Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.24 KB, 73 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô Học viện Quản lý giáo dục và các
thầy cô khoa Giáo dục đã dìu dắt, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.s. Đặng Thị Hoàng Liên giảng viên
khoa Giáo dục đã nhiệt tình dành thời gian quan tâm giúp đỡ tôi hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các bạn sinh viên năm
thứ nhất– Khoa Giáo dục đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình làm khóa luận tốt
nghiệp này.
Mặc dù đã dành thời gian, tâm huyết nhưng trong khóa luận tốt nghiệp của
tôi vẫn còn nhiều hạn chế sai sót, kính mong quý thầy cô và các bạn góp ý để luận
văn của tôi có thể hoàn chỉnh hơn.

Sinh viên


Đặng Văn Vân
MỤC LỤC
1
DANH MỤC ĐỒ THỊ 5
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
CHƯƠNG 2 26
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 34
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 51
1. Kết luận 51
2. Kiến nghị 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
PHỤ LỤC 58


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1 HN Hà Nội
2 HVQLGD Học Viện Quản Lý Giáo Dục
3 SV Sinnh Viên
4 TB Trung Bình
5 XH Xã Hội
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

STT CÁC BẢNG
1
Bảng 3.1: Thực trạng mức độ khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt nhận
thức và thái độ
trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa
giáo dục HVQLGD
2
Bảng 3.2:Thực trạng khó khăn tâm lý biểu hiện ở kỹ năng học tập của sinh
viên năm thứ nhất khoa Giáo dục- HVQLGD
3
Bảng 3.3:Thực trạng hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng của
các khó khăn tâm lý ở sin h viên năm thứ nhất khoa Giáo dục
HVQLGD
4
Bảng 3.4: Tổng quan thực trạng nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý
trong hoạt động
học
tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục-
HVQLGD
5
Bảng 3.5: Tổng quan thực trạng các biện pháp khắc phục khó khăn tâm

lý trong hoạt
động
học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục
HVQLGD
6
Bảng 3.6: Thực trạng thời gian học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa
Giáo dục- HVQLGD

DANH MỤC ĐỒ THỊ
STT BIỂU ĐỒ
1
Biểu đồ 3.1: Thực trạng hiệu quả hoạt động học tập do ảnh hưởng
của các khó khăn tâm lý ở sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục
HVQLGD
2
Biểu đồ 3.2: Tổng quan thực trạng các biện pháp khắc phục khó khăn
tâm lý trong hoạt
động
học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo
dục HVQLGD
3
Biểu đồ 3.3: Thực trạng thời gian học tập của sinh viên năm thứ nhất
khoa Giáo dục- HVQLGD

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống, con người muốn tồn tại và phát triển phải tham gia vào các
hoạt động, bằng hoạt động và thông qua hoạt động nhân cách con người được hình
thành và phát triển. Tùy vào mục đích, nhiệm vụ, vị trí và hoàn cảnh khác nhau mà
mỗi cá nhân, trong hoạt động của mình sẽ gặp phải những khó khăn nhất định đòi

hỏi cá nhân phải nỗ lực vượt qua để hoạt động được diễn ra cũng như đạt được mục
đích của mình. Do đó, việc tìm hiểu những khó khăn và có biện pháp giảm bớt nó là
hết sức cần thiết.
Đối với con người, học tập là một trong những hình thức hoạt động chính,
không thể thiếu, nhằm tiếp thu, lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử của xã
hội loài người đã được tích lũy qua nhiều thế hệ.
Đối với sinh viên ở trường đại học, học tập là một dạng hoạt động cơ bản mà
thông qua nó người sinh viên “nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực
hành về nghề, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thông thường
thuộc chuyên ngành đào tạo” , để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực được đào tạo,
có khả năng lao động nghề, nuôi sống bản thân, phục vụ xã hội trong tương lai. Do
đó, hoạt động học tập cần sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu nhằm mục đích tạo điều
kiện thuận lợi cũng như giảm bớt khó khăn nảy sinh trong học tập của sinh viên.
Thực tế cho thấy, sinh viên năm thứ nhất nói chung phần lớn là học sinh đang
thực hiện bước chuyển tiếp từ môi trường học tập ở phổ thông sang môi trường học
tập ở bậc đại học với nhiều khác biệt về khối lượng, nội dung tri thức, phương pháp
giảng dạy, hình thức học tập,…vv. Ngoài ra, hầu hết sinh viên đại học xuất thân từ
những vùng miền khác nhau, với môi trường hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế có
nhiều khác biệt so với nhịp sống ở các thành phố lớn, là nơi tập trung của đa số các
trường đại học. Tất cả những sự khác biệt đó đã gây không ít khó khăn tâm lý khiến
sinh viên rất dễ chán nản, bỏ bê việc học tập hoặc không theo kịp, không đáp ứng
được các yêu cầu học tập.

1
Vì vậy, việc phát hiện khó khăn tâm lý cụ thể và tìm ra biện pháp khắc phục
những khó khăn tâm lý này trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất là
việc làm cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của họ.
Học viện Quản lý Giáo dục phía Bắc, với số lượng lớn sinh viên tuyển sinh
đào tạo hàng năm, vấn đề chất lượng đào tạo luôn được quan tâm hàng đầu nên việc
tìm hiểu những khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên và hỗ trợ họ là điều hết

sức cần thiết và cấp bách.
Trong thời gian qua, các nhà tâm lý học thường tập trung nhiều vào các
nghiên cứu về sự thích ứng với hoạt động học tập, những trở ngại tâm lý trong giao
tiếp của sinh viên. Vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
năm thứ nhất ít được quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Khó
khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo
dục - Học viện Quản lý Giáo dục”
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm
thứ nhất khoa Giáo dục, Học viện Quản lý Giáo dục. Từ đó đề xuất một số biện
pháp nhằm giảm bớt những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa
Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo dục
3.2 Khách thể nghiên cứu:
- 200 Sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo dục
4. Giả thuyết nghiên cứu
Đa số sinh viên năm thứ nhất trường khoa Giáo dục Học viện Quản lý Giáo
dục gặp phải khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập. Nếu có các biện pháp tích
cực phù hợp tác động hỗ trợ sẽ giúp cho sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục Học
viện quản lý Giáo dục giảm bớt những khó khăn tâm lý đó.

