Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Báo cáo Tình trạng stress của người trẻ tuổi do thất nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.84 KB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG STRESS Ở NGƯỜI TRẺ TUỔI
DO THẤT NGHIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2021


MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề

1

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

4

3. Mục tiêu nghiên cứu

6

4. Đối tượng nghiên cứu

7

5. Câu hỏi nghiên cứu

7


6. Giả thuyết khoa học

7

7. Phạm vi nghiên cứu

7

8. Nhiệm vụ nghiên cứu

8

9. Phương pháp nghiên cứu

8

10.

Ý nghĩa nghiên cứu

8

11.

Kết cấu nghiên cứu

9

Chương 1. Cơ sở lý luận về stress ở người trưởng thành trẻ tuổi thất nghiệp
1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu

2. Lý luận về stress ở người trưởng thành trẻ tuổi thất nghiệp
Chương 2. Thực trạng Stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp

9
9
24
43

1. Các phương pháp nghiên cứu

43

2. Kết quả nghiên cứu

43

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

Tài liệu nước ngoài

82

Tài liệu tiếng Việt


94



MỞ ĐẦU
1.

Đặt vấn đề

Tại Châu Á, theo báo cáo Xu hướng việc làm Toàn cầu cho Thanh niên năm
2020 (GET 2020), tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên ở khu vực Châu Á và Thái Bình
Dương liên tục tăng kể từ năm 2012 và được dự báo tăng lên mức 14,1% vào năm
2020 so với mức 13,7% trên toàn cầu.
Tại Nhật Bản, số lao động khơng có việc làm đã tăng lên mức kỷ lục sáu triệu
người trong tháng 4 vừa qua, tương đương 8,8% lực lượng lao động, từ con số chỉ 2,5
triệu người thất nghiệp trong tháng 3. Cơ quan thống kê của Philippin cho biết, tỷ lệ
thất nghiệp tại nước này trong tháng 4 cũng tăng lên mức kỷ lục 17,7%. Nói cách
khác, ít nhất 7,3 triệu người Phi-li-pin đã mất việc làm trong tháng 4 vừa qua do dịch
Covid-19. Tại In-đô-nê-xi-a, theo số liệu thống kê chính phủ vừa cơng bố, đại dịch đã
cản trở q trình tạo việc làm mới, đồng thời gây ra làn sóng sa thải hàng loạt khi tính
đến đầu tháng 6 vừa qua, có tới hơn ba triệu lao động mất việc làm. Trong khi đó, theo
báo cáo của Cục Thống kê quốc gia Hàn Quốc, tỷ lệ thất nghiệp tại nước này trong
tháng 5-2020 đã tăng lên mức cao nhất trong 10 năm qua. Số lao động có việc làm đã
giảm hơn 390 nghìn người, xuống cịn 26,93 triệu người trong tháng 5. Đây cũng là
lần đầu Hàn Quốc chứng kiến thị trường việc làm sụt giảm ba tháng liên tiếp kể từ
tháng 10-2009, thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu.
Tháng 2/2012, tỷ lệ thất nghiệp trên toàn bộ 17 quốc gia thuộc khối đồng tiền
chung Châu Âu đã đạt 10,8%, tăng 0,1% so với tháng 1/2012 (10,7%). Số lượng
người thất nghiệp so với cùng kỳ năm ngoái cũng đã tăng thêm 1,48 triệu người. Số
liệu được Cơ quan Thống kê Châu Âu Eurostat công bố hơm 2/4/2012. Theo đó, đây

là tỷ lệ thất nghiệp cao nhất kể từ khi khối này được thành lập vào năm 1997.
Dẫn đầu danh sách vẫn là Tây Ban Nha với tỷ lệ thất nghiệp lên tới 23,6%, với
50% dân số trong tuổi lao động khơng có việc làm. Vị trí thứ 2 thuộc về Hy Lạp
(21%), kế đến là Bồ Đào Nha (15%), Ireland (14,7%), tất cả đều là những nước đang
đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công trầm trọng nhất. Thấp nhất trong số 27 quốc
gia châu u theo công bố của Eurostat là Áo (4,2%), Hà Lan (4,9%), Luxenbourg
(5,2%) và Đức (5,7%).

1


Tại Việt Nam, theo kết quả TĐTDS&NO 2019, tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ
15 tuổi trở lên của Việt Nam là 2,05%; trong đó theo giới tính thì tỷ lệ thất nghiệp của
nam giới từ 15 tuổi trở lên là 2,00%, cịn ở nữ giới là 2,11%.Tính theo vùng kinh tế,
Đơng Nam Bộ là vùng có tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên thất nghiệp cao nhất cả nước
với 2,65% dân số; tại đây tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 2,96%, ở nông thôn là 2,14%;
cịn theo giới tính thì nữ giới lại có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn nam giới trong Vùng với
mức tương ứng là 2,71% và 2,60%. Đứng thứ 2 là Đồng bằng sông Cửu Long với tỷ lệ
thất nghiệp chiếm 2,42% số dân trong vùng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
với tỷ lệ 2,14%. 2 Vùng kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất cả nước lần lượt là
Trung du và miền núi phía Bắc 1,20% và Tây Nguyên 1,50%. (4)
Qua số liệu trên ta có thể thấy Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội ngày
nay, thất nghiệp đã trở thành vấn đề mang tính chất tồn cầu, khơng loại trừ một quốc
gia nào từ những nước nghèo đói cho đến những nước đang phát triển hay có nền
cơng nghiệp phát triển.
Tình trạng thất nghiệp tăng đã tác động đến sức khỏe tinh thần của người thất
nghiệp. Một số tài liệu khác đã xem xét mối quan hệ giữa sức khỏe và các điều kiện
kinh tế tổng hợp, cụ thể là tỷ lệ thất nghiệp. Một số tác giả đã ghi nhận rằng tổng tỷ lệ
tử vong là theo chu kỳ (Ruhm, 2000 , 2005 ; Miller và cộng sự 2009 ; Stevens và cộng
sự 2015 ), nhưng sức khỏe tâm thần (được đo bằng tỷ lệ tự tử) xấu đi trong thời kỳ

