp là làm nhân, kém là làm chia mà không để
ý đến dữ kiện của bài toán đã cho nên nhiều khi chọn phép tính khơng đúng dẫn đến
kết quả sai. Số liệu khảo sát học sinh lớp 2A trước khi thực hiện đề tài sau đây cho
thấy điều đó”
Mức đạt
Sĩ số Hồn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành
ND
HS
Số bài Tỉ lệ Số bài Tỉ lệ Số bài
Tỉ lệ
Đánh giá
Học sinh hiểu đề bài

44


8

18,2%

26

59,1%

10

22,7 %

HS tóm tắt bài tốn

44

7

15,9%

22

50%

15

34,1 %

HS trình bày bài giảng


44

9

20,5%

23

52,3%

12

27,2%

Để khắc phục những hạn chế và tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng giải tốn
có lời văn cho học sinh. Tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:
4. Các biện pháp thực hiện.
4.1. Điều tra, phân loại đối tượng học sinh trong lớp.
Do tình hình dịch bệnh covid kéo dài các con phải học trực tuyến ngay buổi học
đầu tiên Mặc dù dạy học online nhưng tôi vẫn rất chú ý đến việc nắm kiến thức của
các con nhất là mơn Tốn. Qua điều tra đầu năm bằng việc cho các con làm bài kiểm
tra, tôi đã chấm bài các con qua việc các con gửi bài trên zalo. Mặt khác qua các tiết


3

dạy dạng bài này, tơi phân loại những em cịn yếu về loại tốn điển hình nào để tơi kịp
thời kèm cặp các em.
Lớp tơi có một số em giải tốn cịn yếu. Các em thường sợ làm dạng tốn này.

Các em không biết cách giải, hay trả lời sai, làm tính khơng đúng. Tơi ln quan tâm
động viên các em học sinh để các em chăm học, tích cực làm bài, các em tự tin vào
khả năng của mình để suy nghĩ, phán đốn tìm cách giải đúng.
Trong các giờ lên lớp tôi luôn động viên cho các em suy nghĩ tìm ra cách giải.
Tơi thường xun kiểm tra bài làm của em trên lớp, chấm chữa cùng với học sinh để
củng cố kiến thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời bằng nhận xét khen ngợi nếu
các em có cố gắng (mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập, xoá đi ấn
tượng sợ giải tốn.
Ngồi ra, tơi u cầu các em làm lại bài toán này ở nhà để các em yếu kém nắm
vững cách giải. Lần sau gặp loại bài như thế là làm được ngay. Tơi cịn u cầu phụ
huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp
các em làm đầy đủ bài tập cơ giao. Ngồi ra tơi cịn giao cho những em giỏi toán ở lớp
mỗi em giỏi giúp một em kém. Lập thành đôi bạn cùng tiến bằng cách: Giờ truy bài
kiểm tra bài làm của bạn. Nếu bạn giải sai thì hướng dẫn giải lại cho bạn nắm được
phương pháp giải toán. ( Nếu học sinh đi học trực tiếp)
4.2. Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học:
Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng
luyện tập giải Toán đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong khi dạy, tôi luôn bảo đảm
truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách:
- Chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận. Soạn bài theo đúng công văn 2345 của
Bộ giáo dục trước một tuần để có thêm thời gian nghiên cứu, nắm chắc yêu cầu cần
đạt của bài học.
- Khi soạn bài, tôi ln tìm hướng giảng bài mới một cách dễ hiểu nhất đối với
trò mà vẫn phát huy được tư duy của trị, lấy "học sinh làm trung tâm". Khơng những
soạn Kế hoạch bài dạy mà tơi cịn rất trú trọng đến việc làm bài giảng điện tử
Powerpoint trình chiếu với những hình ảnh phong phú, clip sinh động giúp cho học
sinh tiếp thu kiến thức một cách nhanh nhất.
Vì vậy, kết hợp với khâu chuẩn bị bài của học sinh, trong mỗi tiết dạy bài mới,
tôi cung cấp đủ nội dung bài, đồng thời khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức đã
học có liên quan thực hiện phương châm "ôn cũ, học mới".

Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy
đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng giải Tốn sẽ linh hoạt,
khơng bị gị ép phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quen chủ động tích cực trong giải
Tốn.
* Các hình thức tổ chức thực hiện: Thảo luận trong nhóm: Học sinh đọc kĩ đề
bài, nhận xét dữ kiện, tóm tắt đề tốn, tìm ra cách giải. Các em khá giỏi trong nhóm
đưa ra một số câu hỏi để các bạn yếu hơn được trả lời, được tham gia ý kiến tìm ra
cách giải bài toán. Với cách làm này học sinh mạnh dạn, tự tin vào bản thân, dần dần
ham thích giải tốn, để thể hiện khả năng chính mình.
Vai trị của người thầy rất quan trọng. Lời phát biểu của các em dù đúng hay sai,
tơi cũng phải có lời động viên hợp lý. Nếu học sinh phát biểu sai, hoặc chưa đúng, tôi
động viên "gần đúng rồi, em cần suy nghĩ thêm nữa, thì sẽ đúng hơn ..." giúp các em
cố gắng suy nghĩ làm bằng được, chứ không nên nói "sai rồi, khơng đúng ..." làm mất
hứng, ức chế học sinh làm học sinh tự ti, chán học.


