Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Đ£ biến chất ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.95 KB, 4 trang )

VIẾT TRÌNH

Đá biến chất

Bách khoa tồn thư mở Wikipedia
Đá biến chất được hình thành từ sự biến tính của đá mácma, đá trầm
tích, thậm chí cả từ đá biến chất có trước, do sự tác động của nhiệt độ, áp
suất cao (nhiệt độ lớn hơn 150 đến 200 °C và áp suất khoảng trên 1500
bar[1])  và các chất có hoạt tính hố học, gọi là q trình biến chất.
Các chất có hoạt tính hố học thường gặp nhất là nước và axit
cacbonic thường xuyên có trong tất cả các loại đất, đá. Tính chất của đá
biến chất do tình trạng biến chất và thành phần của đá trước khi bị biến
chất. Dưới sự tác động của các tác nhân biến chất, các thành phần của đá
có thể tái kết tinh ở trạng thái rắn và sắp xếp lại. Tác dụng biến chất
khơng những có thể cải biến cấu trúc của đá mà cịn làm thay đổi thành
phần khống vật của nó.
Trong q trình biến chất do tác động của áp lực và sự tập hợp nhiều loại
kết tinh nên đá biến chất thường rắn chắc hơn đá trầm tích; nhưng đá
biến chất từ đá mácma thì do cấu tạo dạng phiến mà tính chất cơ học của
nó kém đá mácma.
Các đá biến chất chiếm phần lớn trong lớp vỏ của Trái đất và được phân
loại dựa trên cấu tạo, và thành phần hóa học và khống vật hay cịn gọi
là tướng biến chất. Chúng có thể được tạo ra dưới sâu trong lịng đất bởi
nhiệt độ và áp suất cao hoặc được tạo ra từ các quá trình kiến tạo
mảng như va chạm giữa các lục địa, và cũng được tạo ra khi khối mác
ma có nhiệt độ cao xâm nhập lên lớp vỏ củaTrái đất làm các đá có trước bị biến
đổi.

Mục lục
 [xem]
[sửa]Khoáng vật trong đá biến chất


Các khoáng vật tạo đá biến chất chủ yếu là những khoáng vật nằm trong
đá mácma, đá trầm tích và cũng có thể là các khống vật đặc biệt chỉ có ở
trong các loại đá biến chất dưới sâu
như sillimanit,kyanit, staurolit, andalusit, và granat
Các khoáng vật khác cũng được tìm thấy
như olivin, pyroxen, amphibol, mica, fenspat, và thạch anh nhưng khơng
nhất thiết là kết quả của q trình biến chất. Các khống vật này bền
vững ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao nên chúng ít bị biến đổi hóa học


VIẾT TRÌNH

trong q trình biến chất. Tuy nhiên, các khống vật trên chỉ không bị
biến đổi trong một giới hạn nhất định, sự có mặt của một số kống vật
trong đá biến chất phản ánh nhiệt độ và áp suất hình thành chúng.
Sự thay đổi kích thước hạt của đá trong quá trình biến chất được gọi là
quá trình tái kết tinh. Ví dụ, các tinh thể canxít trong đá vơi kết tinh thành
các hạt lớn hơn trong đá hoa, hay cát kết bị biến chất sự kết tinh của các
hạt thạch anh ban đầu tạo thành đá quartzit rất chặt thường gồm các tinh
thể thạch anh lớn hơn đan xen vào nhau. Cả hai yếu tố là nhiệt độ và áp
suất cao đều tạo ra sự tái kết tinh. Nhiệt độ cao cho phép các nguyên
tử và ion di chuyển và làm sắp xếp lại các tinh thể, còn áp suất làm cho
các tinh thể hịa tan tại các vị trí chúng tiếp xúc nhau.
Phần lớn đá biến chất (trừ đá hoa và đá quartzit) là quá nửa khống vật
của nó có cấu tạo dạng phiến gồm các lớp song song nhau, dễ tách thành
những phiến mỏng.
[sửa]Cấu tạo đá biến chất

Cấu tạo phân phiến bị uốn nếp trong đá biến chất
gần Geirangerfjord, Norway

Sự hình thành các lớp nằm trong các đá biến chất được gọi là sự phân
phiến. Các lớp này được hình thành do lực nép ép theo một trục trong quá
trình tái kết tinh, và đồng thời tạo ra các khống vật kết tinh dạng tấm
như mica, clorit có mặt phẳng vng góc với lực tác dụng. Cấu tạo của đá
biến chất được chia thành hai loại là cấu tạo phân phiến và cấu tạo khơng
phân phiến.