kinh tế suy thoái (Ruhm, 2003 ). Các tài liệu về hạnh phúc và hạnh phúc chủ quan
cũng đã chỉ ra rằng mức độ thất nghiệp cao hơn có liên quan đến mức độ hạnh phúc
được báo cáo thấp hơn (Clark và Oswald 1994 ; Winkelmann và Winkelmann 1998 ;
Di Tella và cộng sự 2001; Stutzer và Lalive 2004 ). Các nghiên cứu dựa trên dữ liệu
cá nhân cũng xác định tác động tích cực của thất nghiệp đối với tự tử, trầm cảm, tham
vấn bác sĩ, các đợt ốm và lạm dụng chất kích thích (xem, trong số những người khác,
Dooley et al. 1996 và Browning và Heinesen 2012).
Thất nghiệp có thể tạo ra những hậu quả phi tiền tệ và xã hội quan trọng liên
quan đến việc mất đi các mối quan hệ cơng việc, lịng tự trọng, cảm giác kiểm soát, ý
nghĩa cuộc sống và cấu trúc thời gian có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe (tâm
thần) (Erikson 1959 ; Seligman 1975 ; Jahoda 1982 ; Warr 1987 ; Goldsmith và cộng
sự 1996 ). Sau khi thất nghiệp, các triệu chứng buồn nôn, trầm cảm và lo lắng ở những
2


người thất nghiệp lớn hơn đáng kể so với những người có việc làm (Linn, Sandifer &
Stein, 1985).Kèm theo đó. Những sinh viên tốt nghiệp đại học này cảm thấy tự ti khi
so sánh cuộc sống hiện tại của mình với cuộc sống của những người bạn cũ, đặc biệt
là những người có điều kiện kinh tế tốt hơn. Điều này lại càng làm gia tăng cảm giác
tự ti. Khi một người cảm thấy kém cỏi, người đó có thể trở nên thất vọng (Khezri, ,
Rezaei & Aram, 2019).
Trong đó thất nghiệp được xem là một yếu tố nguy cơ dẫn đến Stress. Thất
nghiệp là một trong những nguồn căng thẳng chính của cá nhân. Thất nghiệp là một
trong những trở ngại và trải nghiệm lớn nhất tạo ra đau khổ lớn cho những người trẻ
tuổi, và cảm giác cay đắng, có thể làm tăng căng thẳng tâm lý của họ, có thể dẫn đến
mất bản sắc cho họ và có thể gây ra cảm giác bất lực, có thể dẫn đến bệnh tâm thần do
cá nhân khơng có khả năng kiểm soát những trải nghiệm đau đớn mà anh ta đã thất bại
( Arnout,2019). Stress gia tăng ở những người lao động thất nghiệp trong thời kỳ dư
thừa hàng loạt và không dừng lại khi thời gian thất nghiệp tăng lên(Leino-Arjas, Liira,
Mutanen, Malmivaara & Matikainen, 1999). Thất nghiệp có tác động tiêu cực đến

chức năng tâm lý, với những người thất nghiệp trở nên lo lắng, trầm cảm và quan tâm
đến các triệu chứng cơ thể hơn những người tiếp tục làm việc(10)
Như vậy các bằng chứng đã gián tiếp gợi ý đến mối quan hệ giữa Stress và thất
nghiệp ở người trẻ tuổi. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu tập trung về thực trạng
stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp. Mặt khác các nghiên cứu thường chỉ đề cập đến số
liệu, tập trung tìm hiểu về mức độ cũng như phân tích một cách tổng quát. Chưa tập
trung vào các đặc điểm, yếu tố ảnh hưởng, hay hệ quả của stress ở người trẻ thất
nghiệp.
Việc nghiên cứu về thực trạng Stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp là một đề tài
cấp thiết cung cấp một cái nhìn tổng quan. Đồng thời tổng hợp, phân tích và mở rộng
về hệ thống kiến thức, lí luận làm tiền đề nhằm đề xuất được các giải pháp phù hợp để
khắc phục thực trạng trên.Do đó cần có thêm nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng stress
ở người trẻ tuổi thất nghiệp để có sự phân tích, tổng hợp và đánh giá một cách cụ thể
về vấn đề này.
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu thực trạng stress của người trẻ
thất nghiệp. Nghiên cứu tìm hiểu về tình trạng, mức độ, Stress của người trẻ thất
3


nghiệp. Đồng thời tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng, các nguyên nhân dẫn đến tình
trạng Stress của người trẻ tuổi thất nghiệp và hệ quả của nó.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp một cái nhìn tổng quan về thực trạng
Stress của người trẻ thất nghiệp. Đánh giá được sự ảnh hưởng cũng những tác động
đến sức khỏe, công việc cũng như cuộc sống của người trẻ tuổi hiện nay. Kết quả
nghiên cứu sẽ là cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục các tình trạng Stress,
đồng thời cũng là cơ sở cho những nghiên cứu sau này.
2.

Lịch sử nghiên cứu đề tài


Nghiên cứu của Lappalainen, K., Manninen, P., & Räsänen, K. (2016) về Sự liên
kết giữa các yếu tố về bệnh lý xã hội, khả năng làm việc, hành vi sức khỏe và tình
trạng sức khỏe tâm thần cho thanh niên sau khi thất nghiệp kéo dài Lappalainen, K.,
Manninen, P., & Räsänen, K. (2016). Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 21,4
tuổi Thời gian thất nghiệp thay đổi từ 0 ngày (vừa thất nghiệp) đến 5 năm. 70 người
trong số những người tham gia đã thất nghiệp từ 3 tháng trở xuống và 7 người đã thất
nghiệp từ 2 đến 5 năm. Bốn mươi ba phần trăm số người được hỏi đã thất nghiệp
trong hơn 6 tháng và 34% số người được hỏi khơng có trình độ chun mơn. Tỷ lệ
thất nghiệp trên 6 tháng phổ biến hơn ở nam ( n = 35) so với nữ ( n = 28). Khi so sánh
tỷ lệ thất nghiệp trên 6 tháng của những người được hỏi khơng có trình độ chun
mơn, 21 trong số những người tham gia này là nam và 14 là nữ. Trong nhóm những
người thất nghiệp trẻ tuổi này, 40% cho biết họ cảm thấy căng thẳng về tinh thần và
15% đã đạt điểm trên 14 trên BDI, cho thấy mức độ trầm cảm nhẹ, trung bình hoặc
nặng. Các rối loạn tâm thần đã được chẩn đoán bởi các bác sĩ hoặc được 25% số
người được hỏi báo cáo. WAI ở mức trung bình hoặc kém đối với 41% số người được
hỏi. Khi tình trạng thất nghiệp tiếp tục kéo dài hơn 6 tháng lao động trẻ có nhiều khả
năng có trình độ học vấn thấp hơn, đang sử dụng hoặc có tiền sử sử dụng ma túy hoặc
thuốc chữa bệnh ngồi mục đích chăm sóc sức khỏe, căng thẳng hơn, tâm thần. rối
loạn và có khả năng chức năng kém hơn những người lao động có thời gian thất
nghiệp ngắn hơn (p <0,05).Trong nghiên cứu này, 40% nhân viên lấy mẫu cho biết
căng thẳng về tinh thần và 14% có biểu hiện trầm cảm ít nhất nhẹ theo BDI.
(Karjalainen & Kerätär, 2010)

