1
MỤC LỤC
I.PHẦN MỞ ĐẦU
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
4
5. Giả thiết nghiên cứu
4
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
4
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5
7.3. Phương pháp thống kê tốn học
5
8. Đóng góp của đề tài nghiên cứu
II. PHẦN NỘI DUNG
6
7
Chương 1: Cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của
sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
7
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
10
1.2. Các khái niệm cơ bản
12
1.2.1. Khái niệm khó khăn
12
1.2.2. Khái niệm khó khăn tâm lý
13
1.2.3. Khái niệm học trực tuyến (Online Learning)
13
1.3. Các đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên trong việc học trực tuyến 14
1.4. Khó khăn tâm lý của sinh viên trong việc học trực tuyến
17
1.4.1. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học của sinh viên
17
1.4.2. Khó khăn tâm lý của sinh viên trong việc học trực tuyến
18
1.5. Yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý của sinh viên trong việc học
trực tuyến
19
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu và kết quả nghiên cứu về khó khăn tâm lý
trong việc học trực tuyến của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh
21
2
2.1. Tổ chức nghiên cứu lý luận
21
2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng
22
2.2.1. Thực trạng về khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
22
2.2.2. Mục đích nghiên cứu
23
2.2.3. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu
24
2.2.4. Cách thức tổ chức các phương pháp nghiên cứu
24
2.3 Tiến trình nghiên cứu
26
2.4 Kết quả nghiên cứu thực trạng
26
2.4.1. Thực trạng khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh viên Đại
học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh
26
2.4.2. Nguyên nhân của thực trạng
27
2.4.3. Biện pháp khắc phục khó khăn tâm lý
28
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
32
3
I.
1.
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Cuối tháng 12 năm 2019, Đại dịch COVID-19 bùng phát đem đến tác động
mạnh mẽ trên hầu hết các lĩnh vực đời sống. Trong tình huống giãn cách xã hội, các
cơ sở giáo dục cũng không ngoại lệ, không thể hoạt động trực tiếp. Với tầm quan
trọng của giáo dục, để duy trì và đảm bảo tiến độ học tập của người học, hình thức
dạy trực tuyến được áp dụng.
Hình thức học tập trực tuyến và những hạn chế của nó đã tạo ra khó khăn
tâm lý cho sinh viên. Bối cảnh dịch bệnh chưa có điểm dừng thúc đẩy nhóm nghiên
cứu lựa chọn đề tài “Khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh viên trường
Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh”. Thơng qua bài viết này, nhóm nghiên cứu
mong muốn góp phần phát hiện, làm rõ những khó khăn tâm lý mà sinh viên gặp
phải, từ đó đề xuất một số giải pháp cải thiện.
2.
Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập trực tuyến của sinh
viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Từ đó đề xuất một số biện pháp
nhằm giảm bớt những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên.
3.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh
viên trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
Khách thể nghiên cứu: Sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
4.
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập trực tuyến
của sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
Về khách thể nghiên cứu: Giới hạn nghiên cứu của đề tài là sinh viên trường
Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
5.
Giả thiết nghiên cứu
Đa số sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh đều gặp phải khó
khăn tâm lý trong hoạt động học tập trực tuyến. Nếu có các biện pháp tích cực phù
4
hợp tác động hỗ trợ sẽ giúp cho sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí
Minh giảm bớt những khó khăn tâm lý đó.
6.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài như: khó khăn tâm lý, hoạt động học tập trực
tuyến, khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh viên.
Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong học trực tuyến của sinh viên trường
Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
Đề xuất biện pháp nhằm giảm bớt khó khăn tâm lý trong học trực tuyến cho
sinh viên trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh.
7.
Phương pháp nghiên cứu
7.1.
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: thông qua hoạt động phân tích tổng hợp hệ
thống hóa khái qt các lý thuyết cũng như cơng trình nghiên cứu của tác giả trong
và ngồi nước được đăng tải trên tạp chí sách đề tài luận văn, luận án về các vấn đề
liên quan tới khó khăn tâm lý của sinh viên sư phạm trong việc học trực tuyến từ đó
hệ thống hóa các khái niệm liên quan và các đặc điểm tâm lý của sinh viên trong
quá trình học trực tuyến.
Phương pháp chuyên gia: dùng để phỏng vấn làm rõ sự khác nhau trong từng
quan điểm khái niệm, cho ý kiến về các vấn đề xây dựng đánh giá công cụ nghiên
cứu, xử lý số liệu.
7.2.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: dùng để tìm hiểu thực trạng và mức độ,
một số yếu tố tác động đến khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh viên
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
7.3.
Phương pháp thống kê tốn học
Phần mềm SPSS phiên bản 22.0 sẽ được dùng để xử lí các dữ kiện thu được,
phục vụ cho việc phân tích số liệu cũng như đảm bảo tối đa u cầu định lượng và
tính khách quan trong q trình nghiên cứu.
5
6
8.
Đóng góp của đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh viên trường
Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, chỉ ra những khó khăn tâm lý và mức độ của
nó. Từ đó, đề xuất biện pháp giảm bớt những khó khăn tâm lý, giúp hoạt động học
tập của sinh viên hiệu quả hơn.
7
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý trong việc học trực tuyến của sinh
viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
1.1.
Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Học tập trực tuyến là xu hướng học tập ngày càng phổ biến trong thời đại
4.0. Với sự phát triển của mạng internet và các công nghệ kết nối và hiển thị, học
tập trực tuyến ngày càng dễ dàng và mở ra cơ hội mới cho các cơ sở giáo dục, đặc
biệt là các trường đại học. Trong thời gian phòng chống dịch COVID-19 tại Việt
Nam và trên thế giới, lợi ích của mơ hình học tập này đã thể hiện ngày càng rõ nét
khi giúp các trường đại học tiếp tục duy trì hoạt động đào tạo và kết nối hàng triệu
lớp học cho sinh viên và giảng viên trên toàn quốc. Học tập trực tuyến giúp môi
trường học tập không bị giới hạn về thời gian và khơng gian, đồng thời giảm chi phí
đào tạo và xã hội (O’Leary, 2005).
Việc ứng dụng công nghệ vào trong hoạt động đào tạo vốn dĩ không phải là
chuyện quá mới mẻ. Sự phát triển và ứng dụng những công nghệ mới trong giáo
dục đã giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập trực tuyến. Theo Connolly và
Stansfield (2006), ứng dụng công nghệ trong đào tạo đã trải qua ba giai đoạn chính.
Giai đoạn đầu tiên là từ 1994 đến 1999, được đánh dấu bằng việc sử dụng thụ động
công nghệ internet, các tài liệu giấy truyền thống được chuyển sang định dạng trực
tuyến. Giai đoạn thứ hai là từ 2000 đến 2003, được đánh dấu bằng sự phát triển
công nghệ truyền thông băng tầng cao, gia tăng hiệu quả và hiệu suất kết nối, truyền
tải thông tin, phương tiện truyền phát đa dạng thiết bị, tài nguyên số ngày càng phát
triển. Môi trường học tập ảo được hình thành với sự kết hợp giữa hai hình thức trực
tiếp và trực tuyến. Giai đoạn thứ ba hiện đang diễn ra, được đánh dấu bằng sự kết
hợp bằng mạng xã hội, kết nối diện rộng, mô phỏng trực tuyến, học tập trên thiết bị
di động (mobile learning). Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá vai
trò của công nghệ trong học tập trực tuyến, Rosenberg (2000) và O’Leary (2005)
8
khẳng định học tập trực tuyến dựa trên nền tảng sử dụng các công nghệ internet để
cung cấp một loạt các giải pháp giúp nâng cao kiến thức và hiệu suất đào tạo.
Nhiều nghiên cứu đã đề cập đến các yếu tố nguy cơ và sự phổ biến của các
triệu chứng của rối loạn căng thẳng cấp tính sau sang chấn (PTSD) ở sinh viên.
Tại Trung Quốc, Liu đã khám phá nhận thức, trạng thái tâm lý, lo lắng và
trầm cảm của sinh viên, nhấn mạnh rằng có sự khác biệt thống kê giữa các giới tính
khác nhau của sinh viên về biểu hiện khó khăn và biểu hiện hoảng sợ về cảm xúc,
và nguy cơ lây nhiễm. Ngoài ra, mức độ lo lắng và trầm cảm của sinh viên đại học ở
Trung Quốc trong đại dịch Covid-19 cao hơn so với dữ liệu chuẩn của dân số quốc
gia. Sự khó chịu khi tiếp xúc với nguy cơ lây nhiễm là một yếu tố nguy cơ dẫn đến
trầm cảm. Cao (2020) cũng đưa ra kết luận tương tự, chỉ ra rằng 0,9% số người
được hỏi bị lo lắng nặng, 2,7% lo lắng vừa và 21,3% lo lắng nhẹ. Hơn nữa, sống ở
thành thị, có thu nhập gia đình ổn định, và sống với cha mẹ là những yếu tố bảo vệ
chống lại sự lo lắng. Cuối cùng, có người thân hoặc người quen bị nhiễm Covid-19
là một yếu tố nguy cơ làm gia tăng chứng rối loạn lo âu ở sinh viên. Hỗ trợ xã hội
có tương quan nghịch với mức độ lo lắng (Liu, S.; Liu, Y.; Liu, Y., 2020).
Ở Tây Ban Nha, Odriozola-González cùng cộng sự đã phân tích tác động tâm
lý đối với cộng đồng đại học trong những tuần đầu tiên của Covid-19. Một nghiên
cứu cắt ngang đã được thực hiện. Thang điểm trầm cảm, lo lắng và căng thẳng
(DASS-21) cho thấy mức độ từ trung bình đến cực kỳ nghiêm trọng. Nhiều người
được hỏi đã trải qua sự lo lắng từ mức độ trung bình đến nghiêm trọng so với thời
kỳ đầu của đại dịch. Sinh viên từ các ngành khoa học nhân văn, xã hội và pháp lý
cho thấy điểm số liên quan đến rối loạn lo âu, trầm cảm và căng thẳng cao hơn so
với sinh viên kỹ thuật và kiến trúc (Odriozola-González, P.; Planchuelo-Gómez, Á.;
Irurtia-Miz, 2020).
Ở Kosovo, Arënliu đã xác định một xu hướng ở các sinh viên đại học được
phỏng vấn: trong thời gian giãn cách, những người dành nhiều thời gian hơn trên
mạng xã hội cho biết họ bị khó khăn tâm lý nghiêm trọng hơn. Một xu hướng tương
9
tự cũng được tìm thấy ở những sinh viên cho thấy ít động lực cho các nghiên cứu
trực tuyến (Arënliu, A.; Bërxulli, D. Rapid , 2020).
