Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Tiểu luận: Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ - UCP 600

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.61 KB, 38 trang )

1





Tiểu luận

QUY TẮC VÀ THỰC HÀNH THỐNG
NHẤT TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
- UCP 600 –



NHÓM 10 – NGÂN HÀNG 50D

1. Nguyễn Mai Hà Linh
2. Nguyễn Thị Thanh Tâm
3. Hồ Thu Thảo
4. Tống Đình Thông
5. Trần Thị Yến
6. Doãn Tiến Sang

2

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3
I/ TỔNG QUAN VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ VAI TRÒ CỦA UCP 4
1. Sự ra đời của UCP 4
2. Khái niệm 5


3. Vai trò UCP 5
a) Đối với ngân hàng 5
b) Đối với công ty xuất nhập khẩu 6
4. So sánh UCP500 và UCP600 6
II/ CÁC ĐIỂU KHOẢN TRONG UCP 600 8
Điều 1: Áp dụng UCP 8
Điều 2: Định nghĩa 9
Điều 3: Giải thích 12
Điều 4: Tín dụng và hợp đồng 13
Điều 5: Các chứng từ và hàng hóa, dịch vụ hoặc thực hiện 13
Điều 6: Thanh toán, ngày hết hạn và nơi xuất trình 14
Điều 7: Cam kết của Ngân hàng phát hành 15
Điều 8: Cam kết của Ngân hàng xác nhận 16
Điều 10: Sửa đổi tín dụng 19
Điều 11: Tín dụng và sửa đổi được sơ báo và chuyển bằng điện: 21
Điều 12: Sự chỉ định 22
Điều 13: Thoả thuận hoàn trả tiền giữa các Ngân hàng 25
Điều 14: Tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ 27
Điều 15: Xuất trình phù hợp (mới) 32
Điều 16: Chứng từ sai biệt, bỏ qua và thông báo 33
Điều 17 : Chứng từ gốc và bản sao 35




3

LỜI MỞ ĐẦU

Quy tắc và Thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ (tiếng Anh: The Uniform

Customs and Practice for Documentary Credits (viết tắt là UCP) là một bộ các quy
định về việc ban hành và sử dụng thư tín dụng (hay L/C). UCP được các ngân hàng
và các bên tham gia thương mại áp dụng ở trên 175 quốc gia. Khoảng 11-15%
thương mại quốc tế sử dụng thư tín dụng với tổng giá trị hơn 1.000 tỷ USD mỗi
năm.
Về mặt lịch sử, các bên tham gia thương mại, đặc biệt là các ngân hàng, đã phát
triển các kỹ thuật nghiệp vụ và các phương pháp sử dụng thư tín dụng trong tài
chính-thương mại quốc tế. Các thông lệ này đã được Phòng thương mại quốc tế
(ICC) tiêu chuẩn hóa thông qua việc xuất bản UCP năm 1933 và tiếp theo đó là cập
nhật nó qua các năm. ICC đã phát triển và đưa vào khuôn khổ UCP bằng các bản
sửa đổi thường xuyên, bản trước đây là UCP500. Kết quả là nỗ lực quốc tế thành
công nhất trong việc thống nhất các quy định từ trước đến nay, khi UCP đã có hiệu
lực thực tế trên toàn thế giới. Bản sửa đổi mới nhất đã được Ủy ban Ngân hàng của
ICC phê chuẩn tại cuộc họp ở Paris vào ngày 25 tháng 10 năm 2006. Bản sửa đổi
mới này, gọi là UCP600, đã chính thức bắt đầu hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2007.
Những thay đổi mới của UCP600 nhằm giúp cho ngân hàng cũng như các
khách hàng ngày càng được phân rõ trách nhiệm của mình hơn, tránh được những
sự nhầm lẫn và tranh cãi với nhau. Để cụ thể những điều khác biệt trong UCP600,
nhóm chúng tôi đã tìm hiểu và đưa ra những thay đổi chính và cơ bản nhất của
UCP600 so với UCP500 sẽ được trình bày dưới đây.
4