2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài như: khó khăn tâm lý, hoạt động học tập,
hoạt động học tập của sinh viên, khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất.
- Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên

năm thứ nhất khoa Giáo dục Học viện Quản lý Giáo dục cũng như xác định các
nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của họ.
- Đề xuất thử nghiệm biện pháp nhằm giảm bớt khó khăn tâm lý trong kỹ năng
học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa giáo dục
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1 Về đối tượng nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên năm thứ nhất khoa giáo dục
6.2 Về khách thể nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu trên sinh viên năm thứ nhất khoa
giáo dục
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
Phương pháp xử lí số liệu bằng toán thống kê

3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ
LUẬN
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn
đề
Trong lịch sử nghiên cứu tâm lý, vấn đề khó khăn tâm lý nói chung, khó khăn
tâm

trong hoạt động học tập nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý
xem xét dưới
nhiều
góc độ, nhiều khách thể khác nhau. Sau đây là vài nét sơ
lược một số công trình nghiên
cứu

về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
trong và ngoài
nước.
1.1.1. Ở nước
ngoài
Đối với con người, học tập là phương thức để tiếp thu tri thức, kỹ năng
nhằm
mục
đích nhận biết, tác động, cải tạo thế giới hiện thực, phũc vụ cho lợi
ích của con người.
Lịch
sử loài người đã chứng minh, chỉ thông qua con đường
học tập, thì những di sản văn hoá
vật
chất, tinh thần từ thế hệ trước mới được lưu
truyền cho thế hệ sau và cũng nhờ đó mà
những
giá trị này mới còn tồn tại. Tuy
nhiên, học tập không phải là một hoạt động đơn giản.
Trong
quá trình biến tri thức
của nhân loại thành vốn kinh nghiệm riêng của cá nhân con người
đã
gặp không
ít khó khăn, trong đó có nhưng khó khăn về mặt tâm
lý.
Khi bàn về khó khăn tâm lí trong học tập, tác giả A.V.Pêtrốpxki hướng đến
đối
tượng
là khó khăn tâm lý của trẻ em khi đi vào lớp một. Ông chia những khó

khăn này ra làm
ba
loại:
Loại 1: Nhưng khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập
mới
Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ giao tiếp mới với thầy
cô và
bạn
Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới. Lúc đầu
được
sự
chuẩn bị của gia đình, nhà trường, xã hội nên có tâm lý vui thích và
sẵn
sàng đi học. Về sau trẻ giảm dần khát vọng và chán
học.
Bên cạnh đó, tác giả đề cập những nguyên nhân dẫn đến khó khăn và ảnh
hưởng
của
chúng đến đời sống của trẻ đồng thời đề xuất biện pháp giải quyết khó
khăn cho
trẻ.

4
Cũng đề cập đến vấn đề khó khăn tâm lý của trẻ em khi vào lớp một, nhà
tâm lý
học
Mauricè Debesse trong công trình nghiên cứu của mình đã gọi lớp một
là “trang sử mới
của
cuộc đời đứa trẻ”. Đồng thời Mauricè Debesse cũng chỉ ra

rằng, đứng trước ngưỡng cửa
lớp
một trẻ em gặp rất nhiều khó khăn tâm lý.
Chính những khó khăn này làm cản trơ tới
sự
thích ứng với hoạt động học tập
của trẻ, làm trẻ sợ học, không muốn đến trường và kết
quả
học tập không
cao.

Tóm lại, khó khăn tâm lý trong hoc tập là một hiện tượng tâm lý phức
tạp
nhưng
được ít các nhà tâm lý học nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Mặc
dù trong công
trình
nghiên cứu của mình, các tác giả đã có những đóng góp
nhất định trong việc phát hiện
va
nêu ra một số khó khăn tâm lý, đồng thời chỉ ra
nguyên nhân của những khó khăn tâm lý
đó.
Tuy nhiên đối tượng mà các công
trình nghiên cứu này hướng tới chủ yếu là những
khó
khăn tâm lý của trẻ vào
lớp một, đồng thời họ cũng chưa nêu được định nghĩa cũng
như
vạch ra bản

chất của những khó khăn tâm lý
đó.
1.1.2 Ở Việt
Nam
Trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta”, bác sỹ Nguyễn Khắc
Viện đã
nêu
ra những khó khăn tâm lý mà học sinh lớp một gặp phải đó
là:
- Trẻ phải giữ kỷ luật lớp
học.
- Trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi mẫu
giáo.
- Trẻ ít được bố mẹ vỗ về âu yếm hơn trước và trẻ luôn chịu sự kiểm tra,
đánh
giá
của bố
mẹ…
Nhà giáo dục Nguyễn Thị Nhất trong tác phẩm “ 6 tuổi vào lớp 1” đã phát
hiện
ra
nhiều khó khăn tâm lý mà trẻ lớp một phải vượt qua. Tác giả cho rằng
“trong quá trình
lớn
lên của trẻ em có những bước ngoặt chuyển tư giai đoạn này
sang giai đoạn khác đòi hỏi
trẻ
em phải thay đổi phương thức sinh hoạt một
cách triệt để.” Đồng thời tác giả cũng nêu
ra

một số khó khăn tâm lý cụ thể mà
trẻ lớp một phải vượt
qua:
- Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui nhộn, hoạt động tùy hứng

mẫu
giáo và khép mình vào kỷ luật nghiêm khắc của lớp học phổ
thông.