Đá có cấu tạo phân phiến là sản phẩm của sự biến dạng đá có trước
theo một mặt phẳng, đôi khi tạo ra các mặt cát khai của khống vật: ví
dụ slat là đá biến chất có cấu tạo phân phiến từ đá phiến sét.


VIẾT TRÌNH



Đá có cấu tạo khơng phân phiến khơng có hoa văn (dải) theo từng
lớp và được hình thành do ứng suất tác dụng từ nhiều phía hoặc khơng
có các khống vật phát triển đặc biệt như phyllit có hạt thơ, diệp
thạch có hạt thô hơn, gơnai hạt rất thô, và đá hoa.

[sửa]Một vài loại đá biến chất


Đá gơnai(gneiss) hay đá phiến ma: đá gơnai là do đá granit (đá hoa
cương)tái kết tinh và biến chất dưới tác dụng của áp lực cao thuộc
loại biến chất khu vực, tinh thể hạt thô, cấu tạo dạng lớp hay phân
phiến - trong đó những khống vật như thạch anh màu nhạt, fenspat và
các khống vật màu sẫm,mica xếp lớp xen kẽ nhau trơng rất đẹp. Do

cấu tạo dạng lớp nên cường độ theo các phương khác cũng khác nhau,
dễ bị phong hoá và tách lớp. Đá gơnai dùng chủ yếu để làm tấm ốp
lòng bờ kênh, lát vỉa hè.



Đá hoa: là loại đá biến chất tiếp xúc hoặc biến chất khu vực, do tái
kết tinh từ đá vôi và đá đôlômit dưới tác dụng của nhiệt độ và áp suất
cao. Đá hoa bao gồm những tinh thể lớn hay nhỏ của canxit, thỉnh
thoảng có xen các hạt đơlơmit liên kết với nhau rất chặt. Đá hoa có
nhiều màu sắc như trắng, vàng, hồng, đỏ, đen... xen lẫn những mảnh
nhỏ và vân hoa. Cường độ chịu nén 1.200 kg/cm², đôi khi đến 3.000
kg/cm², dễ gia công cơ học, dễ mài nhắn và đánh bóng. Đá hoa được
dùng làm đá tấm ốp trang trí mặt chính, làm bậc cầu thang, lát sàn
nhà, làm cốt liệu cho bê tông, granito.



Đá quartzit (quăczit) là sa thạch hoặc cát kết thạch anh tái kết tinh
tạo thành. Đá màu trắng đỏ hay tím, chịu phong hố tốt, cường độ chịu
nén khá cao (4.000 kg/cm²), độ cứng lớn. Quartzit được sử dụng để xây
trụ cầu, chế tạo tấm ốp, làm đá dăm, đá hộc cho cầu đường, làm
nguyên liệu sản xuất vật liệu chịu lửa.



Đá bản: có cấu tạo dạng phiến, tạo thành từ sự biến chất của đá
trầm tích kiểu đá phiến sét dưới áp lực cao. Đá màu xám sẫm, ổn định
đối với khơng khí, khơng bị nước phá hoại và dễ tách thành lớp mỏng.
Diệp thạch sét dùng làm vật liệu lợp rất đẹp.


[sửa]Các kết cấu đá biến chất
Năm kết cấu đá biến chất cơ sở với các kiểu đá điển hình là:


VIẾT TRÌNH



Dạng đá bản (bản nham): Đá bản và phyllit; sự phân phiến gọi là
'cát khai đá bản'



Dạng diệp thạch (đá phiến, phiến nham): Diệp thạch hay đá phiến;
sự phân phiến gọi là 'cát khai đá phiến'



Dạng gơnai (đá phiến ma, phiến ma nham): Gơnai; sự phân phiến
gọi là 'cát khai gơnai'



Dạng granoblastic: Granulit, một vài dạng cẩm thạch (đá hoa)
và quartzit



Dạng đá sừng: Đá sừng và skarn




×