I/ TỔNG QUAN VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ VAI TRÒ CỦA UCP
1. Sự ra đời của UCP
Thương mại quốc tế phát triển kéo theo sự phát triển đa dạng các dịch vụ ngân
hàng làm trung gian cho hoạt động mua bán quốc tế, làm cho tín dụng chứng từ có
cơ sở phát triển và được sử dụng rộng rãi.
Do mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật, tập quán riêng và thể chế chính trị khác
nhau, nên đã cản trở hoạt động của các ngân hàng,mà cụ thể là các giao dịch thanh

toán bằng phương thức Tín dụng chứng từ, từ đó dẫn tới cản trở thương mại quốc
tế. Vì vậy cần có một nguyên tắc nguyên tắc chung để điều chỉnh phương thức
thanh toán bẳng L/C nhằm giảm thiểu các tranh chấp, tăng tính hiệu quả của
phương thức này.
Bản UCP đầu tiên được ICC phát hành từ năm 1933 với mục đích là khắc phục
các xung đột về luật điều chỉnh tín dụng chứng từ giữa các quốc gia bằng việc xây
dựng một bộ quy tắc thống nhất cho hoạt động tín dụng chứng từ. Theo đánh giá
của các chuyên gia, UCP là bộ quy tắc (thông lệ quốc tế) tư nhân thành công nhất
trong lĩnh vực thương mại. Ngày nay, UCP là cơ sở pháp lý quan trọng cho các
giao dịch thương mại trị giá hàng tỷ đô la hàng năm trên toàn thế giới.
Về UCP, có thể xác định một số mốc thời gian như sau:
+ Năm 1929 ICC ấn hành quy chế điều chỉnh giao dịch L/C có từ năm 1929 có
tên gọi là ICC draft the International Rules and Regulations for Commercial
Letters of Credit. (Bản này không còn tồn tại).
+ Năm 1933 ICC thông qua quy tắc UCP đầu tiên có tên gọi Uniform Customs
and Practice for Commercial Letter of Credit, Brochure No. 82.
+ Năm 1951: Bản sửa đổi UCP 151
+ Năm 1962: Bản sửa đổi UCP 222
+ Năm 1974: Bản sửa đổi UCP 290
5

+ Năm 1983: Bản sửa đổi UCP 400
+ Năm 1993: Bản sửa đổi UCP 500
+ Năm 2007: Bản sửa đổi UCP 600
2. Khái niệm
UCP là một tập hợp các nguyên tắc và tập quán quốc tế được Phòng thương mại
quốc tế (ICC) soạn thảo và phát hành, quy định quyền hạn, trách nhiệm của các
bên liên quan trong giao dịch tín dụng chứng từ với điều kiện thư tín dụng có dẫn
chiếu tuân thủ UCP.
Từ khái niệm cho thấy, UCP điều chỉnh không những các ngân hàng, mà là tất

cả các bên liên quan đến giao dịch L/C. Cụ thể:
- Các ngân hàng (NH Phát hành, NH thông báo, NH xác nhận, NH chủ
khoản…)
- Nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu.
- Các bên liên quan khác (nhà chuyên chở, công ty bảo hiểm…)
3. Vai trò UCP
a) Đối với ngân hàng
Có cơ sở chung để hành động nhất quán trong phục vụ thanh toán của doanh
nghiệp khi sử dụng phương thức L\C, khi đóng vai trò Ngân Hàng báo, Ngân hàng
chiết khấu, Ngân Hàng xác nhận… Ngân Hàng phải làm gì ? Phải thực hiện các
chức năng gì ?
Tăng cường mối quan hệ và hiểu biết giữa Ngân Hàng và khách hàng vì trong
UCP – DO chỉ dẫn rõ ràng các nhiệm vụ, chức năng của từng bên.
Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, nhờ đó mà giảm thiểu rủi ro cho
khách hàng khi tổ chức thanh toán qua phương thức L/C vì trong L/C chỉ dẫn rõ
cách thức xử lý các chứng từ có liên quan đến thanh toán.
6