5
- Trẻ gặp khó khăn trong quan hệ với giáo
viên
- Trẻ bị “vỡ mộng” khi vào học lớp một vì sự hân hoan hồi hộp chờ đón
những
điều
hấp dẫn được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ.
Tác giả Nguyễn Thanh Sơn, trong bài viết “Những khó khăn của học sinh
miền
núi
khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam” [26], đã phân tích những
khó khăn của của
học
sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam
và chỉ ra những khó khăn mà
học
sinh gặp phải
là:
- Hoàn cảnh giao tiếp thông tin của học sinh miền núi bị hạn
chế.
- Vốn từ ngữ của học sinh miền núi còn thiếu và

yếu.
- Năng lực cảm thụ một câu thơ, một đoạn thơ
yếu…
Theo tác giả, nguyên nhân của những khó khăn của học sinh miền núi
khi học
tác
phẩm văn học cổ điển Việt Nam là do tầm văn hoá, vốn sống, vốn hiểu
biết của các em
còn
hạn chế. Vì vậy muốn nâng cao năng lực cảm thụ văn học
của các em phải mở rộng
tầm
hiểu biết cuộc sống, xã hội cho các em. Những
hoạt động ngoại khoá, du lịch, câu lạc
bộ
văn hoá là những hoạt động có tác
dụng tốt đối với học
sinh.Tr
ong bài viết “Một số trở ngại tâm lý của trẻ em khi
vào học lớp một” [8, tr.57 -
58],
tác giả Vũ Ngọc Hà đã nêu ra một số trơ ngại tâm
lý mà khi vào học lớp một trẻ em
thường
gặp phải. Đó
là:
- Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường
mới.
- Khó khăn trong các mối quan
hệ.

- Khó khăn khi phải đến
trường.
Tác giả Nguyễn Xuân Thức, trong bài viết “Các nguyên nhân dẫn đến khó
khăn
tâm
lý của học sinh đi học lớp một” đã nêu ra các nguyên nhân cụ thể
sau:
- Các nguyên nhân chủ
quan:
+ Trẻ chưa hiểu rõ nội
quy.
+ Trẻ được chuẩn bị quá kĩ trước khi tới
trường.
+ Trẻ không được chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi
học.
+ Do tính cách của
trẻ.

6
+ Do trẻ chưa đủ tuổi đến
trường.
+ Do trẻ mắc một số bệnh bẩm
sinh.
- Các nguyên nhân khách
quan:
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về gia
đình
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về nhà
trường
+ Nhóm nguyên nhân thuộc về xã

hội.
Tác giả cho rằng, các nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân gây ra
khó
khăn
tâm lý nhiều hơn cho học sinh lớp một. Ngoài ra tác giả cũng đưa ra
một số giải pháp

phạm để tháo gỡ những khó khăn tâm lý cho trẻ.
Những năm gần đây có một số luận văn thạc sỹ đã quan tâm nghiên cứu về
khó
khăn
tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh – sinh viên
như:
- Năm 2001, luận văn thạc sỹ “ Tìm hiểu những khó khăn tâm lý trong quá
trình
giải
bài tập hình học của học sinh lớp 11 trung học phổ thông” của tác giả
Nguyễn Thị Nhân
Ai
- Năm 2002, tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền với đề tài “Thực trạng khó khăn
tâm

trong quá trình giải bài tập thực hành các thao tác kỹ thuật của sinh viên
trường CĐSP
Kỹ
Thuật Vinh”
[15].
Tóm lại, khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là một hiện tượng tâm lý
phức
tạp

nhưng vấn đề này vẫn còn ít được quan tâm nghiên cứu. Các công trình
nghiên cứu về
vấn
đề này như đã nêu trên ít nhiều đã xây dựng được cơ sở lý
luận và đưa ra những dữ
kiện
thực tiễn. Tuy nhiên, khách thể nghiên cứu trong
các công trình trên còn giới hạn, chủ
yếu
tập trung vào học sinh mà chưa chú ý
đến sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm thứ
nhất,
những người vừa rời khỏi
ghế nhà trường phổ thông để bước vào một môi trường học
tập
mới. Ngoài ra,
khi nghiên cứu về vấn đề khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập, các
công
trình
trên chỉ tập trung nghiên cứu một cách chung chung, khái quát mà chưa đi sâu tìm
hiểu
khó khăn tam lý biểu hiện một cách cụ thể trong hoạt động học
tập.

7
1.2 Cơ sở lý luận
1.2.1. Hoạt động học tập của sinh viên
1.2.1.1 Hoạt động
Để có thể tồn tại và phát triển đến những thành tựu rực rỡ như ngày nay
con

người
phải tiến hành các hoạt động khác nhau, hoạt động của con người
chính là quá trình tác động đến đối tượng
nhằm
mục đích thoả mãn nhu cầu của
mình. Có thể nói hoạt động là phương thức tồn tại
của
con người trong hiện
thực khách
quan.
Trong tâm lý học, hoạt động được hiểu là “một tổ hợp tác động vào đối
tượng
nhằm
đạt mục đích thoả mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả
hoạt động là sự cụ thể
hoá
nhu cầu của chủ thể”
Khi nhu cầu này được thỏa mãn sẽ xuất hiện một
nhu
cầu mới và ở mức độ
cao hơn. Khi ấy con người lại phải tiến hành các hoạt động mới
khác.
Cứ như
thế con người không chỉ tồn tại mà ngày càng phát triển đến những trình độ
cao
hơn. Quá trình con người tác động đến thế giới khách quan (hoạt động)
bao gồm hai
quá
trình diễn ra thống nhất với nhau. Đó là: quá trình chủ thể hoá
đối tượng và quá trình

khách
thể hoá chủ thể. Về bản chất, hoạt động của con
người khác hoàn toàn so với hoạt động
của
loài vật thể hiện ở bốn đặc điểm cơ
bản sau: tính đối tượng, tính chủ thể, tính gián tiếp

tính mục
đích.
1.2.1.2. Hoạt động học
tập
a. Khái niệm hoạt động học
tập
Đối với con người thì học tập là một trong những hình thức hoạt động
chính,
không
thể thiếu nhằm tiếp thu, lĩnh hội những thành tựu, tri thức, kinh
nghiệm xã hội – lịch sử
của
xã hội loai người đã được tích lũy qua nhiều thế
hệ. Trong thực tiễn, con người có
nhiều
cách học khác nhau để tiếp thu kinh
nghiệm xã hội, nhưng thông thường học tập
được
thường có hai dạng cơ bản:
học ngẫu nhiên và học có mục
đích.
- Học ngẫu nhiên: Đây là dạng học được thực hiện một cách không chủ định.
Kết

