Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bài Tiểu Luận Nhập Môn Khoa Học Tự Nhiên -2023.Doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.2 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

LỚP BỒI DƯỠNG TÍCH HỢP KHOA HỌC TỰ NHIÊN
DÀNH CHO GIÁO VIÊN THCS
BÀI TIỂU LUẬN
NHẬP MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Họ và tên: ........................................
Ngày sinh: .......................................
SĐT liên hệ: ...................................
Nơi sinh: .........................................
Đơn vị công tác: .............................

Năm 2023

T r a n g 1 | 18


TIỂU LUẬN KẾT THÚC CHUYÊN ĐỀ
NHẬP MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN
(dành cho giáo viên dạy môn KHTN ở cấp THCS)
Họ tên học viên: ……………………………………………..
Đơn vị: ……………………………………………………………
ĐỀ BÀI
Câu 1: (7 điểm)
Anh/chị hãy phân tích để trả lời câu hỏi: Vì sao giáo viên dạy môn KHTN cần
phải được bồi dưỡng để nâng cao Năng lực KHTN (khái niệm chung, các chủ
đề, các nguyên lý,…) và Năng lực dạy học KHTN (phân tích chương trình, lý
luận dạy học, kỹ thuật dạy học,…)?
BÀI LÀM


I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Năng lực và năng lực dạy học
1.1. Năng lực
Năng lực là khái niệm biểu đạt khả năng và mức độ hoàn thành một hoạt
động hoặc một nhóm hoạt động có mục đích của một cá nhân hoặc một tổ chức với
thời gian nhất định trong một mơi trường biến đổi. Nói đến năng lực là nói đến khả
năng thực hiện và mức độ hiệu quả của một hoạt động do một cá nhân hoặc một tổ
chức thực thi nhiệm vụ và quyền hạn được giao phó trong một mơi trường.
Khi đánh giá một người nào đó có năng lực, tức là đã thừa nhận người đó
thường xuyên đạt được kết quả cao trong lĩnh vực hoạt động đã được xác định.
Có thể nói: Năng lực là những nét độc đáo, nét riêng biệt của từng người, nó
khác nhau giữa người này và người khác ở mức độ và các lĩnh vực khác của hoạt
động.

T r a n g 2 | 18


Năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với
những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hồn
thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy
Năng lực là những thuộc tính tâm lý mà nhờ chúng, con người tiếp thu
tương đối dễ dàng những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và tiến hành một hoạt động
nào đó một cách có hiệu quả
Như vậy, năng lực là khả năng hồn thành có kết quả một cơng việc nào
đó. Về thực chất, đó là sự phù hợp một bên là yêu cầu công việc và một bên khác
là những phẩm chất tâm lý của cá nhân.
1.2. Năng lực dạy học
Năng lực dạy học được biểu hiện ở việc nắm vững, lựa chọn và tổ chức
sắp xếp các tri thức; nắm vững đối tượng giảng dạy; khả năng sử dụng ngôn ngữ
và khả năng diễn đạt ý tưởng, linh hoạt sử dụng các phương tiện dạy học; tổ

chức quản lý, điều khiển HS trong giờ học; lôi cuốn, thuyết phục HS trong các
hoạt động học tập; biết ứng xử nhanh các tình huống có vấn đề trong lớp học,
trong giờ học; biết cách hướng dẫn có hiệu quả việc dạy các đối tượng cá biệt.
Thành phần tạo nên năng lực là tri thức, khả năng, kĩ xảo và thái độ.
Theo cấu trúc chung, năng lực dạy học là tổ hợp của nhiều năng lực cụ thể
như năng lực hiểu HS qua quá trình dạy học; tri thức và tầm hiểu biết của
người GV năng lực xử lí tài liệu học tập và năng lực nắm vững kĩ thuật dạy
học. NLDH là khả năng thực hiện các hoạt động dạy học đạt kết quả và chất
lượng cao của người GV bao gồm:
- Tri thức và tầm hiểu biết của người GV

Đây là một yếu tố cơ bản của năng lực dạy học, một trong những năng
lực cốt lõi của nghề dạy học. GV phải là người nắm vững kiến thức chun
mơn, trước hết, đó
là sự am hiểu kiến thức chun mơn mình dạy; có năng lực nghiên cứu, tự

T r a n g 3 | 18


học, tự bồi dưỡng. Cùng với kiến thức về chuyên mơn, GV cần phải có kiến
thức về các mơn học khác và am hiểu về các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
- Năng lực hiểu HS trong quá trình dạy học