4

Bước này là bước quan trọng giúp học sinh không sợ giải tốn, thích thi nhau làm
để khẳng định mình, từ đó có kỹ năng giải tốn vững chắc với lời giải thơng thường.
Ví dụ 1: Trên sân có 14 con gà, số vịt nhiều hơn số gà là 5 con. Hỏi trên sân có bao
nhiêu con vịt? ( Bài 2 - Trang 51 - SGK Toán 2 – Kết nối tri thức với cuộc sống)
+ Có học sinh giải như sau :
Trên sân có số con vịt là :
14 + 5 = 19 (trên sân)
Đáp số : 19 trên sân
Tơi hỏi : Đơn vị của bài tốn là gì ?
Học sinh trả lời : Đơn vị của bài toán là con.
Tôi hỏi : Vậy trong bài giải con đã ghi đúng tên đơn vị của bài toán chưa ?
Con hãy nêu lại câu hỏi của bài toán?

Lúc này học sinh sẽ nhận ra chỗ thiếu sót trong bài giải của mình và tự sửa lỗi sai
đó.
Ví dụ 2: Thùng thứ nhất đựng 25 lít dầu. Thùng thứ hai đựng 30 lít dầu. Hỏi
thùng nào đựng nhiều dầu hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?
Có học sinh giải như sau :
Số lít dầu thùng đựng nhiều hơn là :
30 - 25 = 5 ( l )
Đáp số : 5 l
Tơi hỏi: Ta cần tìm điều gì ?
Học sinh trả lời: Thùng nào đựng nhiều hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?
Tơi lại hỏi tiếp: Câu trả lời này đã nói rõ điều đó chưa ? Cịn thiếu ý nào ?
Lúc này học sinh sẽ nhận ra trong câu trả lời này chưa nêu được thùng nào đựng
nhiều hơn và phải bổ sung và chữa vào bài giải là :
Thùng thứ hai đựng nhiều hơn và nhiều hơn là :
30 - 25 = 5 ( l )
Đáp số : 5 l
Bên cạnh việc cung cấp đủ trọng tâm bài học, rèn cách luyện tập thành thạo, tơi
cịn ln quan tâm tới việc mở rộng, nâng cao kiến thức từ chính những bài tập trong
SGK, vở bài tập tốn.
4.3. Dạy học sinh nắm vững kiến thức sách giáo khoa và nâng cao kiến thức cho
học sinh:
Thông thường giáo viên chỉ chú ý tới việc học sinh làm đủ, làm đúng các bài tập
trong SGK, vở bài tập theo quy định của tiết học, nên đôi khi gặp những trường hợp
khác lạ là học sinh lúng túng vì quen giải theo khn mẫu, ít tư duy tìm tịi sáng tạo.
Vì thế để học tốt giải tốn 2, tơi ln tìm cách mở rộng ngay sau một bài tập nào
đó trong số bài luyện vào buổi chiều, tuy nhiên ở mức độ hợp với trình độ học sinh
trong lớp, các đối tượng tiếp thu được.
Khi học sinh làm đủ 100% số bài tập quy định chưa hẳn là đã thành thạo cách
giải loại tốn đó, nhất là học sinh trung bình, yếu. Vì vậy, tơi đã cố gắng đưa nội dung
kiến thức vào bài tập thật phong phú, đa dạng dựa vào bài tập có sẵn, vẫn xoay quanh

nội dung bài vừa học hoặc vừa luyện. Bài tốn đưa ra các hình thức khác nhau, tôi
khai thác được tư duy của học sinh. Các dạng tốn có thể thực hiện được điều này như.
* Dạng tốn về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị.
- Giúp học sinh nhận ra những dấu hiệu cơ bản của từng dạng toán:
+ Dạng toán "nhiều hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ "chìa khóa" như:
"nhiều hơn"; "cao hơn"; "dài hơn"; "nặng hơn"...


5

+ Dạng tốn "ít hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ "chìa khóa" như : "ít
hơn"; "thấp hơn"; "kém"; "nhẹ hơn" “ ngắn hơn” ...
- Bên cạnh đó khi hướng dẫn học sinh làm các bài tốn nâng cao giáo viên phải
hướng dẫn học sinh hiểu được bản chất của bài toán, khắc sâu kiến thức về giải toán
cho học sinh, tránh hiện tượng học sinh làm bài một cách máy móc theo mẫu (thấy
"nhiều hơn" thì làm phép cộng, "ít hơn" thì làm phép trừ...).
 Sau đây là các bài tốn nâng cao tơi hướng dẫn học sinh:
Bài toán 1 : Sợi dây màu xanh dài 35 cm, sợi dây màu xanh ngắn hơn sợ dây màu đỏ 20
cm. Hỏi sợi dây màu đỏ dài bao nhiêu xăng – ti – mét ? ( Sách tham khảo)
+ Để giải được bài này, tôi hướng dẫn học sinh phải hiểu rõ yêu cầu của bài toán. Đã
biết sợi dây màu xanh dài 35 cm mà sợi dây màu xanh lại ngắn hơn sợi dây màu đỏ 20
cm. Lúc này học sinh sẽ hiểu là sợi dây màu đỏ dài hơn sợi dây màu xanh. Muốn tìm sợi
dây màu đỏ dài bao nhiêu ta phải làm thế nào? (Tính cộng)
+ Học sinh phải tự phân tích đề tốn và giải :
Sợi dây màu đỏ dài là :
35 +20 = 55 ( cm)
Đáp số : 55 cm
Với việc mở rộng kiến thức này, học sinh sẽ linh hoạt hơn khi giải tốn khơng
nhất thiết cứ nhiều hơn là phải làm tính cộng.
Bài tốn 2: Bao thứ nhất đựng được 25 kg gạo, như vậy bao thứ nhất đựng ít hơn