4


Nghiên cứu của Hannan, DF, Ó Riain, S., & Whelan, CT (1997) về Tình trạng
thất nghiệp của thanh niên và tâm lý đau khổ ở Cộng hòa Ireland. Nghiên cứu cho
thấy nguồn gốc của stress, tác nhân trung gian của stress và các biểu hiện của stress. Ở
đây ập trung vào thất nghiệp như một nguồn gây stress. Các tác nhân trung gian của

stress rất đa dạng và ảnh hưởng của chúng đến tác động tâm lý của tình trạng thất
nghiệp có thể phức tạp. Trong nghiên cứu này, các biểu hiện của căng th stress được
coi là “đau khổ tâm lý” sử dụng phiên bản sửa đổi một chút của mẫu 12 mục của Bảng
câu hỏi sức khỏe tổng quát để đánh giá mức độ của tình trạng đau khổ này (Goldberg,
1972).
Nghiên cứu của Margaret W. Linn, Phd, Richard Sandifer, Bs Và Shayna Stein,
Phd về Ảnh hưởng của việc thất nghiệp đối với sức khỏe tinh thần và thể chất. Những
người cảm thấy Stress hơn do thất nghiệp có các triệu chứng buồn nôn, trầm cảm và lo
lắng gia tăng. Nhận thức về mức độ Stress càng cao thì càng phải đến gặp bác sĩ nhiều
hơn và sức khỏe được đánh giá kém thuận lợi hơn. Kết quả từ nghiên cứu này cho
thấy thất nghiệp có tác động tiêu cực đến chức năng tâm lý, với những người thất
nghiệp trở nên lo lắng, trầm cảm và quan tâm đến các triệu chứng cơ thể hơn những
người tiếp tục làm việc. Vì các nhóm ban đầu khơng khác nhau về các trạng thái tâm
lý này, nên có vẻ như các triệu chứng này liên quan đến mất việc làm hơn là các triệu
chứng tâm lý đã có từ trước. Thất nghiệp mà khơng có nguồn thu nhập chính sẽ sinh
ra lo âu và trầm cảm. Hơn nữa, tình trạng trầm cảm gia tăng, thường biểu hiện bằng
các triệu chứng thể chất như chán ăn, mất ngủ và sở thích tình dục, có thể là nguyên
nhân gây ra nhiều lo lắng hơn các triệu chứng thể chất được thể hiện bằng việc tăng
cảm giác buồn ngủ và đánh giá sức khỏe bản thân không thuận lợi được quan sát thấy
ở những người thất nghiệp. Mất việc sẽ ảnh hưởng đến lòng tự trọng. Khơng có việc
làm có thể hạn chế cơ hội đạt được thành tích, thành tích và sự hài lịng của người đó
và có thể làm gia tăng cảm giác tội lỗi về việc không chu cấp cho gia đình.Kiểm tra
thêm dữ liệu cho thấy mức độ Stress do mất việc làm có sự khác biệt đáng kể giữa
những người có lịng tự trọng cao và thấp.
Nghiên cứu của Sanyogita Deshmukh Đánh giá mức độ căng thẳng của việc làm
và thất nghiệp tốt nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy Những người trả lời có việc
làm và thất nghiệp tối đa được quan sát cho điểm từ 0 đến -19 có nghĩa là họ đang gặp
5



vấn đề nghiêm trọng trong việc đối phó với căng thẳng. Cảm giác thất vọng và buồn
bã mạnh mẽ đối với người có việc làm là 3,33% và 12% người thất nghiệp được yêu
cầu phải có ý thức và nên học cách quản lý mức độ chịu đựng căng thẳng của họ.
Những người trả lời này cần sự giúp đỡ của các cố vấn chuyên nghiệp để thay đổi cảm
giác.
Tài liệu về thất nghiệp và sức khỏe tinh thần (2019) có kết quả tỷ lệ trầm cảm, lo
âu và căng thẳng từ mức độ trung bình đến cực kỳ nghiêm trọng lần lượt là 49,3%,
53,6% và 28,3%, khơng có sự khác biệt có thể phát hiện được giữa các giới tính. Sự
khơng an tồn liên quan đến một cơng việc BCS (OR = 0,41; CI = 0,26–0,65, p
<0,001; tham khảo: khơng an tồn trong cơng việc), áp lực gia đình và xã hội để có
được một cơng việc BCS (OR = 4,58; CI = 1,67–12,56, p <0,001 ), và căng thẳng (OR
= 8,33; CI = 4,47–15,51, p <0,001) nổi lên như những yếu tố dự báo độc lập cho bệnh
trầm cảm. Ngồi ra, có cơng việc bán thời gian có liên quan đến lo lắng (OR = 2,38;
CI = 1,34–4,23, p = 0,003) và an ninh trong công việc BCS và phục vụ quốc gia thơng
qua cơng việc này có liên quan tiêu cực với căng thẳng (OR = 0,59 ; CI = 0,35–0,98,
tr= 0,042 so với OR = 0,59; CI = 0,36–1,00, p = 0,05).
Tỷ lệ trầm cảm, lo lắng và căng thẳng tương đối cao ở những người tìm việc tốt
nghiệp nên nhanh chóng thực hiện các sáng kiến thị trường kết hợp các biện pháp can
thiệp liên quan đến các yếu tố rủi ro chính được phát hiện ở đây.
3.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát: Tìm hiểu thực trạng Stress ở người trẻ tuổi do thất nghiệp.
Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng stress do thất nghiệp và
giảm nguy cơ Stress cho người trẻ do thất nghiệp.
Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu lý luận về thực trạng Stress của người trẻ thất nghiệp.
- Tiến hành tổng hợp, phân tích các đề tài nghiên cứu liên quan đến thực trạng
Stress của người trẻ tuổi thất nghiệp.