quả
của hoạt động này chỉ thu được những tri thức rời rạc, không hệ

8
thống, ngẫu nhiên,
tiền
khoa học. Mục đích của cách học này là nhằm ứng phó
với những tình huống, những vấn
đề
cụ thể trong cuộc sống. Tuy nhiên để tồn tại
và phát triển cũng như tác động, cải tạo thế
giới
hiện thực con người không chỉ
dừng lại ở những tri thức kinh nghiệm mà đòi hoi cần có
một
hệ thống tri thức
khoa học, có tính khái quát cao để áp dụng vào mọi tình huống trong
thựctiễn
.
Để đạt được mục đích này con người cần tiến hành hoạt động học có hiệu quả
hơn
đó
là học có mục
đích.
Khi bàn về vấn đề học tập có rất nhiều quan điểm
khác nhau tùy vào cách tiếp
cận
của các nhà nghiên
cứu.
A.N.Lêônchiev, P.Iaganpêrin và N.Phatalưđina lại coi học tập xuất phát từ

mục
đích
trực tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở hình thức tâm lý bên
ngoài và bên
trong
của hoạt
động.
Do cách tiếp cận
khác
nhau nên hoạt động học tập cũng được các tác giả
nhấn mạnh ở những khía cạnh khác
nhau
nhưng họ vẫn gặp nhau ở một điểm
chung đó là xem hoat động học tập là hoạt động có
mục
đích tự giác, có ý thức về
động cơ và trong đó diễn ra quá trình nhận thức, đặc biệt là
quá
trình tư
duy.
Hoạt động học tập là hoạt động đặc
thù
của con người được điều khiển bởi
mục đích tự giác và lĩnh hội những tri thức, kỹ xảo
mới,
những phương thức hành
vi và nhưng dạng hoạt động nhất định
.
Tóm lại, hoạt động học tập có thể hiểu khái quát như sau: Hoạt động học
tập là

một
hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội, tiếp thu những tri
thức, kinh nghiệm
của
xã hoi loài người được kết tinh trong nền văn hoá xã hội,
qua đó giúp chủ thể phát triển

hoàn thiện nhân
cách.
Trong hoạt động nói chung, hoạt động học tập nói riêng thường diễn ra hai
quá
trình:
Quá trình nội tâm hoá và quá trình ngoại tâm
hoá.
- Quá trình thứ nhất (quá trình nội tâm hoá) là quá trình cá nhân bằng hoạt
động
tích
cực của mình biến những kinh nghiệm xã hội – lịch sử của loài người thành
vốn
kinh
nghiệm của chính bản thân. Quá trình này diễn ra thông qua hoạt động của
các giác
quan,
diễn ra trong đầu bằng các quá trình tâm lý khác nhau như cảm giác,
tri giác (quá trình
nhận
thức cảm tính), tư duy, tưởng tượng…(quá trình nhận thức lý

9
tính). Qua trình nội tâm hoá

sẽ
đạt được kết quả khi cá nhân người học có ý thức tự
giác điều khiển, điều chỉnh được
hoạt
động của
mình.
- Quá trình thứ hai (quá trình ngoại tâm hoá) là quá trình cá nhân sử dụng
những
tri
thức tiếp thu được vận dụng vào hoạt động thực tiễn, làm biến đổi theo
hướng tích cực
các
sự vật hiện tượng phục vụ cho con
người.
Hai quá trình này có mối quan hệ qua lại gắn bó chặt chẽ với nhau trong
quá
trình
hoạt động học
tập.
b. Đặc điểm của hoạt động học
tập
Đối tượng của hoạt động học tập là hệ thống kiến thức khoa học, kỹ
năng, kỹ
xảo
mới tương ứng. Hoạt động học tập là loại học tập mà ở đó bằng sự
tự giác và có mục
đích
của mình, chủ thể biến những tri thức chung của nhân
loại thành cái của riêng mình.
Trong

quá trình ấy, người học không sáng tạo ra tri
thức mà chỉ tái tạo lại những tri thức đã có.

việc tái tạo tri thức này được diễn
ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người dạy. Vì vậy
hoạt
động học tập sẽ không
có kết quả nếu người học chỉ thụ động tiếp nhận các tác động

phạm. Do đó
để việc học tập hiệu quả, người học phải là chủ thể tích cực, tự giác và có
năng
lực
trí tuệ để lĩnh hội những tri thức mà giáo viên truyền
thụ.
1.2.1.3. Hoạt động học tập của sinh viên
a. Khái niệm hoạt động học tập của sinh viên
“Hoạt động học tập của sinh viên là một loại hoạt động nhận thức cơ bản
của
sinh
viên, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy, nhằm lĩnh
hội, nắm vững
hệ
thống kiến thức, kỹ năng về một loại nghề nào đó, làm cơ sở
cho hoạt động nghề
nghiệp
trong tương lai” [27,
tr.89]
b. Đặc điểm hoạt động học tập của sinh
viên

Xuất phát từ mục tiêu giáo dục, đào tạo ở bậc Cao đẳng - Đại học là đào
tạo
nguồn
nhân lực có chuyên môn cao về nghề để đáp ứng yêu cầu xã hội. Do
đó việc học tập
của
sinh viên ngoài việc mang những đặc điểm của hoạt động
học tập nói chung còn có
những
đặc điểm riêng sau đây:
- Tính chuyên nghiệp: Ở đại học người sinh viên không chỉ chiếm lĩnh

10
những kiến thức tổng quát,
nền
tảng (một phần trong quá trình học) mà mục
tiêu chính là chiếm lĩnh hệ thống tri thức,
kỹ
năng và thái độ về nghề nghiệp,
hình thành những phẩm chất của người chuyên gia
trong
tương lai. Học tập của
sinh viên mang tính đặc trưng của hoạt động nghề
nghiệp
tương lai. Tóm lại,
trong quá trình học tập, sinh viên phải xây dựng cho mình một nhân
cách đáp
ứng
yêu cầu nghề nghiệp sau
này.

- Tính độc lập cao trong học tập: Đó là sự
nhận
thức được mình là chủ thể
của hoạt động học tập, là người định hướng, tổ chức và kiểm
tra
đánh giá hoạt
động học tập của bản thân dưới sự hướng dẫn, trợ giúp của giảng viên.
Tính
độc
lập trong học tập của sinh viên thể hiện trong suốt quá trình học tập, từ việc
tích
cực
giải quyết các nhiệm vụ học tập đen việc tìm kiếm tài liệu phục vụ
cho việc học, lập
kế
hoạch học tập phù hợp và nỗ lực ý chí thực hiện nó. Bên
cạnh đó, việc học tập của sinh
viên
mang tính chất nghiên cứu khoa học nên buộc
sinh viên phải có tính độc lập cao trong
học
tập.
- Tính thực tiễn: Tính thực tiễn trong
học
tập của sinh viên còn thể hiện ở
sự đáp ứng về những đòi hỏi của xã hội trong việc đào
tạo
một lực lượng chuyên
gia về nghề phục vụ cho xã hội trong tương
lai.