bao thứ hai 8 kg gạo.(Sách tham khảo)
a) Tính số gạo của bao thứ hai.
b) Cả hai bao đựng bao nhiêu ki –lô- gam gạo?
 Giáo viên hướng dẫn học sinh giải từng phần của bài tốn.
a. Tính số gạo của bao thứ hai.
Bài tốn đã biết yếu tố gì ? (Số gạo của bao thứ nhất và biết bao thứ nhất đựng ít
hơn bao thứ hai 8 kg). Giáo viên giảng cho học sinh hiểu bao thứ nhất đựng ít hơn bao
thứ hai 8 kg nghĩa là bao thứ hai đựng nhiều hơn bao thứ nhất 8 kg.Vậy tìm số gạo
của bao thứ hai ta phải làm như thế nào?
- Học sinh nêu được cách làm như sau
Bao thứ hai đựng số gạo là :
25 + 8 = 33( kg)
Đáp số: 33 kg
* Đối với học sinh khá, giỏi sẽ làm nhanh hơn, vì vậy tơi đã mở rộng bài tập này
cho học sinh khá giỏi. Tuy nhiên cũng có thể có những học sinh trung bình giải quyết
được, tơi rất khuyến khích. Như vậy, trong cùng một khoảng thời gian dù học sinh
trung bình giải được phần này, vẫn còn một phần bài tập tiếp theo để học sinh khá,
giỏi giải tiếp.
Đối với học sinh giỏi tơi có thể nêu thêm:
b. Cả hai bao đựng bao nhiêu ki –lơ- gam gạo?
- Giáo viên hỏi học sinh: Muốn tìm cả hai bao nặng bao nhiêu ta làm thế nào?
- Học sinh nêu làm tính cộng lấy số gạo của bao thứ nhất cộng với số gạo của bao
thứ hai.
- Học sinh nêu được cách làm như sau:
Cả hai bao đựng số gạo là :
25 + 33 = 58( kg )
Đáp số: 58 kg
4.4. Hướng dẫn học sinh cách trình bày bài giải.



6

Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt và tìm được cách giải thì
việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải cũng rất quan trọng.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu được lời giải đúng, phép tính đúng , cách ghi
tên đơn vị và đáp số đúng.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu câu trả lời cần ngắn gọn, chính xác và đứng
nội dung câu hỏi của bài tốn. Tìm phép tính gì? theo 3 bước:
Bước 1: Viết câu lời giải - Bước 2: Viết phép tính - Bước 3: Viết đáp số.
(Với bài tốn đơn giải bằng 1 phép tính)
Lời giải - Phép tính - Lời giải - Phép tính - Đáp số.
(Với bài tốn giải bằng 2 phép tính).
Lưu ý học sinh
- Viết phép tính: Phép tính phải viết theo hàng ngang, không được viết theo cột
dọc. Không viết đơn vị kèm theo trong các phép tính mà chỉ viết đơn vị vào sau kết
quả phép tính và đặt trong dấu ngoặc đơn.
- Viết đáp số: Đáp số viết ở cuối bài giải, bài tốn có bao nhiêu câu hỏi thì có bấy
nhiêu đáp số, chỉ ghi 1 lần từ “đáp số”. Đáp số phải ngắn gọn và đủ ý trả lời cho câu
hỏi của bài tốn.
Ví dụ 1: Tịa nhà có 60 căn phịng. Có 35 căn phịng đã bật đèn. Hỏi còn bao
nhiêu căn phòng chưa bật đèn?
( Bài 3 – Trang 93 – Sách Toán 2 – Kết nối tri thức với cuộc sống)
- Gọi 2-3 học sinh đọc đề bài.
- Bài tốn cho biết gì? Bài tốn hỏi gì?
Giáo viên nhấn mạnh 60 căn phịng là tất cả số phòng đã bật đèn và chưa bật đèn.
Trong 60 căn phịng đó có 35 căn phịng đã bật đèn. Muốn tìm số căn phịng chưa bật đèn ta
phải làm thế nào?
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài tốn.
+ Chữ tóm tắt lùi vào 4 ơ li so với lề.
+ Đầu mỗi dịng tóm tắt cái cho, cái hỏi lùi vào 2 ô so với lề.

+ Cuối câu hỏi phần tóm tắt ghi dấu hỏi chấm.
Tóm tắt:
Tịa nhà có: 60 căn phịng
Đã bật đèn: 35 căn phịng
Chưa bật đèn: … căn phịng?
Hướng dẫn học sinh giải tốn có lời văn chính xác và trình bày bài giải như sau:
+ Câu lời giải lùi vào 1 ô li so với lề
+ Phép tính lùi vào 3 ơ li so với lề
+ Đáp số lùi vào 5 ô li so với lề
Bài giải
Tòa nhà còn số căn phòng chưa bật đèn là:
60 – 35 = 25 (căn phòng )
Đáp số : 25 căn phịng
Ví dụ 2: Con lợn thứ nhất nặng 118kg. Con lợn thứ hai nhẹ hơn con lợn thứ
nhất 7kg. Hỏi:
a) Con lợn thứ hai nặng bao nhiêu ki-lô-gam?
b) Cả hai con lợn nặng bao nhiêu ki-lô-gam?
(Bài 239 – trang 39 - Toán nâng cao lớp 2)
Bài giải:
a. Con lợn thứ hai nặng số ki-lô-gam là:


7

118 – 7 = 111(kg)
b. Cả hai con lợn nặng số ki-lô-gam là:
118 + 111 = 229 (kg)
Đáp số: a) 111 kg
b) 229 kg
- GV lưu ý học sinh cách viết đơn vị tính chỉ viết dấu ngoặc đơn ở phép tính