6


- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nhằm khắc phục tình trạng stress ở người trẻ
tuổi đang thất nghiệp và giảm nguy cơ Stress cho người trẻ tuổi có nguy cơ thất
nghiệp.
4.

Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng: Thực trạng stress của người trẻ tuổi thất nghiệp
- Khách thể: Người trẻ tuổi thất nghiệp độ tuổi từ 18 - 30 tuổi
5.

Câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu trả lời các câu hỏi sau:
(1) Có Stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp hay không?
(2) Mức độ Stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp?
(3) Thất nghiệp là một yếu tố nguy cơ gây Stress ở người trẻ tuổi?
(4) Các biểu hiện của tình trạng Stress ở người trẻ tuổi do thất nghiệp?
(5) Hệ quả của tình trạng Stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp.
6.

Giả thuyết khoa học

(1) Ở người trẻ thất nghiệp có xuất hiện tình trạng Stress.
(2) Thất nghiệp là một yếu tố nguy cơ dẫn đến Stress.
(3) Các biểu hiện của tình trạng Stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp bao gồm các

yếu tố bên ngoài và bên trong của chủ thể.
(4) Stress ở người trẻ tuổi thất nghiệp sẽ tác động đến sức khỏe thể chất, sức
khỏe tinh thần và cuộc sống, đồng thời có thể dẫn đến một số rối loạn kèm theo.
7.

Phạm vi nghiên cứu

• Phạm vi nội dung: Nghiên cứu tập trung vào thực trạng, biểu hiện, hệ quả của
Stress ở người trẻ tuổi do thất nghiệp.
7


• Phạm vi khách thể: Nghiên cứu tập trung vào người trẻ tuổi đang thất nghiệp ở
độ tuổi từ 22-30
• Thời gian: Nghiên cứu, tổng hợp một số tài liệu, cơng trình nghiên cứu liên
quan đã được cơng bố trong khoảng thời gian 50 năm trở lại đây.
• Khơng gian: Nghiên cứu, tổng hợp một số tài liệu, cơng trình nghiên cứu liên
quan đã được công bố trên phạm vi toàn thế giới.
8.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu.Chúng tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ
sau: (1) Xây dựng, hệ thống hóa cơ sở lý luận nghiên cứu ; (2) Tiến hành thu thập dữ
liệu bằng hình thức nghiên cứu tài liệu, các cơng trình nghiên cứu liên quan đã cơng
bố; (3) Phân tích dữ liệu thu được; (4) Mơ tả thực trạng, phân tích, đánh giá thực trạng
vấn đề nghiên cứu; (5) Đề xuất các biện pháp, giải pháp, kiến nghị cho vấn đề nghiên
cứu.
9.


Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu tài liệu. Mà cụ thể là tổng
hợp, phân tích, đánh giá, hệ thống lại những kết quả nghiên cứu của các cơng trình
nghiên cứu liên quan trước đó đã cơng bố.
10.

Ý nghĩa nghiên cứu

Về mặt thực tiễn: Thông qua nghiên cứu này để đánh giá được thực trạng Stress
ở người trưởng trẻ tuổi do thất nghiệp. Trên cơ sở đó, có các biện pháp nhằm giảm
tình trạng stress ở người trẻ tuổi do thất nghiệp.
Về mặt lý luận: Nghiên cứu cung cấp những thông tin thiết thực Ngồi ra,
nghiên cứu cịn làm cơ sở để đưa ra các nghiên cứu sâu và với quy mô rộng hơn trong
tương lai.

8


11.

Kết cấu nghiên cứu

Chương 1. Cơ sở lý luận về stress ở người trưởng thành trẻ tuổi thất nghiệp
1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu
1.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu ngồi nước
Đầu tiên là các nghiên cứu liên quan đến thất nghiệp và sức khỏe tinh thần. Các
nghiên cứu trước đây cho thấy những tác động tiêu cực của thất nghiệp đối với sức
khỏe thể chất và tâm lý của các cá nhân. Thất nghiệp là một nguyên nhân đáng kể gây
ra xáo trộn tâm lý ở những người trẻ mới đầu đi làm, không bị suy giảm sức khỏe và

tâm lý bình thường. Sự chuyển đổi của thanh niên từ việc làm sang thất nghiệp sẽ làm
tăng khả năng bị rối loạn tâm lý lên khoảng 50%. . . kiếm được việc làm sau khi thất
nghiệp sẽ làm tăng cơ hội phục hồi sau rối loạn tâm lý khoảng 60-70% '(Morrell,
Taylor, Quine, Kerr & Western, 1994). Các quan sát lâm sàng cho thấy những người
thất nghiệp tìm kiếm sự giúp đỡ từ các cơ quan dịch vụ xã hội có những phản ứng đau
buồn, tức giận, tội lỗi, cảm xúc mất mát và cảm giác mất mát một phần của bản thân. (
Esther Krystal et al ,1983). Các nghiên cứu được thực hiện vào cuối những năm 1930
đã đưa ra các minh chứng về việc thất nghiệp ảnh hưởng như thế nào đến lòng tự
trọng và ý nghĩa, sự thờ ơ, lo lắng và nhiều trạng thái tâm lý khác (Jahoda, Lazarsfeld
& Zeisel, 1972; Eisenberg & Lazarsfeld, 1938). Ngồi ra, kết quả ở Trung Quốc cịn
cho thấy rằng tỷ lệ thất nghiệp có liên quan cùng chiều với tỷ lệ tử vong. (Wang, Q.,
2015).
Một nghiên cứu của Lee, Jones, Yoon, Hackman, Yoo & Kosterman (2018) cho
biết tuổi trưởng thành của thanh niên thể hiện một giai đoạn phát triển với nguy cơ
mất việc làm tăng cao một cách không cân đối. Thất nghiệp ở lứa tuổi thanh niên có
liên quan đến việc gia tăng các vấn đề sức khỏe tâm thần, ít nhất là trong ngắn hạn.
Dữ liệu được rút ra từ một nghiên cứu dọc về kết quả phát triển trong một mẫu cộng
đồng ở Seattle. Việc thu thập dữ liệu bắt đầu vào năm 1985 khi những người tham gia
nghiên cứu là học sinh tiểu học và tham gia đánh giá hàng năm ở tuổi thơ ấu và thanh
thiếu niên (10–16 tuổi) và sau đó là đánh giá hai năm một lần hoặc ba năm (từ 18–39
tuổi); năm= 677 ở tuổi 39; 47% người Mỹ gốc Âu, 26% người Mỹ gốc Phi, 22%
9