Đây là năng lực cơ bản của GV trong q trình dạy học, nó được xem
là chỉ số cơ bản của năng lực sư phạm. Đó là năng lực thâm nhập vào thế giới
bên trong của HS sự hiểu biết tường tận nhân cách của chúng, cũng như năng
lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lí của học sinh trong quá trình dạy
học: “GV giỏi là người hiểu trình độ tri thức hơn là bản thân các em tự hiểu
về mình”. Biểu hiện trước hết của năng lực hiểu HS là ở chỗ, GV biết xác
định được khối lượng kiến thức đã có ở mức độ, phạm vi lĩnh hội của nó và từ

đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày trong cơng tác
dạy học.
- Năng lực xử lí tài liệu học tập

Căn cứ vào trình độ nhận thức của HS, muốn giúp HS nắm được tài liệu
học tập đòi hỏi người thầy giáo phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu dùng để dạy
cho HS. Để đạt được yêu cầu đó, trước hết địi hỏi người GV cần biết lựa chọn
và đánh giá đúng tài liệu học tập, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức chung
của môn học và trình độ nhận thức của HS, nhằm đảm bảo yêu cầu của những
kiến thức đó phù hợp với đặc điểm cá nhân, trình độ kinh nghiệm của HS làm
cho tài liệu đó trở nên dễ dàng tiếp thu đối với HS.
- Năng lực vận dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học

Nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt
động nhận thức của HS qua bài giảng được thể hiện ở các mặt như: tạo được cho
HS ở vị trí người phát hiện kiến thức trong quá trình học tập; truyền đạt tài liệu
rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với HS, biết gây được hứng thú
và kích thích HS suy nghĩ tích cực, độc lập; ln tạo ra tâm thế có lợi cho sự
lĩnh hội, học tập bằng sự động viên, khêu gợi được sự chú ý HS; có khả năng

T r a n g 4 | 18


sử dụng ngôn ngữ và khả năng diễn đạt ý tưởng đồng thời biết ứng xử nhanh các
tình huống có vấn đề trong lớp học, trong giờ học.
2. Bồi dưỡng năng lực dạy học
Bồi dưỡng thực chất là bổ sung, “bồi đắp” những thiếu hụt về tri thức,
cập nhật cái mới trên cơ sở “ni dưỡng” những cái cũ cịn phù hợp để mở
mang có hệ thống những tri thức kỹ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết,
nâng cao hiệu quả lao động.

Qua các quan niệm trên ta thấy:
Bồi dưỡng thực chất là quá trình bổ sung kiến thức, kĩ năng để nâng
cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chun mơn nào đó qua hình thức đào
tạo nào đó.
Mục đích của q trình bồi dưỡng là nhằm củng cố, nâng cao phẩm
chất và năng lực chuyên môn nghiệp vụ sẵn có như tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc đang làm.
II. Những vấn đề chung về các môn khoa học tự nhiên và yêu cầu bồi
dưỡng năng lực dạy học các môn KHTN ở cấp THCS đáp ứng yêu cầu
chương trình giáo dục phổ thơng 2018
2.1. Các mơn Khoa học tự nhiên
Khoa học tự nhiên là các lĩnh vực gồm nội dung chủ yếu sau: Thiên
văn học và khoa học khơng gian, vật lý học, các mơn có liên quan khác, hóa
học, các mơn có liên quan khác, địa chất học, địa vật lý, khống vật lý, nhân
chủng học hình thái, địa lý tự nhiên và khoa học địa lý khác, khí tượng học và
khoa học khí quyển bao gồm nghiên cứu về khí hậu, khoa học về biển, núi
lửa, …
Theo chương trình giáo dục phổ thơng, các mơn khoa học tự nhiên là
các môn học được xây dựng và phát triển trên nền tảng của Vật lí, Hố học,
Sinh học và Khoa học Trái Đất…