- Tính sáng tạo: Tính sáng tạo trong hoạt động học tập của sinh viên thể hiện

việc
tham gia nghiên cứu khoa học. Tính sáng tạo của sinh viên một mặt xuất
phát từ kết quả
của
sự phát triển của tuổi trưởng thành vừa là yêu cầu của bản
thân hoạt động học tập của
sinh
viên trong thời đại
mới.
Từ những đặc điểm riêng trên trong hoạt động học tập của sinh viên đã kéo
theo
một
sự thay đổi lớn về nội dung, phương pháp, điều kiện học tập cần có ở
bậc Đại học. Học
tập
của sinh viên diễn ra không chỉ trên lớp mà còn ở ngoài lớp;
không chỉ tiến hành dưới
sự
hướng dẫn của giảng viên mà còn được tiến hành một
cách độc lập, do bản thân mình tự
sắp
xếp, tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá.
Nội dung học tập bao gồm việc tiếp nhận
kiến
thức, học kỹ năng, học các thái
độ…vv. Chính sự thay đổi về tính chất, mục tiêu của học
tập
ở đại học so với

phổ thông đã dẫn đến việc hoạt động học tập của sinh viên mang
tính
chuyên

11
nghiệp, tính độc lập cao, tính thực tiễn và tính sáng
tạo.
c. Hoạt động học tập của sinh viên khoa giáo dục - Học viện Quản lý Giáo Dục
Sinh viên là người làm việc nói chung nhưng vẫn chưa là một lao động độc
lập
trong
xã hội. Họ chỉ là những người đang trong quá trình tích lũy phẩm chất,
tri thức, kỹ
năng vv
Về nghề để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong tương lai. Để có thể thực
hiện được điều
này
thì bản thân người sinh viên phải tự nỗ lực, khắc phục khó
khăn học tập, rèn luyen dưới
sự
hướng dẫn của giảng
viên.
Đặc điểm tâm lý lứa tuổi sinh
viên:
Theo các nhà tâm lý học, sinh viên, những người thuộc lứa tuổi từ 18 đến
25, đã
đạt
đến mức độ trưởng thành cơ bản của con người cả về thể chất lẫn tinh
thần. Chính sự
hoàn

thiện này cho phép sinh viên có thể chọn lựa và thực hiện
những gì có ảnh hưởng đến
sự
phát triển nhân cách của họ một cách độc lập
như chọn nghề sau khi kết thúc học tập

trường phổ thông, xác định lý
tưởng…vv., sinh viên có
khả
năng lập kế hoạch và thực hiện hoạt động một
cách độc lập, có sự biến đổi mạnh mẽ
về
động cơ, về thang giá trị xã hội có liên
quan đến nghề nghiệp, xác định con đường sống
tích
cực, nắm vững nghề nghiệp
tương lai, bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của
cuộc
sống [27,
tr.61].
Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của lứa tuổi sinh viên là sự tự ý thức phát
triển
manh mẽ. Tự ý thức bao gồm: khả năng tự đánh giá, tự kiểm tra, tự nhận thức
về bản
thân.
Sinh viên có khả năng đánh giá, nhìn nhận một cách tương đối toàn diện
về bản thân từ
khả
năng nhận thức, xác định tư tưởng, tình cảm, động cơ, hành vi
cũng như vị trí của bản

thân
trong nhóm, trong tập thể. Chính nhờ sự tự ý thức đó
sinh viên mới có thể tự điều
chỉnh
hành vi, cử chỉ, thái độ của
mình.
Thành phần
quan trọng nhất để tạo nên sự phát triển tự ý thức của sinh viên là
năng
lực tự đánh
giá, thể hiện thái độ đối với bản thân. Tự đánh giá sẽ hình thành nên lòng
tự
trọng
của cá nhân, bảo đảm cho tính tích cực của nhân cách được thể hiện trong đời sống

nhân cũng như trong mối quan hệ liên nhân
cách.
Tự đánh giá phản ánh mức độ thoả mãn của chủ thể về trình độ phát triển

12
các
thuộc
tính nhân cách của cá nhân. Vì thế sự tự đánh giá của cá nhân có ảnh
hưởng rất lớn tới
hiệu
quả của hoạt động, đặc biệt là tự đánh giá về trí tuệ. Nó có
tác dụng rất lớn đối với sự
hình
thành và phát triển các phẩm chất trí tuệ trong quá
trình học tập ở đại học. Nếu sinh viên

tự
đánh gia đặc điểm trí tuệ ở mức thấp
sẽ gây ra những khó khăn trong quá trình học
tập,
ngược lại những đặc điểm trí
tuệ được đánh giá đúng mức cho đến cao là cơ sở tốt cho
hoạt
động học tập ở đại
học.
Điểm đặc biệt khác trong sự phát triển tâm lý của sinh viên chính là sự phát
triển
của
tình cảm nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm, tính độc lập trong các hoạt động ở
mức độ cao.
Sinh
viên dần có lập trường của bản thân một cách vững vàng, có
cách giải quyết vấn đề
chính
xác, đúng đắn và tự chủ hơn. Sự trưởng thành về
mặt xã hội, tâm thế sẵn sang cho việc
lĩnh
hội kinh nghiệm xã hội và kiến thức
nghề nghiệp một cách độc lập được củng
cố.
Bước vào tuổi sinh viên, khi mà việc xác định nghề nghiệp đã rõ ràng,
người
thanh
niên – sinh viên bắt đầu với các hình thưc hoạt động mới. Trong
giai đoạn này, người
sinh

viên phải đối mặt với những khó khăn nhất định cả về
vật chất lẫn tinh thần. Sự thay đổi
của
môi trường, sự thay đổi của phương thức
hoạt động…
Tuổi sinh viên là thời gian quan trọng nhất cho sự phát triển nhân cách,
nhân
cách
nghề nghiệp. Đây là lứa tuổi mà các chức năng tâm lý, đặc biệt là sự
phát triển các năng
lực
trí tuệ diễn ra hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để phát triển nhân
cách toàn diện, điều quan trọng