UCP – CD là cẩm nang hướng dẫn mà Ngân Hàng dựa vào đó để dịch vụ khách
hàng tốt nhất.
UCP- CD được xem như là một căn cứ pháp lý ( khi UCP được dẫn chiếu trong
L/C) giúp mau chống tháo gỡ và giải quyết tranh chấp ( nấu có) có liên quan tới
Ngân Hàng.
b) Đối với công ty xuất nhập khẩu
UCP là cẩm nang giúp các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu thực hiện tốt các
nhiệm vụ của mình có liên quan đến thanh toán L/C: xin mở L/C; lập và tham gia
kiểm tra bộ chứng từ thanh toán…
UCP là tài liệu hỗ trợ cho doanh nghiệp giám sát các dịch vụ của ngân hàng đối
với mình.
UCP là căn cứ để doanh nghiệp khiếu nại; kiện (nếu có) đối với ngân hàng nếu

như các nơi này không thực hiện đúng các chỉ dẫn của UCP, gây thiệt hại cho
doanh nghiệp.
4. So sánh UCP500 và UCP600
Có 4 nét thay đổi lớn của UCP600 so với UCP500:
 Thứ nhất: Ngôn ngữ trình bày nội dung các điều khoản của UCP 600 rõ
ràng, dễ hiểu hơn: Đưa vào nhiều điều khoản định nghĩa, giải thích về các bên; các
vấn đề có liên quan đến thanh toán tín dụng chứng từ: Chẳng hạn, điều 2
“Definitions” (Định nghĩa) của UCP 600 đã nêu ra một loạt định nghĩa như:
Advising bank, Applicant, Beneficiary, Complying presentation, Confirmation,
Confirming bank, Credit, Honour, Negotiation, Presentation…
 Thứ hai: UCP600 đã bỏ bớt một số điều khoản so với UCP500. tổng cộng
UCP600 có 39 điều khoản trong đó UCP500 có 49 điều khoản.
7

 Thứ ba: UCP600 đưa vào 3 điều khoản mới hoàn toàn: Điều khoản 2: các
định nghĩa; Điều khoản 3: Các diễn giải; Điều khoản 15: Xuất trình chứng từ phù
hợp
 Thứ tư: Thay đổi lớn thứ tư là việc chỉnh sửa các điều khoản:
- Điều khoản 4: Thư tín dụng so với hợp đồng ( ứng với điều khoản 3
UCP500). UCP600 đưa nội dung mới thể hiện qua mục b: Ngân hàng phát hành
nên ngăn chặn khuynh hướng của ngừơi xin mở thư tín dụng muốn quy định
các bản sao của hợp đồng, hoá đơn báo giá, làm cơ sở để mở thư tín dụng hoặc
tương tự như vậy, là một phần không thể thiếu của thư tín dụng.
- Điều khoản 5: Chứng từ so với hàng hoá-dịch vụ-giao dịch (ứng với điều
khoản 4 UCP500). Ngân hàng chỉ xem xét trên các chứng từ mà không căn cứ
vào hàng hoá, dịch vụ hoặc các giao dịch khác mà các chứng từ đó có liên quan
đến.
- Điều khoản 7: Nghĩa vụ của ngân hàng phát hành (ứng với điều khoản 9a
UCP500)
Nội dung mới thể hiện ở 2 điểm:

+ Hoàn trả tiền cho ngân hàng được chỉ định đã thanh toán hoặc chiết khấu
chứng từ
+ Ngân hàng phát hành bị buộc phải cam kết thanh toán vô điều kiện ngay tại
thời điểm mà họ phát hành thư tín dụng.
- Điều khoản 8: Nghĩa vụ của ngân hàng xác nhận (ứng với điều khoản 9b,c
UCP500)
Có 2 nội dung mới:
+ Hoàn trả tiền cho ngân hàng được chỉ định đã thanh toán hoặc chiết khấu
chứng từ
8