T r a n g 5 | 18


Bên cạnh vai trị góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu
và năng lực chung cho học sinh, các mơn KHTN có sứ mệnh hình thành và
phát triển thế giới quan khoa học ở học sinh; đóng vai trò chủ đạo trong việc
giáo dục học sinh tinh thần khách quan, tình u thiên nhiên, tơn trọng các
quy luật của tự nhiên.
Các mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) giúp học sinh dần hình

thành và phát triển năng lực khoa học tự nhiên qua quan sát và thực nghiệm,
vận dụng tổng hợp kiến thức, kĩ năng để giải quyết các vấn đề trong cuộc
sống; đồng thời cùng với các mơn Tốn, Cơng nghệ, Tin học thực hiện giáo
dục STEM, một trong những xu hướng giáo dục được coi trọng ở nhiều quốc
gia trên thế giới và được quan tâm thích đáng trong đổi mới giáo dục phổ
thơng của Việt Nam.
2.2. Các năng lực Khoa học tự nhiên
Từ đặc thù các môn KHTN đặt ra yêu cầu về các năng lực dạy học cụ
thể của các môn học này, đó là:
2.2.1. Năng lực thiết kế dạy học các môn học KHTN
Thiết kế dạy học các môn học KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) là
cơng việc quan trọng của người GV trong hoạt động dạy học các môn học
này. Năng lực thiết kế dạy học các môn học KHTN được thể hiện qua một số
năng lực cụ thể sau:
- Năng lực chuẩn bị thiết kế bài học các mơn học KHTN (Vật lí, Hố
học, Sinh học):
Năng lực này thể hiện sự xác định khả năng nắm vững những kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo cần có trước liên quan đến bài học ở học sinh (để lựa
chọn hoạt động học trong bước sau). Nhờ có năng lực này, người GV dạy các
mơn học KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) dễ dàng xác định được kỹ năng
kỹ xảo, thao động tác mới cần huấn luyện trong bài; Phân tích đặc điểm hoạt

T r a n g 6 | 18


động của lớp học để có phương án tổ chức lớp; Phân tích các điều kiện thực
hành hiện có để chuẩn bị phương án tổ chức lớp học hợp lý; Xác định những
hạt nhân cho mỗi nhóm và cách tổ chức nhóm (nếu có thảo luận hoặc làm
việc nhóm).
- Năng lực thiết kế bài học dạy các môn học KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh

học):
Thiết kế bài học là một q trình có tính hệ thống để biến các ngun
tắc dạy học thành kế hoạch hoạt động dạy, hoạt động học và sử dụng, khai
thác phương tiện, tài liệu học tập. Thiết kế bài học gắn với việc viết mục tiêu
bài học, xác định nội dung và hoạt động dạy học, thiết kế các tài liệu học tập.
- Năng lực viết mục tiêu dạy học các môn học KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh
học)
Trong thực tế, có nhiều giáo viên dạy các mơn học KHTN (Vật lí, Hố
học, Sinh học) rất muốn dạy thật tốt, nhưng do họ khơng có ý tưởng rõ ràng
về cái đích cuối cùng phải đạt được sau bài dạy nên đến cuối buổi học, có
nhiều học sinh thực hiện được, có một số học sinh thì khơng, điểu này chính
là phụ thuộc vào năng lực viết mục tiêu bài học của họ. Mục tiêu dạy học là
tuyên bố về những gì học sinh phải hiểu rõ, phải làm được sau bài học Vật lí,
Hố học, Sinh học.
- Năng lực xác định hoạt động dạy học các mơn học KHTN (Vật lí,
Hố học, Sinh học):
Hoạt động dạy và hoạt động học thống nhất với nhau trong cùng một
q trình và khơng hoạt động nào thay thế cho hoạt động nào. Hoạt động của
người GV dạy các mơn học KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) khơng có mục
đích riêng cho mình mà nhằm mục đích tạo ra hoạt động nhận thức tích cực
của người học.
Hoạt động dạy học theo tiếp cận NLTH thường bắt đầu từ hoạt động

T r a n g 7 | 18


của người học, do vậy năng lực này thể hiện ở việc xác định được những hoạt
động của người học trong buổi học. Xác định được các hoạt động mà học
sinh phải tiến hành cũng đồng nghĩa với xác định phương pháp dạy học, vì
mỗi hoạt động của học sinh cần có ít nhất một hoạt động tương ứng của GV