người Mỹ gốc Á và 5% người Mỹ bản địa; 49% nữ). Các kết quả nghiên cứu hiện tại
cho thấy thời gian thất nghiệp ở độ tuổi thanh niên làm gia tăng các vấn đề sức khỏe
tâm thần ở tuổi 39, bất kể giới tính.
Cassidy và Wright (2008) cho thấy sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp và thiếu việc
làm tác động gây tổn hại tâm lý. Thực tế sự gia tăng đáng kể về tâm lý đau khổ đối với
sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp chứng tỏ tác động lớn của thất nghiệp đối với tình

trạng đau khổ. Mặt khác, mức độ đau khổ giảm đáng kể đối với những người được
tuyển dụng trong một công việc mong muốn cho thấy tầm quan trọng của việc làm
phù hợp với sinh viên tốt nghiệp. Rõ ràng là cả thất nghiệp và thiếu việc làm đều là
những nguồn gốc gây khó khăn cho sinh viên tốt nghiệp và việc tìm kiếm việc làm
phù hợp với kế hoạch nghề nghiệp có những lợi ích đáng kể cho sức khỏe tâm thần.
Ngoài ra, Các nhóm thiếu việc làm và thất nghiệp cho thấy điểm số động lực thành
tích giảm đáng kể theo thời gian, trong khi những người có cơng việc mong muốn lại
tăng lên. Có vẻ như cả thất nghiệp và thiếu việc làm đều có ảnh hưởng sâu rộng đến
sinh viên tốt nghiệp và cho thấy nhu cầu nghiên cứu sâu rộng hơn để xác định. Các
yếu tố tâm lý quan trọng liên quan. Khơng chỉ có những tác động đến sức khỏe tâm lý
và thể chất mà cịn có những tác động đến việc làm lâu dài hơn của những sinh viên
tốt nghiệp này vì những thiệt hại đối với thành tích phấn đấu hoặc động lực thành tích
của họ.
Ngồi ra, thất nghiệp còn liên quan đến một số triệu chứng tâm lý. Mối liên hệ
giữa thất nghiệp với các triệu chứng tâm lý tương đương hoặc cao hơn so với một số
biến số xã hội khác thường được cho là quan trọng trong căn nguyên của bệnh lý tâm
thần, chẳng hạn như hỗ trợ xã hội, tình trạng kinh tế xã hội hoặc các sự kiện cuộc sống
không mong muốn khác (David, Ralph & Karen,1988)
Nghiên cứu của David, Ralph và Karen (1988) cho thấy bốn loại trải nghiệm thất
nghiệp ở cấp độ cá nhân khác nhau đã được nghiên cứu liên quan đến các triệu chứng
tâm lý: (1) thất nghiệp hiện tại sau khi mất việc không tự nguyện gần đây, (2) thất
nghiệp ở sinh viên hoặc người nội trợ, (3) việc làm lại sau khi mất việc gần đây, và (4)
thất nghiệp tự nguyện hoặc dài hạn (trên 6 tháng). Thất nghiệp tổng hợp (tỷ lệ phổ
biến trong cộng đồng được khảo sát) cũng được nghiên cứu, cả riêng lẻ và tương tác
10


với từng điều kiện trong số bốn tình trạng thất nghiệp ở cấp độ cá nhân. Nghiên cứu
còn cho thấy có thể có một sự thích nghi với tình trạng thất nghiệp, trong đó mọi
người học cách thay thế những công việc tiềm ẩn nếu không phải là những chức năng

biểu hiện của công việc. Cú sốc ban đầu về thất nghiệp có thể liên quan đến những nỗi
sợ hãi thảm khốc không thể nguôi ngoai sẽ tan biến theo thời gian khi cá nhân biết
rằng họ có thể quản lý được trải nghiệm thất nghiệp. Mặc dù không được sung túc về
mặt tâm lý như những người được tuyển dụng liên tục (như trong phân tích chính),
những người thất nghiệp dài hạn có thể cho thấy một số cải thiện trong khoảng thời
gian vài tháng.
Một nghiên cứu về Mô hình về trách nhiệm và trầm cảm ở nam và nữ thanh niên
thất nghiệp của Bernd, Berndt & Barbara (1995) cho kết quả thanh niên thất nghiệp (
n = 94) ở Liverpool, Australia, cho biết họ bị trầm cảm và mất kiểm soát hành vi / cảm
xúc nhiều hơn đáng kể so với những người đồng nghiệp đang làm việc ( n = 87).
Ngồi ra, mất việc khơng chỉ có thể gây ra cảm giác lo lắng, trầm cảm và tuyệt vọng,
nhưng
cũng có thể ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của một người (Arnetz và cộng
sự, 1987).
Về mức độ hài lòng của cuộc sống, Donatella Martella và Anne Maass (2006)
cho rằng thất nghiệp cho thấy mức độ hài lòng trong cuộc sống, lòng tự trọng và hạnh
phúc thấp hơn so với các đồng nghiệp hoặc sinh viên đang đi làm, nhưng những tác
động này được phát hiện là bị ảnh hưởng bởi cả chủ nghĩa tập thể và cấu trúc thời
gian. Ngoài ra, trong số những người thất nghiệp, sự hài lịng về cuộc sống có xu
hướng cao hơn ở những người sử dụng thời gian của họ có cấu trúc và mục đích hơn.
Kết quả cho thấy thất nghiệp có thể ít gây hậu quả nghiêm trọng hơn trong nền văn
hóa tập thể và đối với những người có khả năng cơ cấu thời gian tốt.
Bên cạnh đó cũng có nhiều sự tranh cãi xung quanh vấn đề này. Một số nghiên
cứu cho kết quả trái chiều. Kasl (l979) báo cáo một nghiên cứu dọc trên 15 người đàn
ơng trung niên liên tục thất nghiệp trong vịng 6 tháng và tun bố rằng khơng có sự
suy giảm đáng kể nào về các chỉ số sức khỏe tâm thần và quá trình sinh lý.
Goodchilds và Smith (1963), từ một nghiên cứu cắt ngang trên 171 nam giới, kết luận
11