Cịn ở đáp số khơng phải viết dấu ngoặc đơn...
4.5. Hướng dẫn học sinh tìm lời giải khác.
- Giáo viên tìm những câu hỏi dễ hiểu, hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh tìm ra
những câu trả lời khác cho lời giải của bài tốn để phát huy trí lực học sinh tạo điều
kiện cho tư duy toán phát triển.
Ví dụ: Một cửa hàng điện máy, buổi sáng bán được 11 máy tính, buổi chiều bán
được ít hơn buổi sáng 3 máy tính. Hỏi buổi chiều cửa hàng bán được bao nhiêu máy
tính? ( Bài 4 – Trang 126 – Sách Toán 2 – Kết nối tri thức với cuộc sống)
Giáo viên phải yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài tốn. Tóm tắt đầu bài bằng lời
hoặc cách vẽ sơ đồ để tìm ra cách giải đúng và nhiều cách khác.
Tóm tắt
Buổi sáng
: 11 máy tính
Buổi chiều ít ít hơn : 3 máy tính
Buổi chiều
: … máy tính?
Hoặc

Buổi sáng
Buổi chiều
Bài giải

Bài giải
Buổi chiều của hàng bán được số máy tính là:
11 – 3= 8 ( máy tính )
Đáp số: 8 máy tính
- GV hỏi thêm ngồi câu trả lời trên con cịn có câu trả lời nào khác khơng? Để
khắc sâu liến thức cho học sinh.
Có em sẽ giải như sau :
Số máy tính buổi chiều cửa hàng bán được là:

11 – 3 = 8 ( máy tính )
Đáp số: 8 máy tính
- Giáo viên có thể hỏi học sinh: Con thấy hai câu trả lời này có gì khác nhau
khơng? ( Khơng khác nhau vì hai câu trả lời này cùng trả lời số máy tính của buổi
chiều)
Các em phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính. Từ đó học sinh tìm được cách
giải tốn triệt để bằng nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Học sinh nắm chắc đề tốn,
hiểu kỹ đề, để tìm cách giải khác có lời văn chính xác, phát triển tư duy tồn diện.
4.6. Rèn luyện kỹ năng tính tốn giúp học sinh giải tốn chính xác tránh
nhầm lẫn khi tính tốn.


8

- Có những em nắm được cách giải đúng nhưng khi tính tốn lại sai dẫn đến
kết quả bài tốn sai. Vậy tôi phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính tốn chính
xác, trình bày khoa học rõ ràng.
- Nếu là phép cộng, trừ trong bảng học thuộc thì vận dụng để tìm nhanh. Nếu là
các phép cộng, trừ ngồi bảng các em phải đặt tính cột dọc. Với phép nhân và phép
chia, học sinh học thuộc bảng nhân, chia là bảng 2 và bảng 5. Các nhóm, đơi bạn cùng
tiến thường xun kiểm tra nhau bằng hình thức đố toán trong giờ chơi, giờ truy bài…để
củng cố kiến thức cộng, trừ, nhân, chia đã học.
Làm ra nháp cẩn thận, kiểm tra kết quả, đúng mới viết vào bài làm. Cần rèn luyện
kỹ năng tính nhẩm, tính viết thành thạo cho học sinh trong q trình giải tốn, để hồn
thiện bài giải.
4.7. Rèn cho học sinh hình thành kĩ năng, kĩ xảo, nắm được phương pháp
chung về “giải tốn có lời văn”.
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khố
quan trọng nói lên những tình huống tốn học bị che lấp dưới cái vỏ ngơn từ thơng

thường như: “ ít hơn”, “nhiều hơn”, “tất cả” “ cịn lại”…
Nếu trong bài tốn có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn
cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài tốn đang làm, sau đó
giúp học sinh tóm tắt đề tốn bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại:
Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép
tính thích hợp được quy định khơng chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với
cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép
tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải
đúng bài toán đó. Với học sinh dân tộc thiểu số, khả năng hiểu tiếng Việt còn hạn chế
nên các em đã gặp khó khăn ngay từ bước này. Do vậy, giáo viên cần chú ý với việc
kết hợp giảng giải từ và thuật ngữ toán học giúp học sinh hiểu được nội dung bài toán.
Giáo viên cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, mơ hình hay dựa
vào hình vẽ, các sơ đồ tốn học.... để giúp các em hiểu khái niệm "nhiều hơn ", "ít
hơn”, “thêm”, “bớt”,... trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Để kiểm
tra việc học sinh hiểu nội dung bài toán như thế nào, giáo viên nên cho học sinh nhắc
lại yêu cầu bài toán. Sau khi đọc bài toán, học sinh cần xác định được 3 yếu tố cơ bản
của bài toán:
- Những dữ kiện của bài tốn: Đó là những cái đã cho, những cái đã biết của bài
toán. GV nêu câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác
định dữ kiện bằng bút chì trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh
gạch chân các dữ kiện đã cho theo quy ước là một gạch)
- Những ẩn số: Là cái chưa biết, là cái bài tốn u cầu tìm. Tương tự như trên,
giáo viên nên câu hỏi Bài tốn hỏi gì? u cầu học sinh tự xác định ẩn số bằng bút chì
trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân cái bài tốn u
cầu tìm theo quy ước là hai gạch để học sinh phân biệt). Việc làm này được thực hiện
thường xuyên sẽ rèn luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động trong giải tốn.
- Những điều kiện của bài tốn: đó là mối liên hệ giữa các dữ kiện và các ẩn số.
Ví dụ: Trong can có 15 l nước mắm. Mẹ đã rót 7 l nước mắm vào các chai. Hỏi trong
can còn lại bao nhiêu lít nước mắm?( Bài 5 trang 65 - SGK Toán 2 Kết nối tri thức với
cuộc sống)

+ Cái đã cho: Trong can có 15 l nước mắm, đã rót 7 l nước mắm.
+ Cái cần tìm: Trong can cịn lại bao nhiêu lít nước mắm?