Ở Pakistan, Salman nhận thấy mức độ lo lắng và trầm cảm ở mức độ vừa
phải ở sinh viên. Những người được hỏi ở độ tuổi ≥31 có điểm số trầm cảm thấp
hơn đáng kể so với những người dưới 30 tuổi. Nam giới có điểm số lo lắng và trầm
cảm thấp hơn đáng kể so với nữ giới. Ngồi ra, những người có thành viên trong gia
đình, bạn bè hoặc người quen bị nhiễm bệnh có điểm lo lắng cao hơn đáng kể.
Nguồn gốc chính của khó khăn liên quan đến những tác động tiêu cực của đại dịch
đang diễn ra đối với cuộc sống hàng ngày, sau đó là sự lây lan nhanh chóng của
dịch bệnh. Liên quan đến các chiến lược đối phó, người ta phát hiện ra rằng hầu hết
những người được hỏi đã áp dụng cách đối phó “tơn giáo / tâm linh” (Salman, M.;
Asif, N.; Mustafa, Z.U.; Khan, T.M.; Shehzadi, N.; Hussain, K.; Khan, 2020)
Ở Jordan, Ala'a (2020) lưu ý rằng hầu hết các sinh viên được khảo sát được
coi là bị khó khăn tâm lý nghiêm trọng. Phụ nữ có tỷ lệ khó khăn tâm lý nhẹ và
nặng cao hơn có ý nghĩa thống kê. Nhiều sinh viên cho biết họ khơng có động lực
để học từ xa. Có một mối quan hệ nghịch đảo có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng
khó khăn tâm lý nghiêm trọng và động cơ học tập từ xa.
Chiến lược đối phó phổ biến nhất của sinh viên là dành nhiều thời gian hơn
trên mạng xã hội. Ngoài ra, một số sinh viên cho biết đã sử dụng ma túy để giải
quyết tình trạng khó chịu liên quan đến Covid-19, và nhiều sinh viên cho biết học từ
xa là mối quan tâm nghiêm trọng nhất của họ.
Tại Ấn Độ, Duan và Zhu đã nghiên cứu cuộc sống của sinh viên đại học
trong thời gian của Covid-19, nhấn mạnh rằng họ đã bị phá vỡ cấu trúc tổng thể khi
những thay đổi nhanh chóng xảy ra trong lối sống của họ, đặc biệt là về học tập,
công việc và các cuộc tụ họp xã hội. Vì vậy, nhiều điều khơng chắc chắn đã nảy
sinh trong họ về các vấn đề học tập và nghề nghiệp, về việc mắc bệnh với Covid-19,
về thời gian của đại dịch và về những gì tương lai gần xảy ra. Hậu quả của việc này
là những biểu hiện của sự lo lắng, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, bất an, trầm cảm và
10
tuyệt vọng. Các tác giả lưu ý rằng điều này có thể khiến học sinh chán nản, và ảnh
hưởng đến hạnh phúc và thành công trong học tập của họ. Do đó, các tác giả đề xuất
rằng các can thiệp hỗ trợ tâm lý chủ yếu tập trung vào việc xóa bỏ cái nhìn bi quan
về cuộc sống, và ủng hộ một cách tiếp cận lạc quan và kiên cường (Duan, L.; Zhu,
2020).
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về những khó khăn và rào cản của việc
học trực tuyến khá phổ biến, nhưng đặt trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 thì vẫn
chưa có nhiều đề tài được triển khai thực hiện. Trong khi đó, dịch bệnh COVID-19
đang ở giai đoạn bùng phát mạnh mẽ và có thể khó kết thúc trong tương lai. Việc
học trực tuyến có thể sẽ phải tiếp tục duy trì nhằm đảm bảo phịng chống dịch và
duy trì việc dạy học, do vậy cần thiết phải có thêm các nghiên cứu liên quan tới việc
học dạy học trực tuyến nhằm làm rõ bức tranh những thuận lợi và khó khăn của việc
học trực tuyến và đề xuất các giải pháp để đảm bảo hiệu quả của việc dạy học trực
tuyến tại các trường học
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, đào tạo trực tuyến đã hình thành và phát triển từ những năm
cuối của thập niên 2009 với sự ra đời của các chương trình đào tạo từ xa trực tuyến
cấp bằng của một số trường. Trong 05 năm trở lại đây, ngày càng có thêm nhiều
trường triển khai các chương trình đào tạo tuyến hồn tồn cấp bằng cử nhân hình
thức đào tạo Từ xa và các đơn vị giáo dục cung cấp các khóa học trực tuyến ngắn
hạn. Trước khi đại dịch COVID diễn ra, hầu hết các trường đại học chỉ áp dụng
phương thức đào tạo này như một phần bổ trợ cho các lớp đại học chính quy. Ở hệ
đào tạo chính như sử dụng hệ thống quản lý học tập LMS bổ trợ cho quá trình học
trên lớp thơng qua các hoạt động: đăng tải tài liệu, diễn đàn thảo luận, làm một số
bài tập tích lũy điểm q trình... Một số ít trường đại học được Bộ Giáo dục và Đào
tạo cho phép triển khai thí điểm mơ hình đào tạo kết hợp (blended learning) với tỉ lệ
không quá 30% tổng khối lượng học tập của tồn bộ chương trình đào tạo (Phan Thị
Ngọc Thanh, Nguyễn Ngọc Thông và Nguyễn Thị Phương Thảo, 2020).