rằng khơng có ảnh hưởng của thời gian thất nghiệp (trên 5 tháng) đối với lòng tự trọng
hoặc sự tự tin. Feather và Davenport (198 l), sử dụng một mục duy nhất để đo lường
mức độ ảnh hưởng của trầm cảm đối với tình trạng thất nghiệp, báo cáo rằng khơng có
mối quan hệ đáng kể nào giữa nó và thời gian thất nghiệp. Warr và cộng sự (1982),
trong một nghiên cứu với 420 học sinh tốt nghiệp được phỏng vấn trong hai năm, báo
cáo rằng cả đau khổ tâm lý và lịng tự trọng ở nam giới đều khơng liên quan đến thời
gian thất nghiệp. Breakwell, GM, Harrison, B., & Propper, C. (1984).
Thứ hai là những nghiên cứu liên quan về vấn đề thất nghiệp và stress. Nhiều
nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng đau khổ về tinh thần (tức là trầm cảm, rối loạn
lo âu, stress, tuyệt vọng, cơn hoảng loạn, v.v.) có liên quan đến tình trạng thiếu việc
làm và thất nghiệp (do các yếu tố như gia tăng cạnh tranh, thất nghiệp, mất việc làm,
lương thấp, thiếu phạm vi trong việc thực hành các kỹ năng có được, v.v.) (Artazcoz
và cộng sự, 2004; Cassidy và Wright, 2008; Lee và cộng sự, 2018; Lim và cộng sự,
2018; Mæhlisen và cộng sự, 2018; Meltzer và cộng sự, 2010 ; Rafi và cộng sự, 2019;
Reneflot và Evensen, 2014; Tran và cộng sự, 2019). Bên cạnh đó, thất nghiệp được
coi là một trong những nguồn gây Stress chính của cá nhân (Oswald, 1997). Một số
nghiên cứu cho kết quả thất nghiệp liên quan có đến tình trạng Stress. Ví dụ như
nghiên cứu cho thấy thất nghiệp liên quan đến tình trạng Stress như Abdur,
Mohammed, Kamrul, Moazzem & David (2019) cho biết tỷ lệ phổ biến của các triệu
chứng tâm thần thường xảy ra nhiều hơn ở những sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp trên
toàn thế giới. Các nghiên cứu trước đây đã báo cáo tỷ lệ trầm cảm, lo lắng và Stress
cao ở những người thất nghiệp không chủ ý. Ví dụ: các tỷ lệ sau được ước tính ở Hoa
Kỳ: trầm cảm [D] = 29%, lo lắng [A] = 31% và stress [S] = 28% (35). Tương tự, trong
số những người trưởng thành thất nghiệp sau cuộc khủng hoảng kinh tế ở Hy Lạp: D =
32,2%; A = 39,7% và S = 33% (15); ở Tây Ban Nha: D = 51,5% và A = 35,5% (36);
trong số sinh viên tốt nghiệp đại học thất nghiệp ở Hàn Quốc: D = 39,5% (3); trong số
những sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp ở Anh: S = 69,4% (2); và cuối cùng, trong số
những người thất nghiệp ở Đan Mạch: S = 10,4% (6). Hơn nữa, các nghiên cứu được
thực hiện ở các nước láng giềng sử dụng DASS-21 cho thấy tỷ lệ phổ biến của những
vấn đề này ở sinh viên đại học ở Pakistan cũng cao, D = 35,9%, A = 64%, và S =

38,5% (37); trong số sinh viên y khoa ở Ấn Độ, D = 32,0%, A = 40,1% và S = 43,8%
12


(38); và trong số sinh viên y khoa ở Nepal: D = 29,9%, A = 41,1%, và S = 27% (39).
Ngoài ra, trên toàn thế giới, tỷ lệ này khác nhau, với một loạt các sinh viên đại học
[chẳng hạn như D = 37,2%, A = 63%, và S = 23,7% ở Malaysia (40); D = 27,1%, A =
47,1%, và S = 27% ở Thổ Nhĩ Kỳ (41); và D = 23%, A = 25% và S = 26% ở Hoa Kỳ.
Do đó, tình trạng thất nghiệp kéo dài và khơng xin được việc sẽ được dự đốn là sẽ
thúc đẩy suy giảm tinh thần, giảm hạnh phúc và chất lượng cuộc sống, cuối cùng dẫn
đến trầm cảm, lo lắng và Stress (Abdur, Mohammed, Kamrul, Moazzem & David,
2019).
Một số nghiên cứu khác cho kết quả 29% trầm cảm, 31% lo lắng , và 22% stress
được báo cáo ở những thanh niên Mỹ thất nghiệp sau khi thất nghiệp đột ngột không
tự nguyện (Howe và cộng sự, 2012); 69,4% stress ở những sinh viên tốt nghiệp thất
nghiệp ở Anh (Cassidy và Wright, 2008); 32,2% trầm cảm, 39,7% lo lắng và 33%
stress ở những người trưởng thành thất nghiệp sau cuộc khủng hoảng kinh tế ở Hy
Lạp (Kokaliari, 2018); và 10,4% stress trong số những người thất nghiệp ở Đan Mạch
(Mæhlisen và cộng sự, 2018). Mamun và cộng sự (2020) đã nghiên cứu về mối đe dọa
tài chính, khó khăn và túng quẫn dự báo trầm cảm, lo lắng và stress ở thanh niên thất
nghiệp: Một nghiên cứu tại nhiều thành phố ở Bangladesh. cho biết. Thất nghiệp có
một vai trị góp phần vào sự phát triển của các vấn đề sức khỏe tâm thần. Trong số
988 cử nhân thất nghiệp, có tỷ lệ trầm cảm cao (81%). Tỷ lệ lo âu (61,5%) và stress
(64,8%)
cũng cao. Phúc lợi tài chính yếu có liên quan tiêu cực đến trầm cảm, lo lắng và
stress.
Kết quả kiểm định mơ hình cấu trúc đề xuất đã kết luận rằng biến độc lập: stress
do thất nghiệp đóng góp ý nghĩa thống kê trực tiếp vào việc dự đoán năm chiều của
các thành phần sức khỏe tâm thần: trí óc, tính linh hoạt, hiệu quả bản thân, hỗ trợ xã
hội và hạnh phúc như là các biến phụ thuộc. Đồng thời, biến độc lập: stress do thất