9

Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, GV cần dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung,
u cầu của đề tốn. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa vào câu
hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài tốn rồi cho các
em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài tốn.
a. Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài tốn.
Hoạt động tìm tịi cách giải bài tốn gắn liền với việc phân tích các dữ kiện, ẩn
số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó lựa chọn
phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau:
- Minh hoạ bài tốn thơng qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh bớt
được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và
số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần hướng sự tập
trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài tốn, cịn những chi tiết phụ của bài
tốn cần gạt bỏ đi để HS khơng bị rối. Tóm tắt bài tốn chính là sự biểu diễn cái đã cho,
cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để tóm tắt một bài tốn, có thể
tóm tắt đề tốn theo các cách sau:
+ Tóm tắt bằng lời
+ Dùng sơ đồ đoạn thẳng
+ Dùng ngôn ngữ và kí hiệu
+ Dùng bảng
+ Dùng sơ đồ ven
+ Dùng hình vẽ
+ Dùng hình tượng trưng

Tuy nhiên, với khả năng của học sinh lớp 2, chúng ta chỉ nên hướng dẫn các em
các cách tóm tắt bằng lời, dùng sơ đồ đoạn thẳng hoặc dùng hình tượng trưng.
Ví dụ 1: Trên giá có 9 quyển sách và 8 quyển vở. Hỏi trên giá sách có tất cả bao
nhiêu quyển sách và vở? ( Bài 3 – Trang 83 Tập 1 - SGK Tốn 2 – Kết nối tri thức)
Tóm tắt:
Sách
: 9 quyển
Vở
: 8 quyển
Tất cả có : …quyển?
Ví dụ 2: Buổi sáng bác Mạnh thu hoạch được 87 bao thóc. Buổi chiều bác
Mạnh thu hoạch được nhiều hơn buổi sáng 6 bao thóc. Hỏi buổi chiều bác Mạnh thu
hoạch được bao nhiêu bao thóc?
( Bài 4 – Trang 74 - SGK Tốn 2- Kết nối tri thức với cuộc sống)
Tóm tắt
Buổi sáng:
87 bao thóc
6 bao thóc
Buổi chiều:
? bao thóc
b. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề tốn để xác định cái đã cho và cái phải
tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép cộng” nếu bài tốn
u cầu “ nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm
phần cịn lại” hay là “ ít hơn”…


10

Ví dụ 1: Mai gấp được 8 cái thuyền, Nam gấp được ít hơn Mai 2 cái thuyền.

Hỏi Nam gấp được bao nhiêu cái thuyền ? ( Bài 1 trang 51 - SGK Toán 2 – Kết nối tri
thức với cuộc sống)
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải tốn thơng qua các câu hỏi gợi ý
như:
+ Bài tốn cho biết gì? ( Mai gấp được 8 cái thuyền)
+ Bài tốn cịn cho biết gì nữa? (Nam gấp được ít hơn Mai 2 cái thuyền)
+ Bài tốn hỏi gì? (Nam gấp được bao nhiêu cái thuyền ?)
+ Muốn biết Nam gấp được bao nhiêu cái thuyền em làm tính gì? (tính trừ)
+ Lấy số nào trừ với số nào? (8 - 2)
+ 8 – 2 bằng bao nhiêu? ( 8 - 2 = 6)
Ví dụ 2: Con bê cân nặng 47 kg. Con nghé nặng hơn con bê 18 kg. Hỏi con
nghé cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam ( Bài 2 - Trang 80 - SGK Toán 2 – Kết nối tri thức
với cuộc sống)
Bài toán này giáo viên cũng hướng dẫn học sinh cách làm tương tự bài toán ở ví dụ 1.
Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải tốn thơng qua các câu hỏi gợi ý như:
+ Bài tốn cho biết gì? ( Con bê cân nặng 47 kg)
+ Bài tốn cịn cho biết gì nữa? (Con nghé nặng hơn con bê 18 kg)
+ Bài tốn hỏi gì? (Con nghé cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam?)
+ Muốn biết con nghé cân nặng bao nhiêu ki-lơ-gam em làm tính gì? (tính
cộng)
+ Lấy số nào cộng với số nào? (47 + 18)
Ví dụ 3: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài tốn: “ Cắm 15 bơng hoa vào
các lọ, mỗi lọ 5 bông. Hỏi cắm được mấy lọ hoa như vậy?”( Bài 1 - Trang 16 - SGK
Toán 2 – Kế), giáo viên nêu các câu hỏi như sau:
- Bài tốn hỏi gì? (Cắm được mấy lọ hoa?)
- Bài toán hỏi về số lọ hoa được chia từ mấy bông hoa? ( Số lọ hoa được chia từ
15 bông hoa)
- Muốn biết 15 bông hoa cắm được mấy lọ hoa ta phải biết gì? (Biết mỗi lọ có
mấy bơng hoa?)

