NHỮNG KỲ VỌNG CỦA SINH VIÊN NĂM 4 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
TỔNG QUAN
CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐỀ TÀI
Con người của chúng ta ai cũng đều phải trải qua những bước ngoặt cuộc
đời khác nhau. Và bản thân mỗi người đều có những cuộc hành trình riêng nhưng
chung quy lại tất cả những hành trình đó đều hướng tới những vạch đích mà các
bạn đã vẽ ra. Nếu trong quá trình xuất phát trước khi cần đi đến địa điểm, đích
đến nào đó, mà chúng ta chưa rõ đích đến và định hình những cung đường có thể
đi và nhất định sẽ phải đi qua, chúng ta sẽ có thể rất lâu mới đến đích do phải đi
lòng vòng bởi sự mất định hướng ngay từ đầu. Và nghề nghiệp mà các bạn đang
hướng đến trong tương lai cũng vậy nếu bạn không tự trang bị cho mình được
những kỹ năng cần trong việc định hướng nghề nghiệp thì khi rời ghế giảng đường
để bước chân vào con đường lập nghiệp sẽ khó để hịa nhập với vị trí cơng việc
mà bạn đang đảm nhận.
Hơm nay, bạn là những người trẻ, những sinh viên năm 4 đang sắp sửa ra
trường đang đứng giữa ngã ba đường quan trọng của cuộc đời là đưa ra quyết
định chọn lựa nghề nghiệp phù hợp. Nhận biết được những khó khăn của các bạn
sinh viên nên nhóm chúng em xin trình bày đề tài “Những kỳ vọng của sinh viên
năm 4 tại thành phố Hồ Chí Minh về định hướng nghề nghiệp”. Qua đó phần nào
giúp các bạn có cơ hội làm quen được với những kiến thức về Định hướng nghề
nghiệp, những mong muốn việc làm trong tương lai gần nhằm trang bị một tâm
thế vững vàng hơn để tự bản thân các bạn hiểu rõ và đưa ra những quyết định
đúng đắn cho con đường sự nghiệp sau này của mình.
ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU KHẢO SÁT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Định hướng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên
Theo thống kê của Bộ LĐ – TB&XH, tỉ lệ sinh viên ra trường làm trái
ngành lên tới 60% và theo báo Đại đoàn kết Quý I- 2019 số người thất nghiệp có
trình độ đại học là 124.500 người. Qua số liệu trên cho thấy việc sinh viên tốt
nghiệp sau đại học vẫn có nguy cơ ra trường làm khơng đúng ngành nghề và có
Commented [HLD1]: Nhóm lấy một nghiên cứu để
tham khảo và sắp xếp nội dung cho phù hợp hơn
khả năng thất nghiệp cũng rất cao. Chính vì vậy việc sinh viên năm 4 định hướng
nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp là vô cùng quan trọng.
Điều này giúp sinh viên định hình cho mình được tương lai sẽ đi theo con
đường nào và những kỳ vọng tương lai về cơng việc mình mong muốn. Bên cạnh
đó vấn đề việc làm luôn là để tài được nhiều nhà nghiên cứu chú trọng đặc biệt là
đối với vấn đề định hướng nghề nghiệp của sinh viên sau khi tốt nghiệp với nhiều
góc độ nhìn nhận khác nhau. Sau đây là một số nghiên cứu về vấn đề này:
1/ Đề tài “Định hướng nghề nghiệp và khu vực làm việc sau tốt nghiệp của sinh
viên ngồi cơng lập hiện nay” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Phương năm 2009
(Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Đông Đô)
2/ Nghiên cứu của Nguyễn Việt Anh qua đề tài Luận văn tốt nghiệp đại học về
đề tài “Định hướng việc làm của sinh viên hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội) năm
2016.
Qua một số nghiên cứu trên dường như đang minh chứng hơn cho việc
định hướng nghề nghiệp của sinh viên. Việc định hướng nghề nghiệp của mỗi cá
nhân góp phần quan trọng trong việc tìm kiếm được việc làm. Điều đó khơng
những chỉ có ý nghĩa đối với bản thân cá nhân ấy mà cịn có ý nghĩa đến phát
triển nguồn nhân lực cho cả nước.
Một khi cá nhân tìm được việc làm phù hợp với khả năng thì họ sẽ hứng
thú trong công việc, cải tiến phương cách lao động mang lại hiệu quả cao và họ
sẽ gắn bó với cơng việc nhiều hơn.
Việc định hướng nghề nghiệp diễn ra trong thời gian dài, có thể được thực
hiện ở trường phổ thông trước khi SV chọn ngành để thi vào ĐH, trong thời gian
học ở trường ĐH hoặc ngay cả sau khi tốt nghiệp ĐH. Thông thường việc định
hướng chọn ngành khi cịn học phổ thơng (hoặc trước đó) là quan trọng và thường
bị chi phối bởi gia đình, bạn bè cũng như trào lưu xã hội.
Trong khi đó, định hướng nghề nghiệp lúc SV đang học ĐH thì do tinh
thần chủ động của bản thân sinh viên, do ý thức học hỏi chuyên môn, rèn luyện
kỹ năng nghề phù hợp. Ngay cả sau khi tốt nghiệp sinh viên có thể tự rèn luyện,
phát triển để phù hợp với nhiều ngành nghề khác nhau trong thị trường lao động.