11
Thực tế triển khai cho thấy các sinh viên tham gia học các chương trình đào
tạo từ xa trực tuyến hoàn toàn buộc phải cam kết về khả năng sử dụng công nghệ
thông tin, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật như thiết bị học tập và kết nối
internet. Một số trường xây dựng và bắt buộc sinh viên tham gia khoá học Kỹ năng
học tập trực tuyến trước khi bắt đầu vào các môn học khác. Sinh viên theo học các
chương trình này được chuẩn bị khá kỹ để có thể theo học trực tuyến trong một thời
gian dài. Trong khi đó, sinh viên đại học chính quy của các trường mặc dù có thể đã
được làm quen và học tập một phần trên hệ thống quản lý học tập LMS nhưng vẫn
chỉ là các hoạt động đơn giản chưa có ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập. Khi các
trường buộc phải triển khai giảng dạy và học trực tuyến hồn tồn để ứng phó dịch
bệnh COVID-19, nhiều sinh viên gặp khơng ít khó khăn trong q trình thích nghi
và tiếp nhận sự thay đổi đột ngột. Sự chuyển biến quá nhanh này có thể dẫn đến
những cảm nhận khác nhau của sinh viên trong quá trình theo học. Do đó, để tìm
hiểu và khám phá cảm nhận của sinh viên đại học chính quy khi trải nghiệm việc
học trực tuyến hồn tồn, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu này. Kết quả nghiên
cứu cho thấy các sinh viên có cảm nhận khác nhau trong q trình thích nghi với
việc học trực tuyến hồn tồn như một giải pháp tình thế đối phó với đại dịch. Đồng
thời cũng tìm thấy 08 nhóm khó khăn nổi bật của sinh viên
Việc chuyển đổi hình thức học tập truyền thống sang học tập trực tuyến đã
tạo ra không ít những thách thức đối với sinh viên. Nghiên cứu của nhóm tác giả
Đặng Thị Thúy Hiền, Trần Hữu Tuấn… về các yếu tố rào cản trong việc học trực
tuyến của sinh viên Khoa Du lịch – Đại học Huế đã chỉ ra một số khó khăn về
khơng gian học tập cũng như các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của
sinh viên. Cụ thể, có đến 64% sinh viên cho rằng khơng có khơng gian riêng tư để
học tập trực tuyến và thường bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn 79,1%; 71% sinh viên nhấn
mạnh thường bị người nhà làm phiền và cảm thấy gị bó, khơng được đi lại chiếm tỉ
lệ 73,7%. Cùng với đó, những yếu tố tâm lý như “Khó tập trung”, “Thiếu động lực”
cũng là một trong những rào cản mà sinh viên gặp phải khi học tập trực tuyến. Bên
cạnh đó, kết quả nghiên cứu của tác giả Lữ Thị Mai Oanh, Nguyễn Thị Như Thúy
đồng thời cho thấy quá trình tương tác giữa người dạy và người học cũng phần nào
12
cho thấy sự ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên. Cụ thể, có tới 88,5% sinh
viên cho rằng đúng một phần và hoàn toàn đúng với việc sinh viên và giảng viên
khó tương tác, trao đổi và 73,3% sinh viên cho rằng thầy cô giáo dạy không thu hút,
sinh động như dạy trực tiếp trên lớp truyền thống (Lữ Thị Mai Oanh, Nguyễn Thị
Như Thúy, 2020).
Học trực tuyến là một trong những mơ hình học tập tiên tiến và phát triển ở
nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên những khó khăn và rào cản của hình thức này
vẫn cịn rất hiện hữu. Chính vì điều này, nhiều cơng trình nghiên cứu đã được thực
hiện để xác định các yếu tố bất lợi nhằm khắc phục những rào cản, hướng tới việc
cải thiện chất lượng học tập đối với hình thức đào tạo này.
Trong nghiên cứu “Những khó khăn tâm lý của sinh viên năm thứ nhất khoa
giáo dục chính trị và cơng tác xã hội, trường đại học Đồng Tháp” (ThS. Kiều Văn
Tu). Qua khảo sát 58 sinh viên thì có 54 sinh viên trả lời câu hỏi về những khó khăn
tâm lý khi chuẩn bị bài trước khi lên lớp:
- Có khó khăn: Thì số sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi làm việc độc lập với
sách, tài liệu là 44 sinh viên. Số sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi chuẩn bị bài
trước khi lên lớp là 24 sinh viên. Số sinh viên trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi
chuẩn bị và tiến hành xêmina và kiểm tra, đánh giá là 30 sinh viên.
- Khơng có khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi chuẩn bị bài trước
khi lên lớp là 33 sinh viên. Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi làm việc độc lập với
sách, tài liệu là 14 sinh viên. Sinh viên trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi ghi chép,
tiếp thu bài giảng là 19 sinh viên.