- Điều đó chúng ta biết chưa? (biết rồi), mỗi lọ cắm bao nhiêu bông hoa? (mỗi
lọ cắm 5 bông hoa)
- Để biết cắm được mấy lọ hoa ta làm phép tính gì? (Làm phép tính chia)
c. Đặt câu lời giải thích hợp.
Ví dụ: Mai gấp được 7 chiếc thuyền giấy, Toàn gấp được nhiều hơn mai 5
chiếc. Hỏi Toàn gấp được bao nhiêu chiếc thuyền giấy? ( Bài 1 trang 46 - SGK Toán 2
– Kết nối tri thức với cuộc sống)
Việc đặt câu lời giải ở các bài tốn đơn khơng có gì khó khăn. Tuy nhiên, nếu
để ý một chút, ta sẽ thấy nội dung câu lời giải thường có 2 phần: Phần 1 ghi cái cần
tìm, phần 2 ghi phạm vi cái cần tìm biểu thị.
Ví dụ:
Số chiếc thuyền giấy
Tồn gấp được là:
Cái cần tìm
Phạm vi cái cần tìm biểu thị
Khi hướng dẫn HS đặt câu lời giải, nhiều GV không chú ý đến điều này nên
khơng có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng HS trả lời theo cảm tính, lúc
thế này, lúc thế khác. Đương nhiên, trừ những trường hợp nội dung câu trả lời chỉ có
một phần ( Phần 1), thường thì mỗi phép tính có 2 cách trả lời, có thể đặt phần 2 lên
trước, phần 1 để sau ( hoặc ngược lại).


11

HS có thể trả lời:
- Số chiếc thuyền giấy Tồn gấp được là:
Hoặc câu trả lời khác:
- Toàn gấp được số chiếc thuyền giấy là:
Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh một số mẹo nhỏ để viết được lời giải chính
xác với yêu cầu câu lời giải cần phải ghi ngắn gọn, đủ ý được mệnh đề khẳng định .

Đối với bài tốn trong ví dụ trên, có thể dùng các cách hướng dẫn học sinh như sau:
+ Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi), thay từ “bao
nhiêu” bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải : "Toàn gấp được số
chiếc thuyền giấy là:"
+ Cách 2: Bỏ từ “hỏi” và từ “bao nhiêu” trong câu hỏi rồi đưa từ " chiếc thuyền
giấy" ở cuối câu hỏi lên đầu và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số chiếc
thuyền giấy Tồn gấp được là:"
+ Cách 3: Dựa vào dịng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khố" của câu lời
giải. Ví dụ: Từ dịng cuối của tóm tắt: "Toàn gấp được :…..chiếc thuyền giấy ?". Học
sinh viết câu lời giải: " Toàn gấp được số chiếc thuyền giấy là:"
+ Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: " Hỏi Toàn gấp được bao nhiêu chiếc
thuyền giấy?" để học sinh trả lời miệng: " Toàn gấp được 12 chiếc thuyền giấy " rồi
chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
+ Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 7 + 5 = 12 (chiếc thuyền giấy), giáo viên
chỉ vào 12 và hỏi: "12 là số thuyền giấy của ai gấp được?" (là số thuyền giấy của Toàn
gấp được). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số
thuyền giấy Toàn gấp được là"
Khi viết câu lời giải, GV cũng cần lưu ý HS không được viết tắt các đơn vị đo
lường ( VD: Không được viết “kg” mà phải viết là “ ki - lô - gam”, không viết “ l” mà
phải viết là “ lít”,…), các đơn vị này chỉ viết tắt khi đứng sau một số thực (VD: 5 kg,
10 l,…).
Bên cạnh việc hướng dẫn HS viết câu lời giải đúng, GVcũng cần lưu ý hướng
dẫn viết tên đơn vị (danh số) ở kết quả phép tính và ở đáp số cho phù hợp. Các danh số
thường là 1 đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ tên) như: con gà, cái thuyền, kg gạo,…Khi
ghi danh số sau kết quả mỗi phép tính, ta chỉ cần ghi đơn vị chỉ lượng đứng trước là:
con, cái, kg,…nhưng khi ghi đáp số ta cần phải ghi đầy đủ là con gà, cái thuyền, kg
gạo,…
Bước 3: Trình bày bài giải:
- Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau
gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân.

- Bên cạnh đó, GV ln ln nhắc nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ
- viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng
là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành cơng trong vấn đề giải tốn có lời văn của các
em.
Ví dụ 1: Một chiếc tàu du lịch chở hai đoàn khách tham quan, đồn khách thứ nhất có
35 người, đồn khách thứ hai có 25 người. Hỏi hai đồn khách tham quan có tất cả bao nhiêu
người? ( Bài 5 – Trang 63 – SGK Kết nối tri thức)
Bước 4: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải
Hướng dẫn học sinh làm tốt dạng bài Giải tốn có lời văn rất quan trọng nhưng
việc khơng kém phần quan trọng đó là kiểm tra lại bài làm của mình. Qua quá trình
quan sát học sinh giải tốn, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã
giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin


12

chắc kết quả là đúng khơng?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá
kết quả là khơng thể thiếu khi giải tốn và phải trở thành thói quen đối với học sinh.
Cho nên khi dạy giải tốn, tơi ln hướng dẫn các em thơng qua các bước:
- Đọc lại lời giải để kiểm tra xem giữa lời giải và phép tính đã phù hợp chưa, hợp
lí chưa?
- Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí với yêu cầu của bài chưa, các câu văn
diễn đạt trong lời giải đúng chưa?
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
* Để hình thành cho học sinh có kĩ năng, kĩ xảo “giải tốn có lời văn” theo các
bước trên, đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên
tùy theo từng đối tượng học sinh mà chúng ta áp dụng cho phù hợp. Có thể mở rộng
thêm hoặc làm kĩ từng bước.
Ví dụ: Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu, tôi làm kĩ 2 bước đầu để các em hiểu rõ
bản chất của đề bài, có như vậy các em mới làm tốt được bài toán đã cho.