để hướng dẫn, tổ chức, đánh giá các hoạt động đó.
2.2.2. Năng lực tiến hành dạy học các mơn học KHTN
Ở đây, GV dạy các mơn học KHTN (Vật lí, Hoá học, Sinh học) tổ chức
và điều khiển hoạt động của người học nhằm lĩnh hội kiến thức, kỹ năng,
hình thành thái độ nghề nghiệp, chứ không phải là áp đặt những thứ đó cho
người học.
Năng lực tiến hành dạy học các mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh
học) bao gồm một số năng lực cụ thể sau:
- Năng lực sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với mơn học
Vật lí, Hố học, Sinh học:
Mỗi một phương pháp dạy học các mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh
học) dù truyền thống hay hiện đại, đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó
của cơ chế dạy học hoặc nhấn mạnh lên mặt nào đó thuộc về vai trị của
người dạy. Chính vì thế mà khơng có một phương pháp giảng dạy nào được
cho là lý tưởng, là tối ưu nhất trong dạy học. Mỗi một phương pháp đều có ưu
điểm của nó. Điều quan trọng của năng lực này là người dạy biết khai thác,
vận dụng, sử dụng một cách tối ưu, hiệu quả các phương pháp trong điều kiện
có thể. Phương pháp dạy học truyền thống phải được kết hợp với các phương
pháp dạy học hiện đại để phát huy tính tích cực của người học.
Như vậy, năng lực này địi hỏi GV dạy học các mơn KHTN (Vật lí,
Hố học, Sinh học) phải biết vận dụng phương pháp dạy học một cách sáng
tạo vào các nội dung bài giảng cụ thể.
- Năng lực sử dụng phương tiện dạy học, thiết bị thực hành các môn

T r a n g 8 | 18


KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học)
GV dạy học các mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) phải có năng
lực sử dụng thiết bị và phương tiện dạy học, biết đưa mơ hình, học cụ cho

người học quan sát đúng lúc, để tập trung sự chú ý của người học. Nếu khai
thác được các phương tiện dạy học, thiết bị thực hành sẽ giúp cho người học
tiếp cận với thực tế, GV đỡ vất vả trong giờ lên lớp, giờ giảng sẽ trở nên hấp
dẫn, người học chú ý vào nội dung bài giảng, hiệu quả giờ giảng sẽ tăng lên
rõ rệt.
Nguyên tắc chung khi khai thác và sử dụng phương tiện dạy học đó là:
Đảm bảo phục vụ thiết thực cho bài giảng; Sử dụng phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh; Sử dụng đúng lúc, đúng cách, đủ cường độ; Đảm
bảo các quy tắc điều khiển và vận hành; Sử dụng phải an toàn.
2.2.3. Năng lực tổ chức học tập theo nhóm các mơn KHTN
Dạy học theo nhóm vừa là một hình thức dạy học vừa là một phương
pháp dạy học tích cực đang được sử dụng phổ biến vì tính ưu việt của nó cả
về mặt xã hội và về giáo dục. Tuy nhiên, muốn dạ̣y học tương tác theo nhóm
có kết quả, người GV cần có các NLTH sau đây:
-Năng lực chuẩn bị:
Địi hỏi GV dạy các mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) phải có có
khả năng chuẩn bị nội dung, về phương pháp dạy học, chuẩn bị tài liệu,
phương tiện, thiết bị luyện tập, vị trí luyện tập... để đảm bảo cho hoạt động
nhóm được thực hiện có hiệu quả;
-Năng lực tổ chức, quản lý:
Địi hỏi GV các mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) phải biết thủ
thuật chia nhóm theo yêu cầu của bài học và mục đích dạy học của mình.
2.2.4 Năng lực giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của người GV. Người GV dạy các

T r a n g 9 | 18


mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) có ngơn ngữ rõ ràng, diễn cảm sẽ
giúp cho người học hiểu bài tốt hơn, người học sẽ tập trung chú ý trong giờ

giảng. Ngơn ngữ cịn là yếu tố của tài năng sư phạm, nhiều nhà giáo nhờ có
khả năng diễn đạt tốt mà làm cho người học dễ tiếp thu bài giảng.
Năng lực giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ khi dạy các mơn KHTN (Vật
lí, Hố học, Sinh học) là năng lực biểu đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩ và tình
cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. Năng lực này
đòi hỏi GV phải chú ý đến cả nội dung và hình thức biểu đạt, cụ thể:
Về nội dung: Ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thơng tin lớn, diễn tả,
trình bày phải chính xác, cơ đọng, súc tích. Lời nói phải phản ánh được tính
kế tục, đảm bảo thơng tin logic;
Về hình thức: Ngơn ngữ giản dị, sinh động, giàu hình ảnh, có ngữ điệu,
sáng sủa, biểu cảm với cách phát âm mạch lạc trong đó khơng có những sai
phạm về tu từ học, về ngữ pháp, về ngữ âm. Hình thức trình bày sao cho dễ
hiểu, có chiều sâu về tư tưởng, có sức lay động tâm hồn người học.
2.2.5 Năng lực xử lý tình huống sư phạm
Tình huống sư phạm là hiện tượng, sự việc xẩy ra trong quá trình giáo
dục mà GV phải giải quyết. Trong thực tế dạy học nói chung, dạy các mơn
KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) nói riêng có rất nhiều loại tình huống sư
phạm xảy ra như:
- Các tình huống về kiến thức, kỹ năng;
- Các tình huống về tư thế, tác phong, trang phục của GV như GV;
- Các tình huống về cách ứng xử của học sinh.
2.2.6 Năng lực kiểm tra, đánh giá dạy học các môn KHTN
Năng lực này địi hỏi việc kiểm tra, đánh giá các mơn KHTN (Vật lí,
Hố học, Sinh học) phải đảm bảo tính khách quan, cơng bằng và chuẩn xác.
Làm được như thế thì uy tín của người GV sẽ được tăng lên, tạo ra được niềm