người sinh viên phải hiểu được tính không lặp
lại trong tính cách của mình Sự phát triển nhân cách của sinh viên diễn ra trong
suốt
quá trình học tập ở đại học – cao đẳng diễn ra với mục đích trở thành một
người chuyên
gia
có trình độ năng lực và đạo đức nghề nghiệp trong tương lai.
Vốn hiểu biết, kinh
nhiệm
sống, kinh nghiệm nghề nghiệp…vv được hoàn thiện
và dần dần nghề nghiệp
hoá.
Tóm lại, tuổi sinh viên là giai đoạn phát triển đạt đến độ trưởng thành cả
về sinh

và tâm lý. Tuy nhiên, sự phát triển nhân cách của sinh viên không


13
phải là một con
đường
bằng phẳng, hoàn toàn thuận lợi mà gặp phải nhiều khó
khăn vướng mắc, đòi hỏi sự nỗ
lực
khắc phục của chính bản thân người sinh viên.
Chính sự tích cực, tự giác của sinh viên sẽ

yếu tố vô cùng quan trọng trong việc
hình thành và phát triển các phẩm chất nhân cách
của
người chuyên gia trong
tương
lai.
Sinh viên khoa Giáo dục - Học Viện Quản lý Giáo dục là những sinh viên
đang theo học tại những trường cao đẳng và đại học. Họ tiến hành hoạt động học tập
và rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ nhằm mục đích trở thành những người có
kiến thức kỹ năng nghề nghiệp trong tương lai. Đặc biệt kiến thức về tâm lý giáo
dục.
Học viện Quản lý giáo dục là cơ sở giáo dục Đại học trực thuộc Bộ GD & ĐT,
được thành lập theo quyết định số 501/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ trên cơ sở Trường Cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo.
Trong đó, với Khoa Giáo dục, năm học 2011 – 2012 cũng là năm thứ năm
thực hiện nhiệm vụ tuyển sinh, đào tạo Cử nhân Tâm lý - giáo dục học. Đến nay, số
lượng sinh viên trong khoa vào khoảng trên 800 sinh viên với chất lượng đầu vào
tương đối cao. Với nội dung chương trình tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản của tâm lý và giáo dục nên không tránh khỏi mang nặng tính lý luận, lý thuyết,
hàn lâm. Do đó, càng đòi hỏi sinh viên trong khoa có thái độ tích cực, chăm chỉ,

tâm huyết, tự học, tự nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức. Tuy vậy, nhiều sinh viên
trong khoa còn chưa yên tâm với ngành học của mình, chưa có định hướng rõ ràng
về nghề nghiệp trong tương lai nên còn gây ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức, thái độ
cũng như năng lực học tập của mỗi sinh viên. Song không vì thế mà chất lượng học
tập của sinh viên Khoa Giáo dục kém đi, mà vượt lên những khó khăn đó, sinh viên
trong khoa luôn được đánh giá là có chất lượng học tập và rèn luyện khá cao.
Để kết quả học tập của sinh viên được nâng cao thì cần có sự tác động, hỗ trợ
của rất nhiều yếu tố. Hiện nay, quan điểm dạy học đang hướng tới việc lấy người
học làm trung tâm, coi người học là chủ thể của quá trình dạy và học. Giảng viên
đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra quá trình học, không làm thay người

14
học. Người học phải tự điều chỉnh quá trình tiếp thu kiến thức, tham khảo mở rộng
kiến thức theo các tài liệu sách báo dưới sự điều khiển sư phạm của giảng viên.
Giảng viên nêu ra vấn đề, sinh viên tập giải quyết vấn đề. Có sự đối thoại giữa giảng
viên và sinh viên, giữa sinh viên với sinh viên. Việc dạy ở đại học là dạy cho sinh
viên cách thức đi tới sự hiểu biết, coi trọng sự khám phá và khai phá trong học thuật;
giúp sinh viên có kỹ năng thực hành và thái độ thực tiễn trong nghề nghiệp; rèn cho
sinh viên phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động, biết
mềm hoá tư duy và tùy cơ ứng biến; dạy phương pháp nghiên cứu đi từ phân tích đối
tượng và môi trường để tìm giải pháp đồng bộ giải quyết những tình huống đa chiều.
Với khối lượng kiến thức giảng dạy đồ sộ như vậy, những hình twhcs và
phương pháp dạy học cũ đã không còn phát huy được cao nhất hiệu quả của nó.
Nhận thức được điều đó, cán bộ giảng viên và sinh viên khoa Giáo dục đã sử dụng
rất nhiều phương pháp, hình thức học tập mới: xê – mi – na, dạy ọc theo dự án, làm
việc nhóm
Với môi trường học tập riêng biệt tại Học viện, các bạn sinh viên trong toàn
khoa cần phải có các kỹ năng học tập thích hợp để tiếp thu có hiệu quả khối lượng
kiến thức đó, đạt mục tiêu đào tạo đề ra. Và một trong những kỹ năng cần thiết trong
học tập đó là kỹ năng làm việc nhóm. Việc sử dụng kỹ năng làm việc nhóm trong

học tập sẽ góp phần tăng cường sự tương tác, trao đổi giữa các sinh viên với nhau,
giúp các bạn sinh viên chiếm lĩnh được các tri thức khoa học, từ đó nâng cao chất
lượng và hiệu quả học tập.
1.2.2 Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
1.2.2.1 Khó khăn tâm

Theo từ điển Tiếng Việt thì “khó khăn” có nghĩa là sự trở ngại làm mất
nhiều
công
sức hoặc thiếu thốn.
Như vậy, từ cách định nghĩa của các từ điển trên ta có thể thấy khi nói đến
khó
khăn
có nghĩa là nói đến những gì cản trở, trở ngại, đòi hỏi nhiều nỗ lực để
vượt
qua.
Trong thực tiễn, khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào con người đều