Thông thường việc chọn lựa ngành học ở trường ĐH quyết định đến nghề nghiệp
sau này của SV nhưng thực tế không phải lúc nào cũng bất di bất dịch.
Giờ đây nhiều cử nhân anh văn (AV) có thể đi làm du lịch, kỹ sư nơng
nghiệp có thể mở cửa hàng kinh doanh… Do khoa học kỹ thuật tiến bộ hơn, thị
trường nghề nghiệp rộng mở nên có nhiều ngành nghề hơn và do yêu cầu công
việc đa dạng hơn nên SV có thể có nhiều cơ hội việc làm, ngược lại chính điều
đó cũng mang lại nhiều thách thức hơn khi sinh viên xin việc. Nhiều người đã có
việc làm và làm tốt cơng việc mình nhờ biết khai thác những khả năng tiềm ẩn,
ngược lại khơng ít SV khơng tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp.
Việc đưa ra kỳ vọng cho nghề nghiệp tương lai của mình cũng cho thấy
sinh viên đang tìm một hướng đi cụ thể về cơng việc tương lai, không phải là tùy
thuộc vào số phận muốn ra sao cũng được nhưng khi có được kỳ vọng đó sẽ phần
nào đưa ra quyết tâm để đạt được những điều mình muốn trong tương lai.
Từ những thực tế trên, đề tài tiến hành nghiên cứu những kỳ vọng của sinh
viên năm 4 của TPHCM về định hướng nghề nghiệp, để phân tích quan niệm về
định hướng nghề nghiệp của SV, làm rõ những kỳ vọng về nghề nghiệp hiện nay
của sinh viên là gì , tìm hiểu tính quy luật phát triển xã hội ảnh hưởng đến định
hướng nghề nghiệp của SV và khuyến khích những định hướng nghề nghiệp hợp
lý.
Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên
- Theo nghiên cứu của Th.s Bùi Hà Phương (Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, ĐHQG, thành phố Hồ Chí Minh) trong bài viết nghiên cứu về
đề tài “ Yếu tố ảnh hưởng đến nghề nghiệp của sinh viên Khoa thư viện – thông
tin học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hồ Chí
Minh”. Bài viết đã đưa ra một số yếu tố chi phối đến định hướng nghề nghiệp của
sinh viên gồm : năng lực của sinh viên, nhu cầu xã hội, sự tác động từ gia đình,
sở thích, đam mê cá nhân, ... Năng lực của sinh viên là yếu tố ảnh hưởng nhất đến
việc định hướng nghề nghiệp của sinh viên.
- Ngoài ra cịn có Tạp chí Báo Cần Thơ qua bài nghiên cứu của Trần Thị
Phụng Hà về “Định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên Đại học Cần Thơ,
Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn” cũng đưa ra một số các yếu tố tham gia vào
quá trình định hướng nghề nghiệp của SV:
+ Các yếu tố khách quan bao gồm xu hướng phát triển kinh tế xã hội
(KTXH), thị trường lao động thay đổi và mối quan hệ cung cầu trong thị
trường lao động.
+ Các yếu tố từ gia đình, bạn bè, nhà trường, các mối quan hệ trong xã hội
và quan niệm của xã hội về nghề nghiệp
+ Các yếu tố do định hướng từ bản thân SV theo 3 hướng: định hướng nhận
thức, định hướng thái độ, và định hướng kỹ năng đối với nghề nghiệp đó.
MỤC TIÊU KHẢO SÁT
Mục tiêu chung
Tìm hiểu về kỳ vọng của sinh viên năm 4 tại thành phố Hồ Chí Minh về
định hướng nghề nghiệp.
Mục tiêu cụ thể
- Các kỳ vọng về nghề nghiệp tương lai của sinh viên năm 4 hiện nay.
- Thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kỳ vọng của sinh viên hiện nay.
- Phân tích sự khác biệt về kỳ vọng của sinh viên hiện nay.
- Phân tích sự khác biệt trong cách định hướng nghề nghiệp của sinh viên
năm 4.
PHƯƠNG PHÁP KHẢO SÁT
Phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống các nguyên lý, quan điểm (trước hết là
những nguyên lý, quan điểm liên quan đến thế giới quan) làm cơ sở, có chức năng
lãnh đạo, xây dựng các phương pháp, định hướng phạm vi, kỹ năng ứng dụng các
phương pháp và xác định cho việc nghiên cứu tìm tịi cũng như việc lựa chọn,
vận dụng phương pháp.
Phương pháp khảo sát thực tiễn
● Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp được tiến hành bằng việc xây dựng bảng hỏi dựa trên cơ sở
lý luận của đề tài và phát bảng hỏi đến các đối tượng nhằm khảo sát về đề tài đã
đưa ra.
● Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý và phân tích các số
liệu thu thập được từ bảng hỏi thơng qua chương trình SPSS.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI KHẢO SÁT
Đối tượng khảo sát
Sinh viên năm 4 các trường ĐH tại thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi khảo sát
Các trường ĐH tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ý NGHĨA ĐỀ TÀI
● Đối với nhà trường
Thông qua đề tài này phản ánh một số định hướng, mong muốn, nguyện
vọng về vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, từ đó hiểu được một số
khó khăn, lo lắng của sinh viên. Qua đó giúp cho nhà trường có một số hướng về
giáo dục - đào tạo, hướng nghiệp nhằm giải quyết phần nào những mong muốn
của sinh viên, để sinh viên an tâm hơn trong quá trình tìm việc làm.