- Rất khó khăn: Sinh viên trả lời cao nhất ở câu hỏi chuẩn bị và tiến hành
xemina là 11 sinh viên. Sinh viên trả lời thấp nhất ở câu hỏi ghi chép, tiếp thu bài
giảng và làm việc đọc với sách và tài liệu khơng có sinh viên nào trả lời câu hỏi
này. Sinh viên trả lời mức độ trung bình ở câu hỏi kiểm tra, đánh giá là 6 sinh viên.
1.2.
Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm khó khăn
Theo từ điển tiếng Việt căn bản thì: khó khăn có nghĩa là sự trở ngại hoặc sự
thiếu thốn.
13
Theo từ điển láy Việt thì khó khăn nghĩa là có nhiều trở ngại làm mất nhiều
cơng sức.
Trong từ điển Anh - Việt thì từ "Hardship" hoặc từ "difficulty" đều được dùng
chỉ sự khó khăn, sự gây go, sự khắc nhiệt đòi hỏi nhiều nỗ lực để khắc phục.
Như vậy, qua các từ điển nói trên khi bàn về khó khăn, cho phép chúng ta hiểu
khó khăn là những sự gay go, sự khắc nhiệt, sự thiếu thốn... gây ra những trở ngại
đòi hỏi nhiều nỗ lực để vượt qua.
1.2.2. Khái niệm khó khăn tâm lý
Khó khăn tâm lý là toàn bộ những nét tâm lý của cá nhân, nảy sinh ở chủ thể
trong q trình hoạt động khơng phù hợp (gây cản trở) với những yêu cầu đặc trưng
của một hoạt động nhất định, làm ảnh hưởng xấu tới tiến trình và kết quả của hoạt
động đó.
1.2.3. Khái niệm học trực tuyến (Online Learning)
Học tập trực tuyến đã trở thành một mơ hình học tập phổ biến trên thế giới.
Những định nghĩa về học tập trực tuyến thường được gắn liền với yếu tố công nghệ.
Theo Welsh và cộng sự (2003), học tập trực tuyến sử dụng cơng nghệ kết nối mạng
máy tính trên mơi trường internet để cung cấp thông tin và hướng dẫn cho cá nhân
có nhu cầu. Rosenberg (2000) chia sẻ một định nghĩa tương tự đề cập đến học tập
điện tử là sử dụng các công nghệ internet để cung cấp các giải pháp khác nhau cho
người học. Holmes và Gardner (2006) xác định học trực tuyến cung cấp cho chúng
ta quyền truy cập vào các tài nguyên thúc đẩy việc học ở mọi nơi và mọi lúc. Định
nghĩa về học tập trực tuyến có thể khác nhau nhưng nhưng đều xoay quanh các vấn
đề cơ bản là học tập, công nghệ và kết nối. Nghiên cứu của Oliver và Towers
(2000) đã chỉ ra rằng nếu khơng có mơi trường kết nối và thiết bị phù hợp và dễ
dàng truy cập, sẽ rất khó hoặc khơng thể thực hiện học tập trực tuyến. Như vậy
công nghệ là một điều kiện không thể tách rời khi đánh giá học tập trực tuyến.
Học trực tuyến là phương thức phân phối các tài liệu, nội dung học tập dựa
trên các công cụ điện tử hiện đại được thực hiện hồn tồn thơng qua hệ thống quản
lý học tập (LMS) như Blackboard, WebCT, MOODLE… Hầu hết sự tương tác giữa
14
giáo viên và sinh viên, sự tương tác giữa các sinh viên với nhau được thực hiện với
sự hỗ trợ từ các hệ thống quản lý học tập.
Trong một lớp học trực tuyến điển hình, mỗi sinh viên có một tài khoản để truy
cập bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào họ muốn. Các hoạt động học tập phổ biến trên
hệ thống học tập trực tuyến bao gồm việc tham gia vào các diễn đàn thảo luận, xem
video hướng dẫn hoặc bài giảng, đọc tài liệu do giảng viên đăng lên, nộp bài tập về
nhà, làm bài kiểm tra hoặc thực hành ngôn ngữ. Trong môi trường học tập này, máy
tính cung cấp cho người học tất cả các loại tài nguyên họ cần dựa trên sự lựa chọn
và phản hồi của người học.
Ở dạng đơn giản, học trực tuyến có thể liên quan đến các trang web có văn
bản, hình ảnh và siêu liên kết. Giáo viên sử dụng các trang web này như một sự thay
thế cho sách giáo khoa truyền thống. Tuy nhiên, dưới các hình thức phức tạp hơn,
học trực tuyến liên quan đến nhiều nguồn học đa phương tiện. Người học có thể
thực hiện nó với các video hướng dẫn tương tác dưới dạng tệp PDF. Khi một phần
của video hướng dẫn đã kết thúc, người học có nhiều lựa chọn về nội dung họ muốn
xem tiếp theo. Hệ thống học trực tuyến có thể bao gồm các đối tượng học tập phức
tạp như các ứng dụng mô phỏng chỉ cho sinh viên cách cất cánh hoặc hạ cánh máy
bay.
Tài liệu để học trực tuyến có thể đơn giản là tài liệu phát tay dưới dạng tệp
PDF hoặc bài kiểm tra câu hỏi được lưu trong tệp Word. Chúng cũng có thể khá
phức tạp, bao gồm các trò chơi, các bài học tương tác hoặc các video hướng dẫn.