Đối với học sinh năng khiếu nếu chúng ta chỉ dừng ở 4 bước trên thì mới chỉ
giúp học sinh tìm được lời giải và đáp số của từng bài tập cụ thể mà chưa hề rèn luyện
trí thơng minh và óc sáng tạo cho học sinh. Do đó, sau khi học sinh luyện tập thành
thạo 4 bước, tơi cho học sinh có thói quen làm tiếp một bước nữa đó là khai thác và
phát triển bài tốn. Đây chính là bước rèn luyện trí thơng minh và óc sáng tạo của học
sinh. Bởi vậy sau khi học sinh giải xong bài toán và thử lại đúng kết quả, tôi hướng
dẫn học sinh cách giải khác (nếu bài giải có nhiều cách giải).
4.8. Chấm chữa kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng giải toán.
Thực hiện đánh giá học sinh theo thông tư 27 của Bộ giáo dục về việc chấm chữa
bài cho học sinh tiểu học khối lớp 1 từ năm học 2020 -2021 và lớp 2 bắt đầu từ năm
học 2021 - 2022, có nhiều cách đánh giá học sinh. Sau đây là cách mà tôi đánh giá
qua bài làm của học sinh: Sau khi học sinh làm xong bài tốn tơi tiến hành chấm bài
của học sinh ngay tại lớp, khi đó tơi đã động viên kịp thời những em làm tốt, đồng thời
nhắc nhở kịp thời những em làm chưa đúng ở chỗ nào để các em nhận ra và kịp thời
sửa chữa. Năm nay do dịch bệnh covid kéo dài nên thời gian các con học trực tiếp ở
trường là rất ít mà đa số các con học online nên tôi đã hướng dẫn học sinh gửi bài qua
zalo để tơi kiểm tra sau đó nhận xét bài làm của học sinh kịp thời.
Sau khi dịch bệnh tạm lắng xuống học sinh được đến trường học trực tiếp tôi tôi
cho học sinh tự kiểm tra kết quả bài giải của nhau, cứ hai học sinh ngồi cùng bàn tự
đổi chéo vở và kiểm tra kết quả bài giải của bạn. Sau đó tơi hỏi vài học sinh về kết quả
bài làm của bạn mà con vừa kiểm tra. Học sinh sẽ nêu nhận xét về cái đúng và cái sai
của bạn.
Cụ thể trong tiết tốn tơi đã thường xuyên thực hiện như sau :
Sau khi cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyết các bài tập. Tôi
luôn cố gắng đảm bảo 100% học sinh trong lớp làm đủ các bài tập.
Đối với học sinh khá giỏi thì dễ dàng, cịn đối với học sinh trung bình để làm
đúng 100% số bài tập ngay tại lớp là khó khăn. Vì vậy trong q trình học sinh đang
làm bài tập, tơi đã quan sát việc làm bài của số học sinh này nhiều hơn, kịp thời phát
hiện những chỗ sai để uốn nắn học sinh theo dõi bài chữa trên bảng, biết chỗ sai để
học sinh tự chữa ; có thể dùng một vài câu hỏi nhỏ gợi ý.

Tuy nhiên gặp những bài khó, học sinh có lỗi lớn về đường lối giải, nhiều học sinh
sai thì tơi u cầu học sinh nhận xét lỗi sai ở chỗ nào ? Cách sửa thế nào ?


13

Thường thì tơi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh
làm được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tơi đã củng cố cho học sinh đó và đồng thời
chữa chung cho nhiều em khác.
Cịn gặp bài khó, học sinh lúng túng, tôi dùng câu hỏi gợi ý hoặc dùng học sinh
giỏi của lớp tham gia chữa bài.
Trong tiết toán, thời gian có hạn, tơi chú ý chấm chữa cho học sinh trung bình,
yếu và chú ý tới những lỗi sai mà học sinh mắc nhiều.
Với cách làm như vậy lỗi sai khơng bị kéo dài, mà học sinh có thói quen làm tốn
đúng, chủ động giải. Tơi cố gắng chữa triệt để những lỗi sai bằng cách
+ Học sinh chữa lỗi sai nhỏ như : Tên đơn vị, kết quả ... vào ngay trong vở, lỗi lớn
như sai cách giải, câu trả lời chưa rõ ý thì chữa ngay vào vở tốn khác do lớp quy định. Sau
đó tơi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa của học sinh, học sinh phải tự làm bài đó
một lần nữa để khắc sâu bài học. Có những học sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được
tôi kiểm tra triệt để, cuối cùng phải chữa đúng mới thôi.
+ Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài,
tơi u cầu học sinh ngồi việc chữa đúng cịn phải trình bày lưu lốt, sạch đẹp, rõ
ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh nhớ
rất kỹ bài giải, lần sau gặp dạng tốn khó học sinh rất ít sai sót.
2.9. Đưa các trị chơi vào tiết học.
Để giúp học sinh có tâm thế tốt để học tốt tiết Tốn tơi thường xun đưa các trị
chơi vào phần khởi động trước tiết học để ôn lại kiến thức bài đã học đồng thời giúp học
sinh “ Học mà chơi, chơi mà học”, lồng ghép vào giới thiệu bài mới giúp học sinh có
hứng thú khi học tiết Tốn như trị chơi Vịng quay kỳ diệu, Ơ cửa bí mật, Giải cứu đại
dương,.. Sau bài học, để giúp các con học sinh củng cố khắc sâu kiến thức cho học sinh

tơi cũng thường xun đưa các trị chơi vào phần cuối bài giúp học sinh hào hứng tham
gia vào trò chơi nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh.
3. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến
Bằng việc áp dụng những biện pháp dạy học như trên, đến nay gần hết năm học
2021 - 2022, tôi thấy học sinh trong lớp có tiến bộ rõ rệt. Các em nắm vững các kiến
thức cơ bản, biết vận dụng tốt trong bài làm của mình và ngày càng hứng thú với việc
học Tốn, khơng thấy sợ học Tốn nữa. Điều đó được minh chứng qua kết quả bảng so
sánh sau:
Mức đạt