nghiệp đóng góp một cách có ý nghĩa thống kê một cách gián tiếp và tỉ lệ thuận vào
dự đoán năm chiều của sức khỏe tâm thần (Boshra, 2019)
Phát hiện cho thấy thất nghiệp có tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm lý và chất
lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Nghiên cứu cũng cho thấy thái độ tích cực đối với
13


việc tìm kiếm việc làm thơng qua các phương tiện khác nhau của sinh viên tốt nghiệp.
Dựa trên các phát hiện, khuyến nghị được cung cấp để cải thiện các chương trình hỗ
trợ việc làm hiện có." (Peter, D.M., Jit B.D.R.B., 2018)
Brenner & Levi (1987) nghiên cứu về tình trạng thất nghiệp dài hạn của phụ nữ
ở Thụy Điển cho biết quá trình thất nghiệp. Theo kết quả sơ bộ, q trình thất nghiệp
có thể được phân loại thành 5 giai đoạn:
(1)

Dự đốn về tình trạng mất việc làm.

(2)

Thực tế mất việc làm.

(3)

Thất nghiệp không gây hậu quả kinh tế lớn (thất nghiệp sáu tháng đầu).

(4)

Thất nghiệp với điều kiện kinh tế xấu đi dự kiến (sau sáu tháng).

(5)


Thất nghiệp dài hạn khơng có thực tế kỳ vọng kiếm được việc làm,

nhưng với điều kiện kinh tế hợp lý hiện tại (sau hai năm nạn thất nghiệp).
Các phản ứng tâm lý và sinh hóa ở các giai đoạn này có thể được mô tả sơ đồ
như sau:
(1)

Giai đoạn 1 và 2: stress và căng thẳng sinh lý nghiêm trọng đối với phần

lớn những người phải đối mặt với tình trạng mất việc làm.
(2)

Giai đoạn 3: trở về giá trị bình thường, tức là trạng thái tương đối không

bị căng thẳng cả về tâm lý và sinh lý.
(3)

Giai đoạn 4: sự gia tăng liên tiếp của stress và căng thẳng về mặt sinh

hóa đối với hầu hết (nhưng khơng phải tất cả) những người thất nghiệp.
(4)

Giai đoạn 5: hầu hết những người thất nghiệp thích nghi với các điều

kiện. Một nhóm nhỏ nhưng không đáng kể phát triển tâm lý trầm cảm.
Phản ứng đối với việc mất việc là rất mạnh mẽ và đồng đều. Mức độ stress tăng
lên, được chỉ ra bởi kích thích cortisol và giảm sức khỏe tâm lý. Phản ứng của việc
thất nghiệp trong năm đầu tiên sau khi mất việc là đa dạng hơn. Điều này một phần có
14



thể là do hiệu ứng 'tuần trăng mật' liên quan đến tình trạng thất nghiệp: nó được coi
như một loại kỳ nghỉ kéo dài. Ngoài ra, độ trễ thời gian trong phản ứng sức khỏe đối
với thất nghiệp có thể khác nhau tùy từng cá nhân. Một số thất nghiệp phản ứng ngay
lập tức, những người khác sau vài tháng. Tuy nhiên, sau năm đầu tiên, các phản ứng
lại đồng đều hơn. Các phản ứng dường như ổn định đối với đa số người thất nghiệp
sau hai năm thất nghiệp. Tuy nhiên, một số ít người thất nghiệp khơng hồi phục mà
vẫn ở mức hạnh phúc thấp. Phân nhóm này đã được nghiên cứu thêm bằng các cuộc
phỏng vấn về stress.
Người ta kết luận rằng thiểu số này không thể thích ứng với tình trạng thất
nghiệp, dẫn đến các triệu chứng khơng tốt, ví dụ như phản ứng trầm cảm (Brenner &
Levi, 1987)
Về nguyên nhân gây stress ở người thất nghiệp. Nghiên cứu về stress của Baum,
Fleming và Reddy (1986) đã chỉ ra sự suy giảm hiệu suất hành vi (ví dụ như các
vấn đề về tập trung, giảm động lực) đối với những người bị stress và các đối tượng
thất nghiệp trong nghiên cứu hiện tại đã trình bày mơ hình giảm hiệu suất hành vi này.
Các dấu hiệu cho thấy các dấu hiệu của phản ứng stress đối với các đối tượng thất
nghiệp. Một nguồn gốc có thể có của stress này là khơng có kinh nghiệm giữa những
nỗ lực được thực hiện để tìm việc làm và kết quả của những nỗ lực đó.
Kabbe, Setterlind và Svensson (1996) cho biết một số nguyên nhân gây Stress ở
người thất nghiệp. Đầu tiên là mối quan hệ gia đình và các sự kiện lớn trong cuộc
sống. Các lý do bên ngồi gây stress, ngồi mơi trường làm việc tâm lý xã hội, cịn
liên quan đến hồn cảnh gia đình. Thứ hai là sự tự nhận thức và cảm giác mạch lạc.
Phản ứng stress do suy nghĩ, lo lắng hoặc tưởng tượng của bản thân gây ra thường
được mô tả là lý do bên trong gây ra stress và có liên quan đến khả năng tự nhận thức
của một người. Trường "cảm giác mạch lạc" được bao hàm bởi ba khía cạnh: tính dễ
hiểu, tính có ý nghĩa và khả năng quản lý. Thứ ba là đương đầu. Khả năng đối phó với
các sự kiện gây stress của một người có thể làm trầm trọng thêm các phản ứng stress
tiêu cực hoặc làm giảm chúng. Phong cách đối phó tập trung vào vấn đề và cảm xúc là

hai cách khác nhau để đối mặt với những tình huống gây stress.