Bên cạnh đó, những tài liệu này có thể được thiết lập dưới dạng văn bản, siêu liên
kết, tệp âm thanh, tệp video hoặc kết hợp tất cả các hình thức này.
1.3.
Các đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên trong việc học trực tuyến
Theo các nhà tâm lý học, sinh viên, những người thuộc lứa tuổi từ 18 đến 25,
đã đạt đến mức độ trưởng thành cơ bản của con người cả về thể chất lẫn tinh thần.
B.G.Ananhev đã nhận định, sinh viên có khả năng lập kế hoạch và thực hiện hoạt
động một cách độc lập, có sự biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội
có liên quan đến nghề nghiệp, xác định con đường sống tích cực, nắm vững nghề
15
nghiệp tương lai, bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống [27,
tr.61].
Tuổi sinh viên là thời gian quan trọng nhất cho sự phát triển nhân cách, nhân
cách nghề nghiệp. Đây là lứa tuổi mà các chức năng tâm lý, đặc biệt là sự phát triển
các năng lực trí tuệ diễn ra hiệu quả nhất. Với lứa tuổi sinh viên B.G.Ananhiev đã
viết: “Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và
thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt là vai trò xã hội của
người lớn” [27, tr.61]. Sự phát triển nhân cách của sinh viên diễn ra trong suốt quá
trình học tập ở đại học – cao đẳng diễn ra với mục đích trở thành một người chun
gia có trình độ năng lực và đạo đức nghề nghiệp trong tương lai. Vốn hiểu biết, kinh
nhiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp...vv được hồn thiện và dần dần nghề nghiệp
hố.
Tóm lại, tuổi sinh viên là giai đoạn phát triển đạt đến độ trưởng thành cả về
sinh lý và tâm lý. Tuy nhiên, sự phát triển nhân cách của sinh viên khơng phải là
một con đường bằng phẳng, hồn tồn thuận lợi mà gặp phải nhiều khó khăn vướng
mắc, địi hỏi sự nỗ lực khắc phục của chính bản thân người sinh viên. Chính sự tích
cực, tự giác của sinh viên sẽ là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành và
phát triển các phẩm chất nhân cách của người chuyên gia trong tương lai.
“Hoạt động học tập của sinh viên là một loại hoạt động nhận thức cơ bản của
sinh viên, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy, nhằm lĩnh hội,
nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng về một loại nghề nào đó, làm cơ sở cho hoạt
động nghề nghiệp trong tương lai” [27, tr.89]
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục, đào tạo ở bậc Cao đẳng - Đại học là đào tạo
nguồn nhân lực có chun mơn cao về nghề để đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó việc
học tập của sinh viên ngồi việc mang những đặc điểm của hoạt động học tập nói
chung cịn có những đặc điểm riêng sau đây [17, tr127-175]:
- Tính chuyên nghiệp: thể hiện trong mục đích của hoạt động học tập ở sinh
viên là nhằm hướng vào việc hình thành, phát triển và hồn thiện nhân cách người
16
chuyên gia trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Ở đại học người sinh viên
không chỉ chiếm lĩnh những kiến thức tổng quát, nền tảng (một phần trong quá trình
học) mà mục tiêu chính là chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng và thái độ về nghề
nghiệp, hình thành những phẩm chất của người chuyên gia trong tương lai.
- Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu cao của việc học để trở thành
chuyên gia trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định nên trong hoạt động học tập
người sinh viên đòi hỏi phải có sự độc lập cao, sự tự ý thức đầy đủ về học tập của
bản thân. Đó là sự nhận thức được mình là chủ thể của hoạt động học tập, là người
định hướng, tổ chức và kiểm tra đánh giá hoạt động học tập của bản thân dưới sự
hướng dẫn, trợ giúp của giảng viên. Tính độc lập trong học tập của sinh viên thể
hiện trong suốt quá trình học tập, từ việc tích cực giải quyết các nhiệm vụ học tập
đen việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc học, lập kế hoạch học tập phù hợp và nỗ
lực ý chí thực hiện nó. Bên cạnh đó, việc học tập của sinh viên mang tính chất
nghiên cứu khoa học nên buộc sinh viên phải có tính độc lập cao trong học tập.
- Tính thực tiễn: thể hiện ở việc chú trọng phương pháp học bộ môn, chuyên
ngành, cách thức tiến hành nghiên cứu khoa học, làm thí nghiệm...vv phục vụ cho
nghề nghiệp tương lai. Học tập của sinh viên trên cơ sở nắm vững hệ thống tri thức
lý luận, phát triển kỹ năng ứng dụng và năng lực sáng tạo trong chun mơn của
mình. Tính thực tiễn trong học tập của sinh viên còn thể hiện ở sự đáp ứng về
những đòi hỏi của xã hội trong việc đào tạo một lực lượng chuyên gia về nghề phục
vụ cho xã hội trong tương lai.
- Tính sáng tạo: Tính sáng tạo trong hoạt động học tập của sinh viên thể hiện ở
việc tham gia nghiên cứu khoa học. Tính sáng tạo của sinh viên một mặt xuất phát
từ kết quả của sự phát triển của tuổi trưởng thành vừa là yêu cầu của bản thân hoạt
động học tập của sinh viên trong thời đại mới.