ND
Đánh giá

Trước khi thực hiện

số
HS

Hoàn
thành tốt

Hoàn
thành

Số
bài

Tỉ lệ
(%)


Số
bài

Tỉ lệ
(%)

Sau khi thực hiện

Chưa
Hồn
hồn
thành
thành
tốt
Tỉ
Tỉ
Số
Số
lệ
lệ
bài
bài
(%)
(%)

Chưa
hồn
thành
Tỉ
Tỉ

Số
Số
lệ
lệ
bài
bài
(%)
(%)
Hồn
thành

Họcsinh
hiểu đầu bài

44

8

18,2

26

59,1

10

22,7

24


54,5

20

45,5

0

0

HS tóm tắt
bài tốn

44

7

15,9

22

50

15

34,1

23

52,3


21

47,7

0

0

HS trình bày
bài giảng

44

9

20,5

23

52,3

12

27,2

23

52,3


21

47,7

0

0

Trong quá trình giảng dạy trên lớp bằng cách đánh giá thường xuyên và đánh giá
định kỳ tôi thấy học sinh có nhiều tiến bộ. Số học sinh hiểu đầu bài tốn, học sinh tóm


14

tắt và giải chính xác bài tốn tăng lên rõ rệt. Số học sinh hoàn thành tốt tăng vượt bậc
so với đầu năm, số học sinh chưa hoàn thành giảm hẳn. Để đạt được kết quả trên, theo
tôi, người giáo viên phải có lịng nhiệt tình, có tâm huyết với nghề, vượt qua mọi khó
khăn tất cả vì học sinh thân yêu. Từ đó, các em sẽ được lĩnh hội kiến thức qua những
bài giảng hay, sáng tạo.
Từ kết quả trên, có thể khẳng định, sáng kiến đã mang lại hiệu quả rất thiết
thực:
- Về khoa học: Học sinh được tìm hiểu sâu hơn về kiến thức và kĩ năng làm các
bài tốn trong chương trình lớp 2. Phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
trong học tập của học sinh. Phát triển được tư duy toán học cho học sinh từ đó giúp các
em u thích mơn học.
- Về kinh tế: Sáng kiến có thể áp dụng trong tồn khối 2 tại trường mà khơng
tốn kém nhiều về mặt vật chất.
- Về xã hội: Nó giúp học sinh kĩ năng sáng tạo trong khoa học, có thể áp dụng vào
tính tốn nhanh, khoa học khi tham gia các hoạt động xã hội. Tạo ra những con người có
tính cẩn thận, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

Nội dung các biện pháp mà đề tài đưa ra cịn có tính khả thi rất cao vì nó có thể
vận dụng đại trà trong nhà trường năm học này và một số năm học tiếp theo mà không
tốn kém tiền bạc.
III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
Qua q trình giảng dạy lớp 2, với lịng say mê, nhiệt tình nghiên cứu và áp
dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ nhiệm đã giúp tôi hồn thành ý tưởng của mình.
Tơi thấy rằng, muốn học sinh hiểu bài, có kiến thức tốn vững chắc thì mỗi giáo viên
cần:
- Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo giáo viên cần chú ý nhiều đến
kĩ năng: đọc – viết - nói – nghe trong môn Tiếng Việt. Luyện kĩ năng hỏi - đáp giúp
các em có vốn từ ngữ lưu thơng tốt hơn, giúp các em dễ dàng đặt câu lời giải cho bài
toán.
- Phải cố gắng khắc phục những sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần,
mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
- Khi hướng dẫn giải các bài tốn có lời văn, giáo viên cần khuyến khích, động
viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau (nếu có thể) và lựa chọn cách giải hay
nhất.
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều
hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp, làm việc cá nhân, làm việc
theo nhóm... và tập chung chú ý tới cả ba đối tượng để giúp các em học tốt hơn.
* Một số đề xuất
Để sáng kiến mang lại hiệu quả và đi vào thực tiễn giảng dạy, tôi xin mạnh dạn
đề xuất một số nội dung sau:
* Đối với giáo viên: Cần chú trọng việc dạy học sinh giải tốn có lời văn. Khi
giảng dạy cho học sinh cần chuẩn bị tốt nội dung, hệ thống câu hỏi đưa ra khai thác,
quan tâm đến từng đối tượng học sinh, kịp thời uốn nắn sửa sai cách làm bài, trình bày
bài làm của học sinh, đặc biệt cần ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào dạy học,
tăng cường sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực
của học sinh. Mặt khác, mỗi giáo viên cần phải ln ln có ý thức học hỏi và trau dồi
kiến thức để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội.



15

* Đối với học sinh: Chủ động, tích cực, tự học, tự rèn, tự giác học tập. Nắm
được quy trình giải tốn có văn.
* Đối với phụ huynh: Cần quan tâm và theo sát con em mình hơn. Phối hợp tốt
với giáo viên để việc học tập của các em đạt hiệu quả.
* Đối với cơ quan quản lí chuyên môn các cấp: Quan tâm tới việc tổ chức các
chuyên đề chun mơn để bàn kỹ phương pháp, hình thức tổ chức dạy các bài khó, tiết
khó. Tạo điều kiện để mỗi giáo viên được nói lên những băn khoăn, suy nghĩ của mình
trong giảng dạy. Động viên kịp thời đối với giáo viên nhiệt tình, trách nhiệm, giảng
dạy.
Trên đây mới là những biện pháp của cá nhân tôi trong việc giúp học sinh lớp 2
làm tốt dạng bài giải tốn có lời văn nên chắc chắn sẽ cịn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất
mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp, xây dựng của các đồng chí để đề tài
của tơi được hồn thiện hơn và được áp dùng rộng rãi trong q trình dạy học.
Tơi xin chân thành cảm ơn!



×