● Đối với sinh viên
Vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp là một vấn đề cấp thiết.
Qua đề tài này các bạn sinh viên sẽ có cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề việc làm của
mình trong tương lai, từ đó có thể có những bước chuẩn bị cần thiết cho tương
lai. Đồng thời giúp giải tỏa một phần những vướng mắc, những lo lắng cho sinh
viên khi bước ra môi trường thực tế chứ khơng bó hẹp trong phạm vi nhà trường.
Bên cạnh đó, đề tài cịn giúp sinh viên nhận thức rõ ngành học của mình
và có định hướng đúng đắn cho nghề nghiệp trong tương lai.
BỐ CỤC KHẢO SÁT
Bao gồm 2 phần:
- Phần 1 : Tổng quan
- Phần 2 : Nội dung chính
+ Chương 1: - Cơ sở lý luận và mơ hình khảo sát
- Bối cảnh khảo sát
- Định hướng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp
+ Chương 2 : Kết quả khảo sát
- Xử lý số liệu
- Thống kê và phân tích
- Kết luận
Kết luận và kiến nghị
Tóm lại: chương này là chương khái quát chung về vấn đề nghiên cứu, đây sẽ là
cơ sở để tiến hành các phần tiếp theo: Cơ sở lý luận và mơ hình khảo sát
NỘI DUNG CHÍNH
CƠ SỞ LÝ LUẬN & MƠ HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
KỲ VỌNG CỦA SINH VIÊN NĂM 4 TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỊNH HƯỚNG
NGHỀ NGHIỆP
1.1.1. Kỳ vọng
Kỳ vọng (Expectation), được xem là những mong mỏi, hi vọng, đặt lịng
tin vào ai đó, điều gì đó mà những điều đó được coi là có khả năng xảy ra.
Khi tìm hiểu nghĩa của từ kỳ vọng thì phải xét đa chiều đa nghĩa.
Về động từ, kỳ vọng được hiểu là tin tưởng, đặt niềm hy vọng đối với ai
đó. Vd: cha mẹ đặt lịng tin vào con cái sẽ được điểm tốt
Về danh từ, kỳ vọng có ý nghĩa là những điều mong mỏi, hi vọng đối với
ai đó hoặc điều gì đó. Là nhận định những điều gì đó về sự kiện tương lai.
Về mặt kinh tế, được sử dụng để giúp cho con người có thể đưa ra các nhận
định đối với các sự kiện có thể diễn ra trong tương lai gần, từ đó có thể giúp cho
mỗi chúng ta có thể định hướng được những hành vi của kinh tế hiện tại.
Các nhà tâm lý học tin rằng kỳ vọng của chúng ta khơng chỉ có thể ảnh
hưởng đến suy nghĩ và hành động của chúng ta, mà kinh nghiệm sống của chúng
ta cũng có thể ảnh hưởng đến kỳ vọng của chúng ta. Ví dụ, một cá nhân đã trải
qua nhiều kinh nghiệm dằn vặt sẽ có kỳ vọng thấp. Điều này là do những người
như vậy có nhiều khả năng xem cuộc sống là tiêu cực.
1.1.2. Thị trường lao động
Có ý kiến cho rằng, thị trường lao động là thị trường quan trọng bậc nhất,
vì lao động là nhu cầu của con người, là nguồn gốc tạo ra phần lớn của cải vật
chất trong xã hội, là nhân tố quyết định sự hoạt động, phát triển của tất cả các loại
thị trường. Có rất nhiều quan niệm về thị trường lao động. Nhấn mạnh đến đối
tượng trao đổi là sức lao động, có quan niệm “Thị trường lao động là nơi mua,
bán sức lao động của người lao động”.
Phát triển từ khái niệm trong tác phẩm của Adam Smith viết năm 1862 (thị
trường là không gian trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ), có tác giả lập luận nếu coi
sức lao động là hàng hóa hoặc nếu coi lao động là dịch vụ thì bản chất của khái
niệm này như sau: Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức lao
Commented [HLD2]: Cần phải xem tên đề tài để xác
định khái niệm
Chương 1:
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.2. Lý luận về kỳ vọng của sinh viên về đình hướng
nghề nghiêp
1.2.1. Khái niệm về kỳ vọng
1.2.2. Định hướng nghề nghiệp
1.2.3. Khài niệm về kỳ vọng của SV tại Tp.HCm về
định hướng nghề nghiệp
a) Khái niệm
b) Đặc điểm tâm lý của SV
c) Biểu hiện về kỳ vọng của SV về định hướng nghề
nghiệp
1.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng kỳ vọng của…
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.2. Kết quả nghiên cứu
động hoặc dịch vụ lao động giữa một bên là người sử dụng lao động và một bên
là người lao động.
Tiếp cận dưới góc độ việc làm, thị trường lao động được xác định là một
hệ thống trao đổi giữa những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm
(cung lao động) với những người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao
động để sử dụng (cầu lao động). Nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác
định thông qua việc làm được trả công, ILO định nghĩa: Thị trường lao động là
thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thơng qua q trình
để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công.