+ Ngân hàng xác nhận bị buộc phải cam kết thanh toán hoặc chiết khấu chứng
từ vô điều kiện ngay tại thời điểm mà họ xác nhận thư tín dụng
- Điều khoản 9: Thông báo thư tín dụng và tu chỉnh ( ứng với điều khoản 7
UCP500)
Có 2 điểm mới:
+ Trước khi thông báo thư tín dụng hoặc tu chỉnh, ngân hàng thông báo phải
tuyên bố rằng: họ đã kiểm tra tính chân thực bên ngoài của thư tín dụng hoặc tu
chỉnh đó và rằng nội dung thông báo phản ánh chính xác các điều kiện, điều
khoản của thư tín dụng hoặc tu chỉnh mà họ đã nhận được.
+ Trách nhiệm của ngân hàng thông báo thứ 2 cũng giống như ngân hàng
thông báo thứ nhất.
- Điều khoản 10: Về tu chỉnh thư tín dụng (ứng với điều khoản 9d UCP500)
Ở điều khoản này có 3 nội dung mới: Điều khoản c,d,e.

II/ CÁC ĐIỂU KHOẢN TRONG UCP 600
Điều 1: Áp dụng UCP
1. Đối tượng
Đối tượng điều chỉnh của UCP 600 là thư tín dụng và thư tín dụng dự phòng:
UCP 600 điều chỉnh Thư tín dụng chỉ khi nào Thư tín dụng được phát hành cho

đến khi kết thúc giá trị hiệu lực của nó.
2. Phạm vi điều chỉnh
Đối với Thư tín dụng dự phòng: UCP 600 chỉ điều chỉnh những nội dung của
Thư tín dụng dự phòng nào tương thich với các quy tắc của UCP 600 còn đối với
những nội dung riêng có của thư tín dụng dự phòng mà UCP không có quy tắc
tương ứng thì sẽ không điều chỉnh.
9

Đối với Thư tín dụng thương mại: các quy tắc cua UCP 600 rằng buộc tất cả
các chủ thể của Thư tín dụng thương mại, trừ khi thư tín dụng thương mại loại trừ
hoặc sửa đổi nó một cách rõ ràng.
Điều kiện áp dụng được thể hiện thư tín dụng phải dẫn chiếu đến tập quán quốc
tế này. Do đặc điểm tập quán quốc tế, việc ban hành các văn bản mới của UCP
không có nghĩa là đồng thời hủy bỏ văn bản UCP cũ. Cho nên tất cả các bản được
phát hành từ trước tới này đều có hiệu lực. Thư tín dụng muốn áp dụng văn bản
nào thì phải dẫn chiều đến bản đó.
Điều 2: Định nghĩa
2.1. Ngân hàng thông báo (Advising Bank)
Ngân hàng phát hành không thể trực tiếp phát hành Thư tín dụng trực tiếp đến
Người thụ hưởng, do mối quan hệ buôn bán giữa hai nước khác nhau nên người
thụ hưởng không thể xác định được sự thật giả của thư tín dụng.
Ngân hàng nào được ngân hàng phát hành ủy quyền để thông báo thư tín dụng
cho Người thụ hưởng thì được gọi là ngân hàng thông báo.
Nếu ngân hàng thông báo không có quan hệ với Người thụ hưởng thì Ngân
hàng thông báo qua một Ngân hàng của Người thụ hưởng, ngân hàn này được gọi
là Ngân hàng thông báo thứ hai.
2.2. Người yêu cầu (Applicant)
Một người yêu cầu Ngân hàng phát hành một thư tín dụng cam kết trả tiền cho
người thụ hưởng nễu như đảm bảo các điều kiện thanh toán cảu thư tín dụng. Đối
với Thư tín dụng thương mại quốc tế, Người yêu cầu là người nhập khẩu hoặc

người được người nhập khẩu ủy quyền, trong trường hợp Thư tín dụng quá cảnh
người yêu cầu có thể là ngân hàng nước nhập khẩu (ngan hàng yêu cầu).
2.3. Ngày làm việc cuả ngân hàng (Banking Day)
Tại sao phải có khái niệm này?
10