15


Lazarus và Folkman (1984) và Ensel và Lin (1991) giải thích về ngun nhân
gây stress theo mơ hình SDR, khái niệm hóa cả hai các nhu cầu và nguồn lực bên
trong và bên ngồi cũng có thể góp phần tạo ra sự hiểu biết khác biệt về trải nghiệm
về stress. Nhu cầu bên ngồi có nguồn gốc từ mơi trường của cá nhân, chẳng hạn như
kỳ vọng hoặc yêu cầu được đưa ra bởi những người khác quan trọng hoặc những ràng
buộc do cơng việc gây ra tình hình của cá nhân. Những đòi hỏi bên trong là kết quả
của những kỳ vọng, niềm tin và giá trị đạo đức của một cá nhân quan tâm đến bản
thân và môi trường của họ. Các nguồn lực bên ngoài được cung cấp bởi môi trường
như hỗ trợ xã hội, giáo dục và vốn tài chính. Nguồn lực bên trong đề cập đến các đặc
điểm nội bộ như lòng tự trọng và cảm giác hiệu quả của bản thân. Một cá nhân gặp
stress khi các nhu cầu bên ngoài hoặc bên trong vượt quá các nguồn lực bên ngoài và
bên trong của họ.
Thất nghiệp có xu hướng đi kèm với sự suy giảm các nguồn lực bên ngoài và
bên trong. Jahoda (1982) lập luận rằng những người thất nghiệp thiếu cả hai biểu hiện,
tức là, có ý định giống như những lợi ích liên quan đến thu nhập tài chính, và tiềm ẩn,
tức là khơng dự kiến, những lợi ích liên quan đến nhu cầu tâm lý như cấu trúc thời
gian, tiếp xúc xã hội, mục tiêu chung, địa vị và hoạt động được cung cấp. bằng việc
làm. Đồng thời, nhu cầu bên ngồi (ví dụ, kỳ vọng của những người tùy tùng là một
thành viên làm việc của xã hội) và bên trong (ví dụ, kỳ vọng của bản thân để thành
cơng trong sự nghiệp của một người) có thể tăng lên, góp phần làm mất cân bằng các
nguồn lực và nhu cầu. Phù hợp với mơ hình SDR, việc thích ứng với tình trạng thất
nghiệp và mức độ stress của cá nhân có thể đặc biệt phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng
của các nguồn lực bên trong và bên ngồi do thay đổi tình trạng việc làm.
Về phản ứng của Stress, các lý do bên ngoài và bên trong của stress gây ra các
phản ứng khác nhau. Những phản ứng này có thể là thể chất, nhận thức, cảm xúc hoặc

hành vi. Mức độ của phản ứng liên quan nhiều đến phong cách đối phó của từng cá
nhân. Nếu một người tiếp xúc với tình trạng stress thường xuyên trong một thời gian
dài, anh ta có thể phát triển một hội chứng gọi là kiệt sức. Hiện tượng này có thể được
mơ tả là sự mệt mỏi về thể chất, cảm xúc và tinh thần. Thất nghiệp gây nhiều lo lắng,
trầm cảm, thiếu kiên nhẫn, khó ngủ và hay khóc. Họ tự cơ lập bản thân nhiều hơn,
16


khơng thể quan tâm đến người khác, khó tận hưởng và ăn uống thoải mái. Có mười
câu hỏi về các phản ứng vật lý khác nhau như đau cổ, vai và lưng, đau dạ dày, đau
ngực, chóng mặt, khó thở… Nhóm nghiên cứu bao gồm một phần lớn những người
lớn tuổi. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đã được chia thành hai nhóm tùy theo độ tuổi của
họ. Nhóm trẻ hơn bao gồm 15 người dưới 50 tuổi, trong khi nhóm lớn hơn bao gồm
17 người từ 50 tuổi trở lên. Nói chung, có thể nói rằng kết quả đối với nhóm trẻ hơn
và nhóm lớn tuổi khơng có sự khác biệt đáng kể nào. (Kabbe, Setterlind & Svensson,
1996). Những người đã lập luận rằng có một giai đoạn thứ hai đối với mất việc làm:
ban đầu, bị sốc, tích cực tìm kiếm việc làm và lạc quan về việc lấy lại được việc làm;
sau đó, với những thất bại liên tiếp, sự bi quan, lo lắng và đau khổ ngày càng lớn; mà
cuối cùng, nhường chỗ cho chủ nghĩa định mệnh, sức ì và sự chấp nhận ‘thất nghiệp
như một con đường sống’ (Briar, 1977).
Wade-Bohleber, Duss, Crameri & von Wyl (2020). Nghiên cứu của họ đã khám
phá các mối liên hệ của sự hỗ trợ xã hội và gia đình, lịng tự trọng và hiệu quả bản
thân với các khía cạnh khác nhau của stress mãn tính trong một mẫu 1405 thanh thiếu
niên có việc làm và thất nghiệp (M (tuổi) = 17,84, SD = 1,63, phạm vi: 14,05–26,12)
ở Thụy Sĩ. Thanh thiếu niên thất nghiệp cho thấy mức độ stress cao hơn nói chung.
Mức độ cao hơn của các nguồn lực xã hội và tâm lý thường có liên quan đến mức độ
stress thấp hơn. Sự ủng hộ của xã hội và lịng tự trọng dự đốn mức độ stress nhất
quán và mạnh mẽ. Trên một số khía cạnh stress, mối liên hệ giữa lòng tự trọng cao
hơn và mức độ stress thấp hơn rõ ràng hơn ở thanh niên có việc làm trong khi mối liên
quan giữa hỗ trợ xã hội cao hơn và mức độ stress thấp hơn ở thanh niên thất nghiệp

mạnh hơn.
Thứ ba là những nghiên cứu liên quan về một số biện pháp, cách ứng phó về vấn
đề thất nghiệp. Bên cạnh biện pháp ứng phó phổ biến cho tình trạng thất nghiệp là tạo
thêm công ăn việc làm - một biện pháp phụ thuộc vào các doanh nghiệp, nơi tuyển
dụng. Một nghiên cứu của Omoniyi và Osakinle (2011) đề xuất biện pháp tích hợp
tinh thần kinh doanh vào chương trình giảng dạy, đây là tầm nhìn cho tất cả các nền
giáo dục đại học. Tinh thần kinh doanh đề cập đến khả năng của một cá nhân có thể
biến ý tưởng thành hành động. Nó bao gồm sự sáng tạo, đổi mới và chấp nhận rủi ro
cũng như khả năng lập kế hoạch và quản lý dự án để đạt được các mục tiêu. Giáo dục
17



×