Tuy diễn đạt khác nhau, nhưng các quan niệm trên đều thống nhất với nhau
ở những nội dung cơ bản: Thị trường lao động là thị trường trong đó có người
cần bán sức lao động, cung cấp dịch vụ lao động (người lao động); có người cần
mua sức lao động (người sử dụng lao động); có các yếu tố cung- cầu lao động,
giá cả sức lao động (tiền công, tiền lương)…Trong đó có hai yếu tố cơ bản cấu
thành thị trường lao động là cung lao động và cầu lao động:
Cung lao động được hiểu là một bộ phần dân số tiềm năng, bao gồm những
người có đủ khả năng thể lực và trí lực làm việc, chưa tính đến các đặc điểm về
tuổi tác và giới tính. Cung lao động chính là tổng số lượng lao động đang tham
gia và sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động ở những thời điểm nhất định,
phụ thuộc vào tốc độ tăng nguồn lao động, sự biến động của cầu lao động, trình
độ đào tạo hướng nghiệp, dạy nghề và tiền lương (tiền công) trên thị trường lao
động. Thực chất, cung lao động là sức lao động mà người lao động tự nguyện đưa
ra để trao đổi trên thị trường.
Cầu lao động là số lượng lao động cần được thuê mướn trên thị trường lao
động; là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của một quốc gia (của một nền kinh tế),
hoặc của một ngành, địa phương hay doanh nghiệp…ở một thời kỳ nhất định,
gồm cả mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và thường được xác định thông qua chỉ
tiêu việc làm. Cầu lao động biểu hiện khả năng thuê lao động của người sử dụng
lao động, của doanh nghiệp và nhà đầu tư trên thị trường lao động.
1.1.3. Nghề nghiệp
Hiểu một cách đơn giản, đó là một cơng việc mà sẽ gắn kết với chúng ta
trong một thời gian dài, là những gì mà chúng ta chọn để có thể theo đuổi đam
mê và kiếm ra tiền.
Bản thân từ “nghề nghiệp” là một từ ghép được kết hợp từ 2 từ đơn có
nghĩa là nghề và nghiệp. Thế nhưng do sự phổ biến khi sử dụng mà người ta
thường gặp ý nghĩa của chúng lại. Vì thế, muốn có được một giải nghĩa đầy đủ
về nghề nghiệp, chúng ta phải tách 2 thành tố trong từ này ra để phân tích nghề
là gì nghiệp là gì?
Thứ nhất, nghề được hiểu là một cơng việc được làm cố định trong một
khoảng thời gian. Trong tiếng Anh giữa “cơng việc” và “nghề” dường như khơng
có sự phân biệt rõ ràng nhưng chúng ta có thể thấy rằng khi hỏi về cơng việc,
người ta có xu hướng dùng động từ để diễn tả nó, trong khi đó hỏi về nghề được
trả lời bằng một danh từ cụ thể. Ví dụ cơng việc của anh là dạy học nhưng nghề
của anh là giáo viên. Từ ví dụ này chúng ta có thể thấy rằng từ nghề nhấn mạnh
hơn về một chức danh được xã hội công nhận và nó có thời gian làm việc lâu dài
và ổn định hơn. Đó là lý do vì sẽ khi một cơng việc nào đó có thể ăn định và tag
ra thu nhập dài lâu, thêm vào đó là 3 ich cho xã hội thì người ta mới gọi đó là
nghề.
Thứ hai là từ “nghiệp”. Từ này trong Phật giáo nó chỉ nguyên nhân dẫn đến
một hệ quả nào đó, thường người ta hãy dùng nó một ý nghĩa tiêu cực là một hình
động xấu xa mã ai đó đã tạo ra. Tuy nhiên nếu đặt trang ý nghĩa Hán Nơm thì
“nghiệp” là một dạng thể của ngành như các từ công nghiệp, nơng nghiệp, lâm
nghiệp - Từ đây chúng ta có thể hiểu nghiệp là một từ bao trùm của nhiều lĩnh
vực có liên quan, “nghiệp” trực tiếp tạo ra sản phẩm có thể là hữu hình, hoặc vẽ
hình sáng đều chịu tác động của con người. Theo thời gian người ta bắt đầu cùng
nghiệp để nói về cơng việc nhiều hơn với các từ “nghề nghiệp”, “sự nghiệp” hay
“cơ nghiệp”.
Với 2 giải nghĩa tích chữ trên, khi kết hợp lại với nhau chúng ta có từ “nghề
nghiệp” với ý nghĩa là một công việc đã được xã hội công nhận, có ích cho cộng
đồng, tạo được ra của cải, thu nhập ổn định trong thời gian dài, đồng thời đó cũng
là đích đến xác định khi lựa chọn cơng việc của nhiều người. Vậy nghề nghiệp là
làm gì, có rất nhiều nghề nghiệp đang hiện có như: nghề giáo viên, nghề lao công,
nghề công an, nghề bác sĩ, hay nghề kỹ sư…
1.1.4. Định hướng nghề nghiệp
Vì nghề nghiệp là một mục đích cơng việc cuối cùng của mỗi người cho
nên nó ln cần có một định hướng nghề nghiệp. Định hướng nghề nghiệp đương
nhiên luôn kèm theo tư duy nghề nghiệp là gì mà bạn sẽ cần dành thời gian để
suy nghĩ và theo đuổi nó. Một định hướng nghề nghiệp có thể đề cập đến một vài
điều khác nhau. Đầu tiên là phương pháp giới thiệu một công việc mới, một nhân
viên mới có thể được hiển thị xung quanh văn phòng, được hỗ trợ điền vào một
số giấy tờ nhất định hoặc được cung cấp một số bài thuyết trình liên quan đến
cơng việc. Một loại định hướng nghề nghiệp khác đề cập đến hướng mà một cá
nhân thực hiện, thông thái nghề nghiệp, trong suốt cuộc đời của mình. Nếu một
cá nhân ln chọn hoặc theo đuổi một loại công việc nhất định, hoặc một công
việc trong một lĩnh vực cụ thể, thì đây có thể được xem là định hướng của người
đó.