T r a n g 10 | 18


tin của người học. Ngoài việc đánh giá kết quả học tập của học sinh người

GV phải biết tự đánh giá những thành công, hạn chế của từng bài giảng để có
biện pháp khắc phục.
Để đánh giá kết quả học tập của người học được khách quan, công
bằng và chuẩn xác, địi hỏi GV phải có:
- Năng lực biên soạn công cụ đánh giá, năng lực sử dụng các công cụ
đánh giá, năng lực phân tích các minh chứng đánh giá,… các mơn KHTN
(Vật lí, Hố học, Sinh học);
- Vận dụng thành thạo và linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật kiểm
tra, đánh giá phù hợp đặc thù từng mơn học Vật lí, Hố học, Sinh học.
2.2.7 Năng lực quản lý dạy học các môn KHTN
Năng lực quản lý dạy học thể hiện ở việc người GV dạy các mơn
KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) phải biết:
- Thu thập thơng tin để lập các kế hoạch, lịch trình, thời gian biểu cho
cho hoạt động dạy học (lập kế hoạch);
- Biết huy động, phân phối, tổ chức các nguồn lực, quản lý lớp học để
thực hiện tốt các hoạt động dạy học (tổ chức thực hiện);
- Hướng dẫn, điều hành cơng việc học tập trong lớp, nhóm, đảm bảo tiến
trình và thời gian dạy học để việc dạy học đạt mục tiêu dạy học đã đề ra (chỉ
đạo, điều khiển).
- Kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm cho việc dạy học của mình. Hệ
thống năng lực dạy học các mơn KHTN (Vật lí, Hố học, Sinh học) là sự
phản ánh toàn bộ các nhiệm vụ, những việc dạy học hàng ngày của nhà giáo
trong một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, logic.
2.3 Yêu cầu bồi dưỡng năng lực dạy học các môn KHTN ở cấp THCS
đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thơng 2018
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 thể hiện quyết tâm của

T r a n g 11 | 18



Đảng, Nhà nước về thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Việc triển khai thực hiện Chương trình mới vào trường phổ thơng địi hỏi
người GV và CBQL giáo dục ngoài những kiến thức, kinh nghiệm về quản lý
đã có, cịn địi hỏi phải nâng cao một số kỹ năng cần thiết để tiếp cận, quản lý
và triển khai thực hiện trong cơ sở giáo dục của mình một cách có hiệu quả.
Vì vậy, u cầu của đổi mới Chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể và
những vấn đề đặt ra trong quá trình triển khai thực hiện; từ đó, địi hỏi nâng
cao năng lực GV, kỹ năng cần thiết của người CBQL trường phổ thơng. Đó
cũng là nhiệm vụ, u cầu đặt ra đối với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GV và
CBQL GD.
Chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể lần này được xây dựng theo
hướng tiếp cận năng lực, nghĩa là cả hoạt động dạy học các môn học lẫn các
hoạt động giáo dục trong nhà trường đều phải tận dụng mọi cơ hội cho học
sinh trải nghiệm; trong đó, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo
dục thể hiện sự đổi mới căn bản về “dạy người”; đồng thời với việc trải
nghiệm trong môn học nhằm đổi mới căn bản về “dạy chữ”.
Ngồi ra, Chương trình này bao gồm: thời gian dành cho các nội dung
học tập chung của cả nước (chương trình quốc gia) và thời gian dành cho nội
dung giáo dục của địa phương (chương trình địa phương). Mặt khác, Chương
trình tổng thể này chỉ quy định các môn học, nội dung các môn và tổng số giờ
trong năm của mơn học; do đó, nhà trường được quyền chủ động sắp xếp thời
khóa biểu trong từng tuần. Điểm mới của Chương trình là sẽ giao hẳn các
môn học tự chọn ở tiểu học, THCS và các hoạt động giáo dục về chương
trình địa phương (Tiếng dân tộc thiểu số, ngoại ngữ 2, hoạt động trải nghiệm
sáng tạo, hoạt động tự học có hướng dẫn). Đồng thời, chương trình giáo dục
địa phương cịn được bố trí 2 tuần để triển khai một số nội dung giáo dục
khác theo chương trình được Hội đồng thẩm định cấp tỉnh thông qua và Bộ