Vì hai lý do chính sau:
Một là, là căn cứ để xác định thời gian để quyết định thanh toán cho người thụ
hưởng từ ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận hoặc ngân hàng chỉ định.
Hai là, bên cạnh những quốc gia có thời gian làm việc của ngân hàng theo giờ
hành chính từ 6 đến 8h một ngày, cũng có những quốc gia cho phép ngân hàng làm
việc 24/24. Cho nên cần có định nghĩa rõ ràng về ngày làm việc cuả ngân hàng để
so sánh và thực hiện thống nhẩt.
Theo định nghĩa trong UCP 600 ngày làm việc của ngân hàng phải hội đủ các
yếu tố sau:
- Phải là một ngày (a day) không phải là phần của một ngày
- Phải do một ngân hàng thực hiện có liên quan (revelant bank) đến công
việc mà công việc đó đòi hỏi phải tính toán đến ngày làm việc cảu nó.
Ngân hàng có liên quan phải thương xuyên mở cửa để thực hiện các công việc
có liên quan đó.
2.4. Người thụ hưởng (beneficiary) là người được hưởng các quyền lwoij và
thực hiện các nghĩa vụ trong thư tín dụng.
Người thụ hưởng là một người đích danh, có người thụ hưởng thứ nhât người
thụ hưởng thứ 2 không có người thụ hưởng thứ 3.
2.5 Xuất trình phù hợp (complying presentation)
Theo UCP 600 xuất trình phù hợp bao gồm 3 yêu cầu:
- Phù hợp với các điều kiện và điều khoản trong Thư tín dụng
- Phù hợp với các điều khoản có thể áp dụng trong UCP 600
- Phù hợp với Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tê ISBP 681
2.6 Xác nhận (confirmation)

11

Người thụ hưởng không tin tưởng vào cam kết của ngân hàng phát hành của
nước người nhập khẩu, do đó họ yêu cầu người nhập khẩu phải đề nghị Ngẫn hàng
phát hành tìm thêm một ngân hàng khác cùng cam kết trả tiền.
Xác nhận là sự cam kết chắc chắn, không thể hủy bỏ của một ngân hàng khác
(Ngân hàng xác nhận) thêm vào sự cam kêt chắc chắn, không thể hủy bỏ của ngân
hàng phát hành sẽ thanh toán cho người thụ hưởng, nếu Người thụ hưởng xuất
trình phù hợp. Xác nhận còn là một cam kết độc lập.
2.7 Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank)
Theo yêu cầu của Ngân hàng phát hành cũng đứng ra cam kết thanh toán với
Ngân hàng phát hành.
Ngân hàng xác nhận có thể là Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng thứ 3.
Ngân hàng xác nhận là người xuất trình đòi tiền ngân hàng phát hành, sau khi
đã thanh toán hoặc thương lượng thanh toán cho Người thụ hưởng.
2.8 Thanh toán (Honour)
Trả ngay khi xuất trình nếu tín dụng có giá trị thanh thanh toán ngay. Trả tiền
ngay trong một Thư tín dụng được ghi như sau: Available with issuing bank or
confirming bank or nominated bank by payment at sight.
Cam kết trả tiền sau và trả tiền khi đáo hạn nếu tín dụng có giá trị thanh toán
sau và được thể hiện trong một Thư tín dụng như sau: Available with issuing bank
or confirming bank or nominated bank by deferred bank.
Chấp nhận hối phiếu đòi nợ do người thụ hưởng ký phát nếu TD có giá trị thanh
toán chấp nhận. được thể hiện trong một the tín dụng: Available with issuing bank
or confirming bank or nominated bank by acceptance.
2.9. Thương lượng thanh toán (Negotiation)
Thương lượng thanh toán (Negotiation) là việc các ngân hàng chỉ định mua các
hối phiếu đòi nợ (ký phát đòi tiền ngân hàng khác không phải ngân hàng chỉ định)
12