Định nghĩa đầu tiên về định hướng nghề nghiệp có phần ít phổ biến hơn,
mặc dù một số công ty sử dụng thuật ngữ này khi đề cập đến tuyển dụng mới và
thời gian đào tạo của họ. Mục đích của loại định hướng này là cho phép một cá
nhân làm quen với công ty và vị trí mới của mình. Trong các cơng ty nơi các
nhóm người được thuê cùng một lúc, định hướng thậm chí có thể kéo dài một vài
ngày và có hình thức của một chương trình tương đối có tổ chức. Nó thường bao
gồm các bài thuyết trình về những thứ như kế hoạch lợi ích, chính sách của cơng
ty và thực hành làm việc an tồn, trong số những thứ khác. Nó cũng cung cấp cho
nhân viên cơ hội để đặt câu hỏi và bắt đầu đào tạo cho vị trí cụ thể của họ.
Loại định hướng nghề nghiệp thứ hai là định nghĩa phổ biến hơn. Điều này
đề cập đến sở thích và lựa chọn cơng việc của một cá nhân, hoặc cách người đó
định hướng anh ta hoặc cơ ta trong sự nghiệp của mình trong suốt cuộc đời. Nhiều
cá nhân tự nhiên phát triển một mơ hình sở thích cơng việc dựa trên khơng chỉ sở
thích của họ, mà trên cách họ thích làm việc. Ví dụ, một số người thực sự thích
làm việc như một phần của nhóm, trong khi những người khác làm việc độc lập
tốt hơn. Một số người thích sáng tạo, trong khi những người khác muốn có một
bộ nhiệm vụ cụ thể để hồn thành mỗi ngày. Mỗi khía cạnh tính cách này có thể
giúp tạo nên một định hướng nghề nghiệp.
1.1.5. Thất nghiệp
Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc,
mong muốn làm việc nhưng lại khơng tìm được việc làm.
1.1.6. Sinh viên
Theo Từ điển Giáo dục học: Sinh viên là người học của cơ sở giáo dục cao
đẳng, đại học [7; tr 71]; Theo Luật Giáo dục đại học: Sinh viên là người đang học
tập và nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục đại học, theo học chương trình đào
tạo cao đẳng, chương trình đào tạo đại học.
1.2. CÁC LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ KINH TẾ
1.2.1. Lý thuyết về việc làm của J.M.Keynes
Theo Keynes, vấn đề quan trọng nhất, nguy hiểm nhất đối với chủ nghĩa tư
bản là khối lượng thất nghiệp và việc làm. Vì vậy, vị trí trung tâm trong lý thuyết
kinh tế của ơng là "lý thuyết việc làm." Lý thuyết này đã mở ra một chương mới
trong tiến trình phát triển lý luận kinh tế, cả về chức năng tư tưởng lẫn thực tiễn.
Trong đó phải kể đến lý thuyết kinh tế vĩ mô, về hệ thống điều tiết của nhà
nước. Theo ông, tình trạng thất nghiệp kéo dài do thiếu hụt một số nhân hữu hiệu,
mức cầu bảo đảm lợi nhuận cho các nhà đầu tư, sỡ dĩ có tình trạng này là do:
- Khuynh hướng tiết kiệm ngày càng gia tăng, nó mang tính chất tâm lý,
biểu hiện trong từng cá nhân, tổ chức xã hội và ngay cả trong các doanh nghiệp.
Khuynh hướng tiết kiệm được biểu hiện như sau: Khi sản xuất tăng lên thì thu
nhập tăng lên, thu nhập chia làm hai bộ phận là tiêu dùng và tiết kiệm (để dự
phòng cho tương lai). Khi thu nhập tăng thì bộ phận tiêu dùng có thể tăng tuyệt
đối và giảm tương đối. Khuynh hướng tiết kiệm trong tiêu dùng cá nhân làm cho
cầu tiêu dùng cá nhân tăng chậm hơn là cung. Cầu đầu tư cũng có khả năng tăng
chậm hơn do cầu tiêu dùng tăng chậm, lãi suất ngân hàng thường cố định ở mức
tương đối cao trong khi tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút. Vì thế tổng cầu
giảm sút so với tổng cung.
Tuy nhiên, trong thời đại của J.M. Keynes đã có thay đổi lớn trong tính
chất và vai trị của cầu, giá cả khơng cịn là cơ chế lý tưởng xác lập cân bằng giữa
cung và cầu. Cầu luôn luôn tụt lại so với cung do người ta có xu hướng “muốn
tiêu dùng một phần thu nhập ít hơn dần khi thu nhập thực tế tăng.” Do đó phát
sinh “cầu bị gác lại,” cung trở nên thừa và điều này tạo điều kiện giảm đầu tư vào
sản xuất, tức là thất nghiệp và khủng hoảng xuất hiện.
Để chống suy thoái và thất nghiệp, ông đề ra giải pháp là tăng mức cầu, vì
tổng cầu tăng ảnh hưởng đến tổng cung sẽ làm giảm suy thoái và thất nghiệp.