T r a n g 12 | 18



GD&ĐT phê duyệt.
Cụ thể, giáo dục khoa học tự nhiên được thực hiện trong nhiều môn
học, hoạt động giáo dục mà cốt lõi là các môn Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp
2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (cấp trung học cơ
sở); Vật lí, Hố học, Sinh học (cấp trung học phổ thông).
Nội dung giáo dục khoa học tự nhiên được phân chia theo hai giai
đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề
nghiệp.
- Giai đoạn giáo dục cơ bản

Ở cấp tiểu học, giáo dục khoa học tự nhiên tiếp cận một cách đơn giản
một số sự vật, hiện tượng phổ biến trong cuộc sống hằng ngày, giúp học sinh
có các nhận thức bước đầu về thế giới tự nhiên.
Ở cấp trung học cơ sở, giáo dục khoa học tự nhiên được thực hiện chủ yếu
thông qua môn Khoa học tự nhiên với việc tích hợp các kiến thức, kĩ năng về vật
lí, hố học và sinh học. Các kiến thức, kĩ năng này được tổ chức theo các mạch
nội dung (chất và sự biến đổi chất, vật sống, năng lượng và sự biến đổi, Trái Đất
và bầu trời), thể hiện các nguyên lí, quy luật chung của thế giới tự nhiên (tính cấu
trúc, sự đa dạng, sự tương tác, tính hệ thống, quy luật vận động và biến đổi),
đồng thời từng bước phản ánh vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển
xã hội và sự vận dụng kiến thức, kĩ năng về khoa học tự nhiên trong sử dụng và
khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Các nội dung này được sắp
xếp chủ yếu theo logic tuyến tính, kết hợp một số nội dung đồng tâm nhằm hình
thành nhận thức về thế giới tự nhiên và khoa học tự nhiên, giúp học sinh bước
đầu vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học về khoa học tự nhiên trong đời
sống.
- Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp

Giáo dục khoa học tự nhiên được thực hiện qua các mơn Vật lí, Hố học và


T r a n g 13 | 18


Sinh học ở lớp 10, lớp 11 và lớp 12. Đây là các mơn học thuộc nhóm mơn khoa
học tự nhiên được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và
năng lực của bản thân. Chương trình mỗi môn học giúp học sinh tiếp tục phát
triển năng lực khoa học tự nhiên dưới các góc độ đặc thù (vật lí, hóa học, sinh
học); vừa bảo đảm phát triển tri thức và kĩ năng trên nền tảng những năng lực
chung và năng lực khoa học tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản,
vừa đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp vào một số ngành nghề cụ thể.
Ở cấp trung học cơ sở: Các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc: Ngữ
văn; Tốn; Ngoại ngữ 1; Giáo dục cơng dân; Lịch sử và Địa lí; Khoa học tự
nhiên; Cơng nghệ; Tin học; Giáo dục thể chất; Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật);
Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp; Nội dung giáo dục của địa phương. Các
môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Mỗi ngày học 1 buổi, mỗi buổi khơng bố trí q 5 tiết học; mỗi tiết học 45
phút. Khuyến khích các trường trung học cơ sở đủ điều kiện thực hiện dạy học 2
buổi/ngày theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Việc sử dụng tiềm năng trong mỗi GV phải đi đôi với công tác bồi dưỡng
thường xuyên về chất lượng của ĐNGV trong nhà trường. Bao gồm việc bồi
dưỡng thường xuyên theo chương trình của Bộ GD&ĐT, bồi dưỡng thường
xuyên trong hè, tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ nhằm chuẩn hóa
ĐNGV, bồi dưỡng nâng chuẩn.
Chương trình giáo dục phổ thơng mới địi hỏi dạy học các mơn KHTN ở
cấp THCS chú trọng dạy học lấy học sinh làm trung tâm: Dạy học lấy học sinh
làm trung tâm là thuật ngữ dùng để miêu tả cách dạy của giáo viên và cách học
của học sinh nhằm tạo cơ hội cho học sinh khám phá, tìm tịi các khái niệm và các
thơng tin mới với sự hỗ
trợ, khuyến khích và hướng dẫn của giáo viên. Vai trò của giáo viên dạy học các