15
gặp
phải
những khó khăn, làm cho hoạt động chệch hướng, làm giảm đi hiệu quả
mà con người
mong
muốn, thậm chí không đạt hiệu quả hoạt động.
Xuất phát từ quan điểm trên, khó khăn tâm lý trong đề tài này được hiểu
như
sau:
khó khăn tâm lý là những nét tâm lý cá nhân, nảy sinh trong quá
trình hoạt động

của
chu thể, gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình
và hiệu quả hoạt động của
chủ
thể.
1.2.2.2 Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của sinh viên. Nó là một loại hoạt
động
nhận
thức, lao động trí óc căng thẳng có cường độ cao. Đây là một hoạt
động đặc thù giúp
con
người hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách. Do vậy,
trong quá trình tham gia vào
hoạt
động học tập, khi gap những khó khăn, đặc biệt
là những khó khăn về mặt tâm lý, đòi
hỏi
người học phải tích cực, chủ động huy
động tối đa những phẩm chất và năng lực của

nhân để khắc phục nhằm đạt
hiệu quả cao trong hoạt động học tập của
mình.
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là những nét tâm lý cá nhân,
nảy
sinh,
tồn tại trong hoạt động học tập của người sinh viên, gây cản trở, ảnh
hưởng tiêu cực

đến
quá trình và hiệu quả hoạt động học tập của chính người
sinh viên
đó.
Hoạt động học tập ở bậc Cao đẳng – Đại học so với bậc phổ
thông
được
xác định bởi sự khác biệt trong phương pháp học tập, cách thức tổ chức học
tập

trong đó vai trò của người sinh viên là tích cực chủ động dưới sự hướng
dẫn của giáo
viên.
Và như đã trình bày ở các phần trên, chúng ta thấy rằng tính
độc lập cao trong học tập

một trong những đặc điểm của hoạt động học tập của
sinh viên. Chính vì thế, khi gặp
những
khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập
của mình, hầu như người sinh viên cũng tự
mình
tìm cách khắc phục.
Đặc biệt đối với sinh viên năm thứ nhất,
phần
lớn mới kết thúc bậc phổ
thông. Họ bước vào Đại học với nhiều bỡ ngỡ, lạ lẫm. Họ
đồng
thời vừa làm
quen với cuộc sống mới, trường mới, bạn mới, những môn học mới, cách

thức
tổ
chức học tập mới, phương pháp giảng dạy mới. Những vấn đề này, khi học ở

16
phổ
thông,
ít học sinh nào quan tâm hoặc được quan tâm nhắc nhở để chuẩn bị
tâm thế. Do đó ít
nhiều,
hầu hết các bạn sinh viên năm nhất đều gặp phải cảm giác
hẫng hụt, lo lắng. Trong quá
trình
học, bên cạnh những sinh viên có tính thích
ứng cao, dần làm quen với môi trường
mới,
hoạt động học tập đi vào ổn định
thì còn không ít sinh viên gặp nhiều khó khăn trong
việc
tìm cách giải quyết
những van đề này một cách đúng đắn khoa học. Thực tế cho thấy,
sinh
viên năm
thứ nhất thường lấy sự chăm chỉ, cần cù của mình để mong đổi lấy một kết
quả
học tập cao. Chính vì thế, đôi khi ngay cả ở những sinh viên khá giỏi van xảy ra
việc
không
có phương pháp học tập khoa học. Họ thường lấy việc tập trung
nghe giảng trên lớp,

ghi
chép cẩn thận, chăm chỉ tìm những tài liệu có liên
quan theo sự hướng dẫn của giáo
viên,
làm bài tập theo mẫu, hoc thuộc lòng để
thay thế cho việc học tập khoa học, có hệ thống

nắm bản chất vấn đề, một điều
mà theo người nghiên cứu là quan trọng chủ yếu của học
tập
ở đại
học.
1.2.2.3 Biểu hiện của khó khăn tâm lý trong hoat động học
tập
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập được hiểu là những nét tâm lý

nhân
mang tính tiêu cực nảy sinh, tồn tại trong hoạt động học tập của chủ
thể học tập, làm
cho
quá trình học tập bị chệch hướng, bị cản trở, dẫn tới hiệu quả
học tập không cao. Những
khó
khăn tâm lý này có thể được biểu hiện ở những
dạng
sau:
a.

Nhận
thức

Nhận thức là một trong những thành tố quan trọng của đời sống tâm lý
con
người.
Nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự vật hiện tượng, từ đó
bày tỏ thái độ tình
cảm
và có hành vi tương
ứng.
Học tập là một hoạt động khó khăn, phức tạp, do đó, trong quá trình học
tập
không
phải lúc nào sinh viên cung có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nó.
Chính những nhận
thức
chưa đúng, chưa phù hợp này là những khó khăn tâm lý
gây nên những sai lầm trong
hoạt
động học tập của cá nhân. Về những khó khăn
tâm lý biểu hiện ở dang nhận thức chúng
ta
có thể chia làm hai nhóm: nhận thức
về bản thân (chủ thể), là người tiến hành hoạt động
học
tập và nhận thức về đối

17
tượng học
tập.
- Nhận thức về bản thân: Ở đây người nghiên cứu xin nhấn mạnh khía
cạnh

nhận
thức về động cơ học tập trong quá trình nhận thức về bản thân của sinh
viên trong hoạt
động
học
tập.
Động cơ trong tâm lý học, theo nghĩa chung nhất là cái thúc đẩy và quy định
chiều
hướng hoạt động nhằm đạt mục đích nào đó, là những gì thôi thúc họ.
Do đó, việc xác định cho được động cơ học tập cũng chính là xác định được
nhu
cầu
học tập của bản thân sinh viên. Nhu cầu học tập la thành tố quan trọng
của động cơ
hoạt
động, là nguồn gốc tính tích cực học tập, biểu hiện qua tính tự
giác, thái độ nghiêm túc,
luôn
vượt lên mọi khó khăn để giải quyết các nhiệm vụ
học tập, qua đó nâng cao hiệu quả
học
tập.
Trên cơ sở mối quan hệ giữa động cơ
học tập – nhu cầu học tập như phân tích
trên,
thì việc không xác định được động
cơ học tập, tức động cơ học tập không rõ ràng sẽ là
một
khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh

viên.
- Nhận thức về đối tượng học tập: nhận thức ở đây không có nghĩa là khả
năng
nhận
thức nội dung môn học của sinh viên mà người nghiên cứu muốn
nhấn mạnh đến sự
nhận
thức của sinh viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
đối tượng học tập đối với sự
phát
triển của bản thân chủ thể học tập. Như chúng
ta đã biết, học tập của sinh viên luôn gắn
liền
với việc trở thành chuyên gia trong
một lĩnh vực cụ thể ở tương lai, trở thành một
người
hoạt động nghề phục vụ
cho nhu cầu xã hội và chính hoạt động học tập ở đại học sẽ giúp
họ
đạt được mục
tiêu này. Chính vì thế, việc nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí, tầm quan
trọng
của
đoi tượng học tập sẽ giúp sinh viên tích cực học tập và ngược lại sẽ gây ra
việc
sinh
viên thiếu tâm thế học tập, học đối phó, dẫn đến hoạt động học tập kém
hiệu
quả
b. Thái