Từ những đặc điểm riêng trên trong hoạt động học tập của sinh viên đã kéo
theo một sự thay đổi lớn về nội dung, phương pháp, điều kiện học tập cần có ở bậc
Đại học. Học tập của sinh viên diễn ra khơng chỉ trên lớp mà cịn ở ngoài lớp;
17
không chỉ tiến hành dưới sự hướng dẫn của giảng viên mà còn được tiến hành một
cách độc lập, do bản thân mình tự sắp xếp, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá.
Nội dung học tập bao gồm việc tiếp nhận kiến thức, học kỹ năng, học các thái
độ...vv. Chính sự thay đổi về tính chất, mục tiêu của học tập ở đại học so với phổ
thông đã dẫn đến việc hoạt động học tập của sinh viên mang tính chuyên nghiệp,
tính độc lập cao, tính thực tiễn và tính sáng tạo.
Đối với hoạt động học tập trực tuyến, thực tế triển khai cho thấy các sinh viên
phải cam kết về khả năng sử dụng công nghệ thông tin, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về
kỹ thuật như thiết bị học tập và kết nối internet. Khi các trường buộc phải triển khai
giảng dạy và học trực tuyến hồn tồn để ứng phó dịch bệnh COVID-19, nhiều sinh
viên gặp khơng ít khó khăn trong q trình thích nghi và tiếp nhận sự thay đổi đột
ngột. Khó khăn đem lại ảnh hưởng nhiều mặt mà biểu hiện rõ nhất chính là suy
giảm hứng thú học tập, gây tâm lý căng thẳng, stress ở sinh viên, ảnh hưởng đến
thành tích học tập…
Theo TS Lê Thị Mai Liên, không chỉ giáo viên mới cảm thấy áp lực, căng
thẳng mà học sinh sinh viên hiện đang ở thời kỳ đầy thách thức, bị cô lập trong thời
gian rất dài khơng được đến trường. Khơng ít sinh viên gặp rất nhiều khó khăn về
tâm lý vì phải ở nhà lâu ngày, bị cô lập về mặt xã hội và cảm xúc, thiếu các hoạt
động vận động, "đói" những hoạt động mang lại niềm vui.
Nhiều sinh viên học sinh đã có các dấu hiệu như chán nản, lo lắng, buồn, sợ
hãi, bối rối, giảm hứng thú, bất an, bồn chồn, mất tập trung, mệt mỏi, khó giữ được
cảm xúc. Điều này khiến khả năng chú ý, tập trung của người học hạn chế nên khi
ngồi trước máy tính lâu sinh viên cũng cảm thấy rất mệt mỏi.
Rào cản về tâm lý đề cập đến việc sinh viên cảm thấy bối rối, lo lắng hoặc thất
vọng và muốn nhận được các phản hồi nhanh hơn từ giảng viên về nội dung, bài
tập, nhiệm vụ của lớp học trực tuyến. Bên cạnh đó, trong q trình học trực tuyến
sinh viên khó có thể kiên nhẫn và tập trung vào bài giảng, cảm giác thiếu động lực
hay chưa sẵn sàng tham gia chương trình học trực tuyến và thiếu tự tin về năng lực
18
và kỹ năng của bản thân về công nghệ là các yếu tố gây cản trở về mặt tâm lý của
sinh viên khi học trực tuyến.
1.4. Khó khăn tâm lý của sinh viên trong việc học trực tuyến
1.4.1. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học của sinh viên
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học của sinh viên là toàn bộ những nét tâm lý
của cá nhân nảy sinh ở sinh viên trong quá trình học tập, gây trở ngại cho tiến trình
và kết quả học tập (Nguyễn Thị Thanh Bình, 1996).
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học của sinh viên (Đặng Thị Lan, 2015) được
biểu hiện ở:
+ Nhận thức: Sinh viên hiểu biết chưa đầy đủ về cơng việc mình sẽ phải thực
hiện khi tiến hành hoạt động học; sinh viên chưa xác định được điểm mạnh, điểm
yếu của bản thân; sinh viên chưa nắm được chính xác những vấn đề cần học tập.
+ Thái độ: Sinh viên còn thiếu khả năng kiềm chế xúc cảm tình cảm, thờ ơ với
việc học tập, thiếu tự tin, chưa quyết tâm học tập...
+ Kỹ năng: Sinh viên còn lúng túng trong học tập, diễn đạt nội dung học tập
thiếu chính xác, khơng làm chủ trong q trình học tập...
1.4.2. Khó khăn tâm lý của sinh viên trong việc học trực tuyến
Về mặt nhận thức:
Hình dung sai về cách học. Hiện nay, nhiều bạn sinh viên vẫn còn cho rằng
việc học trực tuyến sẽ giống với hình thức học trực tiếp tại lớp. Các bạn cho rằng
học trực tuyến sẽ có thời khóa biểu, bài giảng trong giờ lên lớp và có sinh viên khác
học cùng. Nhưng trên thực tế, học viên sẽ tự đăng nhập vào hệ thống quản lý vào
bất cứ thời gian nào. Lúc này, lịch học của bạn sẽ trở nên linh động hơn nhưng có
một vấn đề là bạn phải có tính chủ động và tự học cao.