môn KHTN ở cấp THCS sẽ là người gợi mở, hỗ trợ học sinh tìm ra kiến thức dựa

T r a n g 14 | 18


trên những kinh nghiệm và hiểu biết đã có. Giáo viên quan tâm đến tồn bộ q
trình học và cách học của học sinh cũng như kết quả mà học sinh đạt được hằng
ngày dựa trên nhận xét, đánh giá kịp thời của giáo viên. Giáo viên tập trung vào
việc dạy học sinh và đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh theo đúng trình độ
tiếp thu của các em.
“Chương trình giáo dục phổ thơng mới đặt ra GV dạy học các môn KHTN
ở cấp THCS phải luôn hướng vào người học, dựa vào nhu cầu của người học
trong suốt quá trình dạy học. Nhiệm vụ của học sinh là độc lập, tích cực trong
học tập; học sinh làm việc theo cặp hoặc nhóm nhỏ; các em có cơ hội thực hành,
tương tác với bạn, với môi trường xung quanh; học sinh có cơ hội học tập thơng
qua quan sát, tìm hiểu, khám phá, thử nghiệm, giao tiếp trao đổi với nhau và tự
rút kinh”nghiệm.
Chương trình giáo dục phổ thơng mới địi hỏi người GV dạy học các mơn
KHTN ở cấp THCS cũng không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để có kiến thức sâu
rộng, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với HS THCS và đặc thù mơn
khoa học tự nhiên, tích cực làm đồ dùng dạy học đơn giản nhưng hấp dẫn với HS
và có hiệu quả giáo dục cao, hình thành cho HS phương pháp học, giúp HS rèn
luyện kỹ năng và phát huy trí tưởng tượng phong phú của HS.
Chương trình giáo dục phổ thông mới cũng đặt ra GV dạy học các môn
KHTN ở cấp THCS phải đổi mới cách đánh giá học sinh theo định hướng phát
triển năng lực.
Như vậy việc bồi dưỡng năng lực dạy học cho GV dạy môn KHTN đáp
ứng u cầu chương trình giáo dục phổ thơng mới có vai trị vơ cùng quan
trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo đáp ứng được những yêu cầu
ngày càng cao của thời đại mới. Với những đặc thù và tính ưu việt như vậy

thì cần khai thác triệt để hình thức này để phát triển đội ngũ GV nói chung và
đội ngũ GV dạy mơn KHTN nói riêng.

T r a n g 15 | 18


Câu 2: (3 điểm)
Anh/chị hãy đưa ra những luận cứ giúp khẳng định: Môn KHTN là một môn
học mới ở cấp THCS theo chương trình giáo dục phổ thơng năm 2018?
BÀI LÀM
Môn Khoa học tự nhiên cấp THCS trong chương trình giáo dục phổ thơng mới
là một mơn học tích hợp của mơn Vật lý, Hố học, Sinh học và Khoa học Trái đất… 
Đây là một môn học mới, phù hợp với xu hướng chung của giáo dục thế giới.
Tuy nhiên, vẫn có những ý kiến trái chiều, gây khơng ít băn khoăn cho giáo viên
đang giảng dạy 3 môn này ở cấp THCS.
Trước hết, mục tiêu GD-ĐT của chúng ta hiện không chỉ đào tạo ra những nhà
chuyên môn hẹp, là những nhà toán học, nhà vật lý, hoá học, sinh học, tin học, sử
học, nhà văn, nhà thơ… mà cần tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước, nhất là
khả năng sáng tạo của mỗi người lao động. Nghị quyết số 29 đã chỉ ra: Đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, phát triển phẩm chất và năng lực, phát huy cao
nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của cá nhân, sống tốt và làm việc hiệu quả…
Theo các nhà quản trị kinh tế, trong thời đại kinh tế tri thức, tồn cầu hố và
cách mạng cơng nghiệp 4.0, nếu người nào đó tập trung q đáng vào một chuyên
môn sẽ thui chột sự sáng tạo. Vì vậy, muốn có sáng tạo, một người phải thành thạo
một vài lĩnh vực. Steve Jobs, nhà chiến lược tài ba, một CEO của Apple đã đưa ra 3
công thức sáng tạo, đó là: Theo đuổi nhiều sở thích, đi bộ và tịnh tâm. Ơng cho biết,
sau khi thơi học tại Trường CĐ Reed, bang Oregon (Mỹ) đã quyết định đăng ký vào
học một số mơn mình cảm thấy thích thú, trong đó có lớp Calligraphy (viết chữ
đẹp). 