Cách làm tăng tổng cầu là cần có sự can thiệp của nhà nước bằng cách sử dụng
cơng cụ tài khóa là chủ yếu (thuế, chi ngân sách). Theo J.M. Keynes, phần chi
của chính phủ là cơng cụ chính yếu bởi vì khi chi tiêu, Chính phủ tăng chi tiêu
làm kích thích mang tính dây chuyển để làm tăng tổng cầu nói chung. Sự tăng
tổng cầu tác động đến tổng cung cũng theo một tác động dây chuyền.
Lý thuyết về việc làm của J.M. Keynes trong điều kiện thực tế ở Việt Nam
● Vận dụng lý thuyết của J.M. Keynes trong giải quyết khủng hoảng và
chống thất nghiệp của các nước trên thế giới
Từ cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ sự đổ
vỡ của thị trường bất động sản và hệ thống ngân hàng ở Mỹ. Từ Mỹ, rối loạn này
lan sang các nước khác dẫn đến tình trạng sản xuất đình đốn, hàng loạt doanh
nghiệp phá sản, thất nghiệp tăng, thu nhập giảm, sức mua trên thị trường thế giới
bị thu hẹp. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới bước vào một cuộc suy thối
kinh tế được ví là nghiêm trọng nhất trong vịng gần 100 năm qua. Chính vào thời
điểm này, các lý thuyết của J.M. Keynes về chống khủng hoảng thất nghiệp vẫn
còn nguyên giá trị.
● Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu đến nền
kinh tế Việt Nam
Giảm cầu tiêu dùng tác động mạnh đến các ngành sản xuất hàng tiêu dùng,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc làm của người lao động trong doanh
nghiệp cũng như ở các làng nghề.
● Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến việc làm và đời sống người lao
động
Từ đẳng thức kinh tế vĩ mô theo lý thuyết tổng cầu của J.M. Keynes:
Y = C + I + G + EXImua
Trong đó:
Y: Tổng cầu của nền kinh tế (thu nhập quốc dân)
C: Tiêu dùng của hộ gia đình
I: Đầu tư
G: Chi tiêu của chính phủ
EX: Xuất khẩu
IM: Nhập khẩu
Ta thấy có 3 kênh tác động đến thu nhập và việc làm của người lao động:
Thứ nhất là về xuất khẩu: Việt Nam chủ yếu xuất khẩu ngun liệu thơ
và hàng hóa thâm dụng lao động ð giảm cầu trên thị trường thế giới dẫn đến giảm
xuất khẩu. Kinh tế thế giới suy thoái, giá giảm => lượng xuất khẩu có thể tăng
nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm => ảnh hưởng tiêu cực đến cầu về lao động.
Thứ hai là về đầu tư: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chủ yếu đầu
tư vào những lĩnh vực có lợi thế về lao động giá rẻ, thực hiện gia công sản phẩm
cho khách hàng nước ngoài. Vốn đầu tư trong nước thuộc các doanh nghiệp tư
nhân, làng nghề sản xuất, gia công hàng xuất khẩu giảm do cầu trên thị trường
thế giới giảm, giá giảm. Khủng hoảng kinh tế thế giới, cầu giảm => FDI và đầu
tư ở các làng nghề, một số doanh nghiệp tư nhân giảm => tác động tiêu cực đến
cầu về lao động.
Thứ ba là về tiêu dùng: Cầu về lao động giảm, lao động trong nước bị
mất việc làm, thiếu việc làm => mất hoặc bị giảm nguồn thu nhập. Lao động Việt
Nam ở nước ngoài phải về nước; kiều hối gửi về có xu hướng giảm => giảm xu
hướng tiêu dùng trong nước. Xu hướng giảm nguồn thu => giảm tiêu dùng =>
tác động đến đầu tư => giảm cầu lao động.
Như vậy, có thể thấy, khủng hoảng và suy thối kinh tế thế giới đã ảnh
hưởng tồn diện đến cầu về lao động, nhất là trong điều kiện kinh tế Việt Nam
thời gian qua hướng theo mơ hình tăng trưởng dựa trên gia tăng qui mô vốn đầu
tư và sử dụng nhiều lao động làm gia công xuất khẩu nhằm tận dụng lợi thế lao
động giá rẻ.
Các chính sách và hành động của Chính phủ trong thời gian vừa qua đã
góp phần củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và người lao động vào
khả năng chèo lái của Chính phủ trong nỗ lực đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua
những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu. Điều đó cũng
cho thấy lý thuyết kinh tế của J.M. Keynes cũng đã phát huy hiệu quả trong điều
kiện Việt Nam.
1.2.2. Lý thuyết về thất nghiệp theo quan điểm của Mac - Lenin
⧫ Khái niệm:
- Người thất nghiệp là những người từ 15 tuổi trở lên khơng có việc làm
nhưng sẵn sàng làm việc và đang tìm kiếm việc làm.
- Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động khơng có việc làm trên
tổng sổ lực lượng lao động xã hội
Phân loại thất nghiệp:
1.2.2.1 Theo hình thức thất nghiệp
- Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ)
- Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn)
- Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc
- Thất nghiệp chia theo lứa tuổi…
1.2.2.2. Theo lý do thất nghiệp
- Mất việc (job loser): người lao động khơng có việc làm do các đơn vị sản
xuất kinh doanh cho thơi việc vì một lý do nào đó.