Không biết khai thác tài liệu. Đây được xem là khó khăn dễ thấy nhất đối với
nhiều bạn sinh viên khi bắt đầu làm quen với hình thức học trực tuyến. Thường thì
các bài học sẽ được liên kết tới nhiều trang khác nhau để lấy tài liệu hoặc làm bài
19
tập. Ngoài ra, ở một số trường đại học, bạn sẽ phải tải các phần mềm, ứng dụng thì
mới có thể tham gia vào khóa học.
Về mặt thái độ:
Trì hỗn vì kế hoạch phát sinh. Đây là khó khăn khi học trực tuyến dễ nhìn
thấy đối với nhiều người, đặc biệt là đối với các bạn học liên thơng hay văn bằng 2
theo hình thức học trực tuyến. Bởi do lúc này các bạn đã có cơng việc, muốn học
lên thêm để mở ra cho mình một cơ hội mới, được nâng lương hay thăng chức.
Chính vì thế mà trong quá trình học bạn dễ gặp nhiều vấn đề phát sinh về cơng việc
hay gia đình và phải trì hỗn hay bỏ cuộc giữa chừng.
Mất động lực bản thân. Nhiều bạn lựa chọn phương thức học trực tuyến vì để
tiết kiệm thời gian, chi phí. Tuy nhiên, việc học trực tuyến bạn sẽ phải tự chủ động
nhiều hơn, không được gặp giảng viên cũng khơng được gặp bạn bè. Những câu hỏi
khơng biết thì đa số phải tự tìm câu trả lời. Ngồi ra bạn còn phải dành nhiều thời
gian để làm các việc khác dẫn đến mất tập trung
Về mặt kỹ năng:
Để tham gia lớp học trực tuyến một cách hiệu quả, sinh viên cần có một mức
độ thành thạo công nghệ nhất định và phương pháp học tập phù hợp để tham gia
vào các lớp học và tương tác trên không gian mạng. Trong các lớp học truyền
thống, q trình truyền đạt và tiếp nhận thơng tin được diễn ra trực tiếp và nhanh
chóng, sinh viên có thể trực tiếp phản hồi và nêu ý kiến. Sự tương tác trực tiếp này
giúp quá trình học tập dễ dàng hơn, phong phú và dễ tiếp thu hơn (Kênh thông tin
tuyển sinh giáo dục, 2021).
1.5. Yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý của sinh viên trong việc học
trực tuyến
Học trực tuyến được xem là một mơ hình giáo dục tiên tiến và phát triển với
tốc độ ngày càng tăng, tuy nhiên hình thức này vẫn tồn tại những nhược điểm (Sun,
P.C et al, 2008). Nhiều tổ chức giáo dục đẩy nhanh việc ứng dụng học trực tuyến để
đạt được những lợi ích của nó nhưng lại gặp những rào cản rất lớn đối với việc triển
20
khai và áp dụng dẫn đến việc triển khai chương trình học trực tuyến thất bại
(Mungania, P., 2003).
Theo Mungania (2004) rào cản học trực tuyến là những trở ngại gặp phải trong
quá trình học trực tuyến (khi bắt đầu, trong q trình và khi đã hồn thành khóa đào
tạo) có thể tác động tiêu cực đến trải nghiệm học tập của người học. Thuật ngữ này
đồng nghĩa với những trở ngại, thách thức hoặc cản trở.
Tổng quan các nghiên cứu cho thấy các yếu tố rào cản đối với sự thành công
của học trực tuyến rất đa dạng và có thể phân loại là các rào cản về sư phạm, các
vấn đề liên quan đến giảng viên và tổ chức, các vấn đề liên quan đến văn hóa, các
rào cản liên quan đến cá nhân người học, các rào cản công nghệ… (Mungania, P.,
2003).
Muilenberg và Berge (2005) đã xác định các yếu tố chính đại diện cho các rào
cản đối với sự phát triển của học trực tuyến đó là các vấn đề tâm lý, giảng viên,
tương tác xã hội, kỹ năng học tập, kỹ năng kỹ thuật, động lực của người học, thời
gian và hỗ trợ cho nghiên cứu, chi phí và truy cập Internet, và các vấn đề kỹ thuật.
Trong số các yếu tố này, nghiên cứu cho thấy thiếu sự tương tác xã hội là rào cản
đáng kể nhất, tiếp theo là các vấn đề hành chính và người hướng dẫn, thời gian và
hỗ trợ và động lực của người học. Bên cạnh đó, kết quả phân tích 153 học viên
chương trình cao học về Nơng nghiệp tại Đại học Islamic Azad đã xác định 5 yếu tố
rào cản của chương trình học trực tuyến bao gồm: rào cản về cơ sở hạ tầng, rào cản
liên quan đến thái độ của người học, rào cản về chuyên môn kỹ thuật, rào cản con
người (xã hội), rào cản về kỹ năng và trình độ (Shirkhani, Z., 2016).
Nghiên cứu của Renu Balakrishnan và cộng sự (2014) có 4 rào cản ảnh hưởng
đến việc học trực tuyến của người học: tâm lý, kinh tế, xã hội, kỹ thuật.
Trong đó yếu tố cơng nghệ (kỹ thuật) có ảnh hưởng lớn đến việc học trực
tuyến của người học. Nghiên cứu của Wong (2007) đã phân loại các hạn chế của
chương trình học trực tuyến bao gồm: hạn chế về công nghệ, các hạn chế liên quan
đến cá nhân người học và các hạn chế khác. Đối với cá nhân người học, việc sử