và/ hoặc các chứng từ khi xuất trình phù hợp, bằng cách trả tiền trước hoặc ứng
tiền trước cho người thụ hưởng vào hoặc trước ngày làm việc mà vào ngày đó tiền
phải được hoàn trả tiền cho ngân hàng chỉ định.
Sau khi người xuất khẩu giao hàng, lập các chứng từ chuyển hàng, ký phát hối
phiếu đòi tiền ngân hàng phát hành và ủy thác cho ngân hàng thông báo xuất trình
chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành.
2.10 Ngân hàng chỉ định (Nominated Bank)
Ngân hàng chỉ định là một Ngân hàng do Ngân hàng phát hành ủy quyền thực
hiện một việc nào đó phát sinh từ việc thực hiện một Thư tín dụng. Ngân hàng chỉ
định là một ngân hàng đích danh có trụ sở tại một quốc gia không phải là quốc gia
cuả Ngân hàng phát hành.
Ngân hàng phát hành ủy quyền cho Ngân hàng chỉ định các vấn đề sau: thanh
toán cho người thụ hưởng, thương lượng thanh toán, chấp nhận thanh toán…
2.11 Xuất trình (Presentation)
Là việc chuyển giao chứng từ từ người thụ hưởng cho ngân hàng phát hành
hoặc ngân hàng xác nhận hoạc ngan hàng chỉ định nhằm mục đích thanh toán hoặc
thương lượng thanh toán.
Điều 3: Giải thích
 Thư tín dụng là một cam kết không thể huỷ bỏ (credit irrevocable) ngân
hàng phát hành cam kết không thể huỷ bỏ việc thực hiên nghĩa vụ thanh toán cho
người thụ hưởng trong thời gian hiệu lực của thư tín dụng. một thư tín dụng không
ghi là irrecocable vẫn đươc hiểu là không thể huỷ bỏ.
 Một L/C không quy định là hủy ngang hay không hủy ngang thì luôn được
coi như là không thể hủy ngang.
 Một chứng từ có thể được ký bằng nhiều hình thức như: bằng tay, bằng
FAX, con dấu, đục lỗ…
13

 Các chi nhánh của một ngân hàng ở các nước khác nhau được coi là các
ngân hàng độc lập.


Điều 4: Tín dụng và hợp đồng
Hợp đồng mua bán là cơ sở hình thành Thư tín dụng thể hiện qua các mặt sau:
Hợp đồg hình thành trước, Thư tín dụng hình thành sau
Hợp đồng có quy định thanh toán theo phương thức Thư tín dụng thì Thư tins
dụng mới được hình thành
Nội dung hợp đồng mua bán là cơ sở để người yêu cầu dựa vào đó để taọ lập
đơn yêu cầu phát hành Thư tín dụng
Ngân hàng phát hành phải dựa vào hợp đông mua bán để kiểm tra và chấp nhận
đơn yêu cầu phát hành Thư tín dụng
Thư tín dụng sau khi ra đời lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán:
Chủ thể của hợp đồng là người mua và người bán còn chủ thể của Thư tín dụng
là Ngân hàng phát hành và Người thụ hưởng.
Khách thể của hợp đồng và thư tín dụng hoàn toàn khác nhau.
Ngân hàng không liên quan đến hoặc bị ràng buộc bởi hợp đồng, thaamk chí
ngay cả khi Thư tín dụng dẫn chiếu trong trường hợp này ngân hàng không kiểm
tra các hợp đồng trên
Việc thanh toán hoặc thương lượng thanh toán không phụ thuộc vào các khiếu
nại hoặc biện hộ của người yêu cầu phát sinh từ quan hệ của người yêu cầu với
ngân hàng phát hanh hoặc người thụ hưởng
Điều 5: Các chứng từ và hàng hóa, dịch vụ hoặc thực hiện
Đối tượng giao dịch giữa Ngân hàng và người thụ hưởng là bộ chứng từ chứ
không phải là hàng hóa.
14

Chứng từ thường bao gồm 2 loại: chứng từ thương mại (nhóm chứng từ về hàng
hóa) và chứng từ tài chính (hối phiêu, hóa đơn)
Trong UCP 500 quy định chủ thể giao dịch là tất cả các bên hữu quan, bao gồm
ngân hàng phát hành, người thụ hưởng, người yêu cầu, ngân hàng chỉ định. Còn
trong UCP 600 bao gồm các ngân hàng và người thụ hưởng không có người yêu