- Bỏ việc (job leaver): là những người tự ý xin thơi việc vì những lý do chủ
quan của người lao động, ví dụ: tiền cơng khơng đảm bảo, không hợp nghề
nghiệp, không hợp không gian làm việc…
- Nhập mới (new entrant): là những người đầu tiên bổ sung vào lực lượng
lao động, nhưng chưa tìm được việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm.
- Tái nhập (reentrant): là những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay
muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
1.2.2.3. Theo tính chất thất nghiệp
- Thất nghiệp tự nguyện (voluntary unemployment)
- Thất nghiệp không tự nguyện (involuntary unemployment)
1.2.2.4. Theo nguyên nhân thất nghiệp
● Thất nghiệp tự nhiên (natural unemployment): là mức thất nghiệp bình
thường mà nền kinh tế trải qua, là dạng thất nghiệp không mất đi trong dài
hạn, tồn tại ngay khi thị trường lao động cân bằng. Thất nghiệp tự nhiên
bao gồm:
- Thất nghiệp tạm thời (frictional unemployment): Xuất hiện khi
khơng có sự ăn khớp về nhu cầu trong thị trường lao động; Chính
sách cơng và thất nghiệp tạm thời.
- Thất nghiệp cơ cấu (structural unemployment): Xuất hiện do sự dịch
chuyển cơ cấu giữa các ngành trong nền kinh tế hoặc sự thay đổi
phương thức sản xuất trong một ngành.
- Thất nghiệp mùa vụ (seasonal unemployment): Xuất hiện do tính
chất mùa vụ của một số công việc như làm nông nghiệp, dạy học,
công việc part time dịp hè, giải trí theo mùa (trượt tuyết, cơng viên
nước…)
● Thất nghiệp chu kỳ (cyclical unemployment): là mức thất nghiệp tương
ứng với từng giai đoạn trong chu kỳ kinh tế, do trạng thái tiền lương cứng
nhắc tạo ra,là dạng thất nghiệp sẽ mất đi trong dài hạn. Thất nghiệp chu kỳ
là mức thất nghiệp thực tế xuất hiện cùng với các chu kỳ kinh tế.
- Thất nghiệp chu kỳ cao (cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên) khi nền
kinh tế rơi vào suy thoái
- Thất nghiệp chu kỳ thấp (thấp hơn mức thất nghiệp tự nhiên) khi nền
kinh tế đang ở trong trạng thái mở rộng(phát triển nóng)
Chú ý: vì thất nghiệp thường mang nghĩa tiêu cực nên khi người ta nói đến
thất nghiệp chu kỳ thường hàm ý nói về thất nghiệp chu kỳ cao
● Mở rộng: Các trường hợp đặc biệt
- Công nhân tuyệt vọng (Discouraged workers): là những cá nhân gần
như không cịn mong muốn tìm việc nữa nhưng sẵn sàng làm việc
nếu có một cơng việc nào đó → phải xếp vào loại không nằm trong
lực lượng lao động.
- Thất nghiệp trá hình (Underemployment): là những cá nhân tìm cơng
việc làm fulltime nhưng cuối cùng chỉ làm partime hoặc làm việc
dưới khả năng của mình → phải xếp vào thất nghiệp.
- Thất nghiệp ảo (Phantom unemployed): là những cá nhân không cịn
mong muốn làm việc nhưng “cố tình” ở lại đội ngũ những người thất
nghiệp để giảm trợ cấp → phải xếp vào loại không nằm trong lực
lượng lao động.
1.2.3. Một số lý thuyết khác
1.2.3.1. Lý thuyết kinh tế cổ điển về lựa chọn việc làm của (Knight,1933 và
Schumpeter,1934 ):
Các yếu tố ảnh hưởng lựa chọn việc làm dựa trên mức độ thoả dụng về
kinh tế của người lao động. Lý thuyết của Knight (1933) cho rằng người lao động
sẽ lựa chọn công việc cho bản thân dựa vào kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
phù hợp với công việc mà họ đang làm. Lúc này, người lao động quan tâm đến
sự thuận lợi của loại hình cơng việc này như: tính linh hoạt về thời gian làm việc,
có khả năng tự chủ động, sáng tạo, tự chủ trong các tình huống.
Theo Schumpeter (1934) những khía cạnh khác của những người lựa chọn
làm chủ. Đó là do những người này có những hạn chế về ngoại hình, thiếu các
mối quan hệ hay không tiếp cận được cơ hội việc làm như: khơng biết chữ, chưa
qua đào tạo nghề, khơng có bằng cấp, tiền lương thấp thiếu chế độ đãi ngộ, thất
nghiệp.
1.2.3.2. Lý thuyết của Light (1979) và Alleman(1998):
Light (1979) và Alleman(1998) phân chia người lao động thành hai nhóm.
Nhóm có chi phí cơ hội thấp và nhóm có chi phí cơ hội cao đã ảnh hưởng đến
quyết định lựa chọn của người lao động. Trong thị trường lao động không phải
lúc nào người lao động cũng có đầy đủ những lựa chọn để tối đa hóa thỏa dụngcủa
mình. Light và Alleman nêu ra các nhân tố tạo nên chi phí cơ hội này thành 2
nhóm:
Nhóm nhân tố bất lợi tạo nên chi phí cơ hội thấp làm cho người lao động
có khuynh hướng lựa chọn làm chủ bao gồm nhân tố bất lợi trên thị trường lao
động như nghèo, thất nghiệp, bị phân biệt đối xử, đơ thị hóa q mức, mức thu
nhập trên thị trường thấp, là người nhập cư, là phụ nữ hoặc thanh niên cịn trẻ
chưa có kinh nghiệm. Nhân tố bất lợi về vốn con người như: trình độ học vấn và
chun mơn thấp, khơng có kinh nghiệm làm việc, chưa qua đào tạo.