Khóa học này chẳng có chút gì liên quan đến tương lai hay chứa đựng bất kỳ
một mục đích thiết thực nào cho những dự định sau này của ơng. Thế nhưng, chính
những điều tích lũy được tại lớp học này đã giúp cho ơng hồn thiện bộ Typography

T r a n g 16 | 18


(Nghệ thuật sắp chữ) đẹp như mơ của hệ điều hành Macintosh. Như vậy, để một
người có sáng tạo trong thế giới hiện nay, người đó khơng chỉ tập trung vào một lĩnh
vực hẹp mà cần biết thêm các lĩnh vực khác để bổ trợ cho cơng việc.
Thứ hai, tích hợp và dạy học tích hợp (DHTH) sẽ giúp HS tiếp cận thế giới tự
nhiên tốt hơn. Tích hợp, thống nhất là bản chất của giới tự nhiên. Giới tự nhiên phát
triển theo một thể thống nhất, tích hợp, khơng phân chia, tách bạch theo các quá
trình hay lĩnh vực khoa học riêng rẽ nào. Chẳng hạn, sự phát triển của cây cối, lồi
vật… có sự thống nhất, tích hợp của các q trình sinh học, vật lý, hố học… 
Vì vậy, tại Hội nghị Phối hợp giảng dạy các khoa học của UNESCO ở Paris
năm 1972, các nhà khoa học GD đã đưa ra định nghĩa về “DHTH các khoa học”
(DHTHCKH) như sau: “Một cách trình bày các khái niệm và nguyên lí khoa học cho
phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh
hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau”. Hay nói cách
khác, DHTH nhằm giúp cho học sinh nhận thức được thế giới tự nhiên một cách đầy
đủ, đúng với bản chất hơn.
Thứ ba, xu thế phát triển của khoa học ngày nay là tiếp tục phân hố sâu, song
song với tích hợp liên môn, liên ngành, giao ngành ngày càng rộng. Việc giảng dạy
các khoa học trong nhà trường phải phản ánh sự phát triển hiện đại của khoa học,
bởi vậy không thể cứ tiếp tục giảng dạy các khoa học như là những lĩnh vực tri thức
riêng rẽ. 
Mặt khác, khối lượng tri thức khoa học đang gia tăng nhanh chóng mà thời gian
học tập trong nhà trường lại có hạn, do đó phải chuyển từ dạy các môn học riêng rẽ
sang dạy các mơn học tích hợp. Các mơn Vật lý, Hố học, Sinh học, Khoa học Trái

đất có chung mục tiêu là phát triển năng lực tìm hiểu tự nhiên, đồng thời các mơn
này có phương pháp nghiên cứu giống nhau là phương pháp thực nghiệm. Vì vậy,
mơn KHTN chính là tích hợp chung mục tiêu và phương pháp.

T r a n g 17 | 18


Với những lý do trên, tích hợp mơn KHTN ở cấp THCS và phân hố mơn KHTN
thành các mơn Vật lý, Hố học, Sinh học ở cấp THPT là hồn tồn có cơ sở khoa
học, phù hợp với xu hướng chung của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế
giới, phù hợp với tâm lý, nhận thức của HS THCS… Vấn đề là cần phải có giải pháp
để khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh ở các trường THCS hiện nay. Trong đó có
giải pháp đào tạo lại giáo viên Vật lý, Hoá học, Sinh học để có thể giảng dạy các
phân mơn trong mơn KHTN, nhất là đối với lớp 6 và 7, các chủ đề khơng phân biệt
mơn. Đến chương trình lớp 8, lớp 9, các chủ để, mạch kiến thức đi theo logic vật lý,
hố học và sinh học, nên GV từng mơn có thể dạy riêng rẽ. Về lâu dài, các trường sư
phạm cần mở đào tạo GV giảng dạy môn Khoa học

T r a n g 18 | 18



×