độ
Đây là thái độ, tình cảm của sinh viên đối với việc học tập. Có thể nói khó
khăn
tâm
lý biểu hiện ở dạng thái độ, tình cảm là việc xuất hiện những xúc cảm
âm tính đối với
hoạt
động học tập như coi thường việc học tập, chán ghét, thờ ơ,

18
lo lắng, sợ hãi, căng thẳng,
chán
nản khi gặp những vấn đề nảy sinh trong học
tập…vv. Khi có những thái độ, tình cảm
tiêu
cực đối với hoạt động học tập thì
việc học tập khó mà có hiệu quả cao được. Ngược lại
nếu
sinh viên nào có thái độ
tích cực đối với việc học, cần cù, chăm chỉ, biết tìm những
biện
pháp tạo ra
hứng thú trong học tập vv thì chắc chắn hiệu quả của hoạt động học tập sẽ
được
nâng
lên.
c.
Hành
vi
Hành vi là “bộ mặt” đời sống tâm lý của con người. Đây là dạng khó khăn tâm


biểu hiện cụ thể, dễ nhận thấy nhất trong hoạt động học tập. Những khó khăn tâm lý về
mặt
hành vi có thể là kết quả của sự chi phối bởi nhận thức và thái độ tình cảm hoặc
do
những
kỹ năng học tập không đủ thuần thục để sử dụng trong quá trình học tập
khiến cho
hoạt
động học tập không có hiệu quả
cao.
Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở
những tri
thức
có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho phù hợp
với điều kiện cho
phép.
Nói cách khác, kỹ năng là “tri thức trong hành động” Do
hoạt động học tập
của
sinh viên mang tính chất nghiên cứu, tự học dưới sự
hướng dẫn của giảng viên là chủ
yếu
nên việc sinh viên phải nắm được hệ
thống kỹ năng học tập hiệu quả là điều rất cần
thiết.
Tóm lại, khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập được biểu hiện thông qua
ba
dạng
cơ bản của đời sống tâm lý con người là: nhận thức, thái độ – tình cảm

và hành vi. Ba
mặt
này có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, do đó, trong
quá trình học tập, muốn tháo
gỡ
khó khăn tâm lý cho sinh viên thì cần chú ý
quan tâm giải quyết cả ba dạng biểu hiện
khó
khăn tâm lý
trên.
1.2.2.4. Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất khoa Giáo dục - Học viện Quản lý Giáo dục.
a. Khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt nhận
thức
Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
biểu
hiện ở nhận thức cũng xuất phát từ hai hướng: nhận thức về bản thân và nhận thức
về
đối
tượng học
tập.

19
- Đối tượng học tập của sinh viên khoa giáo dục khá đa dạng, là một hệ
thống kiến
thức,
kỹ năng, kỹ xảo bao gồm các phần như: các môn khoa học
cơ bản, các môn khoa
học
chuyên ngành, các môn nghiệp vụ , các môn hỗ trợ

(tin học, ngoại ngữ), các
môn
thể dục, giáo dục quốc phòng, các môn học tự
chọn (nữ công, nhạc, hoạ…). Các bộ
môn
này đều có những vị trí, vai trò và
tầm quan trọng như nhau bởi sự đóng góp của nó
trong
quá trình đào tạo nên
một người giáo viên trong tương lai giỏi về chuyên môn và nghiệp
vụ
cũng như
hình thành nhân cách người giáo
viên.
Tuy nhiên, không phải sinh viên năm thứ nhất nào cũng nhận thức được tầm
quan
trọng, vị trí, vai trò của từng bộ môn trong hoạt động học tập. Chính sự
hiểu biết mơ
hồ,
không rõ ràng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các bộ
môn trong chương trình học

một khó khăn tâm lý có thể dẫn đến tình trạng
sinh viên xem thường các bộ môn
không
thuộc chuyên ngành, học lệch, học đối
phó, từ đó dẫn đến hiệu quả hoạt động học tập
không
cao.
Ngoài ra, việc thiếu sự hiểu biết về trường , về ngành nghề Tâm lý

cũng
như thiếu sự hiểu biết về nhiệm vụ học tập và yêu cầu học tập của sinh viên sẽ

những khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt nhận thức của sinh viên trường. Thực
tế
cho thấy, khi chủ thể hiểu biết đầy đu, sâu sắc về đối tượng hoạt động của mình
sẽ giúp
họ
chuẩn bị tâm thế cũng như các điều kiện để thực hiện hoạt động đó.
Ngược lại, khi
thiếu
những hiểu biết cần thiết về đối tượng hoạt động thì chủ thể
sẽ tiến hành hoạt động một
cách
đối phó, thiếu sự tích cực và do đó khó đạt được
hiệu quả
cao.
Bên cạnh đó, sinh viên năm thứ nhất nói chung, sinh viên khoa giáo dục
chuyên ngành Tâm lý Giáo dục năm thứ nhất
nói
riêng, về mặt chủ quan, có thể
gặp một khó khăn tâm lý khác là nhận thức động cơ học
tập
chưa rõ
ràng.
Động cơ học tập của sinh viên khoa giáo dục bao gồm những động cơ có ý
nghĩa cá
nhân
và những động cơ mang ý nghĩa xã hội như: động cơ nhận thức
khoa học, động cơ

nghề
nghiệp, động cơ xã hội, động cơ tự khẳng định mình.
Chính
động cơ học tập đã chuyển hoá nhu cầu học tập, làm nảy sinh tính tích cực

20

×