cầu.
Điều 6: Thanh toán, ngày hết hạn và nơi xuất trình
Một thư tín dụng phải quy định rõ có giá trị thanh toán tại ngân hàng nào hoặc
tại bất cứ ngân hàng nào. Một thư tín dụng có giá trị thanh toán tại ngân hàng chỉ
định thì cũng có giá trị thanh toán tại ngân hàng phát hành.
Quy định rõ về loại thư tín dụng: thư tín dụng trả ngay, thư tín dụng trẩ chậm,
thư tín dụng chấp nhận, thư tín dụng thương lượng thanh toán.
Một thư tín dụng sẽ không được phát hành có giá trị thanh toán một hối phiếu
ký phát đòi tiền người yêu cầu.
Địa điểm xuất trình là nơi được ghi rõ trong thư tín dụngmà tại nơi đó người thụ
hưởng xuất trình chứng từ đến địa điểm đó để đòi tiền ngân hàng phát hành hoặc
ngân hàng xác nhận hoặc ngân hàng chỉ định.
Việc xác định địa điểm xuất trình quy định trong thư tín dụng có thể dựa vào
những quy định sau:
- Thư tín dụng có giá trị thanh toán hoặc thương lượng thanh toán tại ngân
hàng nào thì địa điểm xuất trình tại ngân hàng đó.
- Thư tín dụng có giá trị tại bất cứ ngân hàng nào mà nơi đó người thụ hưởng
xuất trình yêu cầu thanh toán.
- Nếu không quy định gì thì cần phải đọc kỹ lời văn của thư tín dụng để xác
định địa điểm xuất trình. Căn cứ vào mục ghi date and place of expiry.

15

Điều 7: Cam kết của Ngân hàng phát hành
Điều 7 xuất phát từ điều 9a trong UCP 500, nội dung của nó quy định về trách
nhiệm thanh toán của NH phát hành.
1. Trách nhiệm đối với người thụ hưởng
7(a). Với điều kiện là các chứng từ quy định được xuất trình tới NHđCĐ hoặc
tới NHPH và việc xuất trình chứng từ đó là phù hợp, thì NH phát hành phải thanh
toán…”

Vì bản chất của L/C là giao dịch bằng chứng từ, nên nếu như nhà xuất khẩu
xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp thì NHPH phải thanh toán vô điều kiện
cho nhà xuất khẩu, mặc dù trên thực tế hàng hoá có thể không được giao hoặc
được giao không hoàn toàn đúng như ghi trên chứng từ. Tức là việc thanh toán L/C
không hề căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá, nếu hàng hoá không khớp với
chứng từ thì hai bên mua bán trực tiếp giải quyết với nhau tren cơ sở hợp đồng
mua bán, không liên quan đến NH.
- Trả tiền ngay, trả tiền về sau hoặc chấp nhận với NH phát hành
- Trả tiền ngay với một NHđCĐ và NHđCĐ đó không trả tiền
- Trả tiền sau với một NHđCĐ và NHđCĐ đó không cam kết trả tiền hoặc đã cam
kết nhưng không trả tiền khi đáo hạn
- Chấp nhận với một NHđCĐ và NHđCĐ đó không chấp nhận hối phiếu kí phát
đòi tiền nó hoặc đã chấp nhận nhưng không trả tiền khi đáo hạn
- Thương lượng với một NHđCĐ và NHđCĐ đó không thương lượng thanh toán
7(b). NH phát hành bị ràng buộc không thể huỷ bỏ đối với việc thanh toán kể từ
khi ngân hàng đó phát hành tín dụng.
NH không được nêu lý do từ chối thanh toán nếu người bán đã tuân thủ đầy đủ
các điều kiện của L/C. Đây là cam kết thanh toán vô điều kiện của NH phát hành
đối với người thụ hưởng.
16

2. Trách nhiệm đối với NH được chỉ định
Điều 7(c):
- NH phát hành cam kết hoàn trả tiền cho một NHđCĐ mà NH này đã thanh
toán hoặc đã thương lượng thanh toán cho một xuất trình phù hợp và đã chuyển
giao các chứng từ cho NH phát hành.
- Việc hoàn trả số tiền của một xuất trình phù hợp thuộc một tín dụng có giá
trị thanh toán bằng chấp nhận hoặc trả tiền sau vào lúc đáo hạn, dù cho NHđCĐ
đã trả tiền trước hoặc đã mua trước khi đến hạn.
Đây là một điểm mới của UCP 600 so với UCP 500, đấy là cam kết của NHPH