Các yếu tố mang tính chất lợi thế tạo nên chi phí cơ hội cao khi bản thân
người lao động có trình độ học vấn và tay nghề cao.Trình độ quản lý đã được rèn
luyện tích luỹ qua thời gian, có nhiều kinh nghiệm trong cơng việc và nghề truyền
thống gia đình để lại. Với các mối quan hệ sẵn có sẽ lựa chọn làm chủ khi họ
nhận thấy cơ hội từ thu nhập kỳ vọng và lợi ích trong tương lai nhiều hơn cho bản
thân. Các yếu tố mang tính chất lợi thế tạo nên chi phí cơ hội cao được sử dụng
trong nghiên cứu này được đại diện bởi trình độ học vấn. Bên cạnh đó các yếu tố
mang tính chất bất lợi tạo nên chi phí cơ hội thấp đại diện bởi biến di cư và giới
tính.
1.3. CÔNG CỤ KHẢO SÁT
- Dựa trên các vấn đề:
+ Sinh viên thường kỳ vọng nghề nghiệp như thế nào? (đúng chuyên
ngành, mức lương, môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến)
+ Muốn bắt đầu công việc khi nào kể từ khi ra trường? ( Làm ngay; nghỉ
ngơi 1 2 năm rồi bắt đầu công việc,..)
+ Nếu sau khi ra trường khơng tìm thấy cơng việc theo đúng chun
ngành thì phải làm gì? (Tìm kiếm một cơng việc khác trái ngành nhưng ổn định;
tiếp tục tìm kiếm cơng việc lien quan đến chuyên ngành,…)
+ Muốn làm việc ở đâu? (tại địa phương – q mình, thành phố lớn, nước
ngồi)
+ Khả năng ngoại ngữ và kỹ năng mềm cần có (Kỹ năng ngoại ngữ, kỹ
năng giao tiếp,..)
Để tìm ra mục tiêu khảo sát là: Tìm ra những đặc điểm tâm lý chung của sinh
viên hiện nay và những yếu tố ảnh hưởng về định hướng nghề nghiệp.
Nhóm đã xây dựng cơng cụ khảo sát ( biểu mẫu - điều tra bảng hỏi) như sau:
/>
BỐI CẢNH KHẢO SÁT
1.Tình hình việc làm của sinh viên (Tâm note vào đây t sửa lại)
Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên
Sinh viên là đối tượng có hoạt động chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao đẳng, đại học. Một trong
những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh viên là:
- Sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những
hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát
triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Ví dụ: sinh viên đang học ở
các trường cao đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực,
phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của
nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể
hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay
nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể
nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ
thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ.
- Bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc
sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các
em sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để
SV được trải nghiệm bản thân. Và vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tịi cái
mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau
dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng
định mình.
- Tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề
nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực
sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn.
Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là
lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát
triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách
thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển
tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ
thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh
đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà
trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý
của SV.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ
nhất định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh
niên. Đó là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp
thu, học hỏi những cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế,
trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin, nền văn hố của chúng ta có nhiều
điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hố
phương Đơng và phương Tây. Việc học tập, tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của
các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích
những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do
đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hố khơng phù hợp với chuẩn
mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và khơng có lợi cho bản thân họ.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ
so với các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực
và tình cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tịi, khám phá),
có nhu cầu, khát vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt
với thử thách. Song, do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế
trong việc chọn lọc, tiếp thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi
phối hoạt động học tập, rèn luyện và phấn đấu của sinh viên
3.3 Định hướng nghề nghiệp của sinh viên
3.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới việc định hướng nghề nghiệp của sinh viên
ĐỊNH HƯỚNG VIỆC LÀM CỦA SINH VIÊN SAU KHI TỐT NGHIỆP
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Th.s Nguyễn Thị Minh Phương (Năm 2009), Định hướng nghề nghiệp và
khu vực làm việc sau tốt nghiệp của sinh viên ngồi cơng lập hiện nay,
(Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Đông Đô), Hà Nội.
2. Nguyễn Việt Anh (năm 2016), Định hướng việc làm của sinh viên hiện
nay, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội.
3. Mai Thị Bích Phương (năm 2018), Định hướng việc làm sau khi tốt nghiệp
của sinh viên Trường Đại Học Ngân Hàng Thành phố Hồ Chí Minh, Luận
văn Thạc sĩ xã hội học.
4. Trần Thị Phụng Hà ( năm 2014) Định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh
viên Đại học Cần Thơ, Khoa Khoa học xã hội & Nhân văn, Tạp chí khoa
học Trường Đại Học Cần Thơ, 34 (2014): 113-125.
5. Bùi Hà Phương (năm 2020), Yếu tố ảnh hưởng đến nghề nghiệp của sinh
viên Khoa thư viện – thông tin học Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân Nhâ, Đại học quốc gia Hồ Chí Minh, thơng và tư liệu 6/2020.
6. />7. />8. file:///C:/Users/DELL/Downloads/53999-Article%20Text-158157-1-1020210113%20(1).pdf
9. />10. />11. />12. />13. />%20cua%20John%20maynard%20keynes.pdf
14.