trả tiền cho NHđCĐ vào thời điểm đáo hạn của L/C thanh toán chậm hoặc được
chiết khấu cho dù NHđCĐ đã trả tiền trước hay đã mua lại trước. Điều này cùng
với điều 12 sẽ thể hiện rõ ràng hơn về trách nhiệm của NHPH, bảo vệ quyền lợi
của NHđCĐ trong trường hợp thực hiện trả trước hoặc mua lại những nghĩa vụ trả
tiền của chính họ.
- Cam kết của NHPH về việc hoàn trả cho NHđCĐ là độc lập với cam kết của
NHPH đối với người thụ hưởng
NHPH thực hiện hai cam kết thanh toán độc lập đối với NHđCĐ và người thụ
hưởng. Điều này thực chất một lần nữa nhấn mạnh lại trách nhiệm thanh toán của
NHPH đối với người thụ hưởng.

Điều 8: Cam kết của Ngân hàng xác nhận
Trường hợp người xuất khẩu muốn có sự đảm bảo chắc chắn được thanh toán
thì một ngân hàng có thể đứng ra xác nhận L/C theo yêu cầu của NHPH, ngân hàng
này được gọi là NH xác nhận. Về tính logic thì trách nhiệm trả tiền cho người thụ
hưởng trước hết thuộc về NHPH, nếu NH này không trả tiền thì NHXN phải trả
thay. Việc xác nhận của NHXN sẽ tạo nên một cam kết chắc chắn, không huỷ
17

ngang, bổ sung vào cam kết của NHPH. Có thể nói, NHXN đóng vai trò là NHPH
thứ 2 (second Issuing bank).
Do đó, điều 8 quy định trách nhiệm của NHXN tương tự với các cam kết của
NHPH. Ngoài ra, điều 8(a)(ii) bổ sung NHXN phải “thương lượng thanh toán miễn
truy đòi nếu tín dụng có giá trị thương lượng thanh toán tại NHXN”, nghĩa là phải
mua lại/chiết khấu các hối phiếu kí phát đòi tiền nó, cho dù có được NH phát hành
hoàn trả hay không. Khoản này cùng với khoản 8(b) khẳng định trách nhiệm thanh
toán vô điều kiện của NHXN.
Như vậy ta có thể thấy trách nhiệm của NHXN đối với người hưởng lợi cũng
gần tương tự như của NHPH, tuy nhiên NHXN còn phải có trách nhiệm với NHPH
về nghĩa vụ trả tiền L/C. Do vậy rủi ro hoàn toàn thuộc về NHXN và quyết định

cuối cùng có nên xác nhận L/C hay không là tuỳ thuộc vào khả năng phân tích của
NH. Cũng vì vậy mà muốn được xác nhận thì NHPH phải trả phí xác nhận rất cao
và thưởng phải đặt cọc, nhiều khi mức đặt cọc lên tới 100% giá trị của L/C.
Khoản (d) điều 8 cũng quy định quyền từ chối xác nhận L/C của NHXN: “Nếu
một NH được NHPH uỷ quyền hoặc yêu cầu xác nhận một tín dụng nhưng NH này
không sẵn sàng làm việc đó, thì nó phải thông báo cho NHPH ngay và có thể thông
báo tín dụng mà không có xác nhận.”

Điều 9: Thông báo tín dụng và các sửa đổi
 Tín dụng và bất cứ sửa đổi nào có thể được thông báo cho người thụ hưởng
thông qua ngân hàng thông báo (NHTB).
 NHTB này có thể sử dụng dịch vụ của 1 ngân hàng khác - NHTB thứ 2 - để
thông báo tín dụng và các sửa đổi cho người thụ hưởng.
o Ngân hàng sử dụng dịch vụ của NHTB hoặc NHTB thứ 2 để thông báo tín
dụng thì cũng phải sử dụng các NH đó để thông báo các sửa đổi của tín dụng.
18

 NHTB (nhưng không phải là ngân hàng xác nhận NHXN) thông báo tín
dụng và các sửa đổi mà không cam kết về thanh toán hoặc thương lượng thanh
toán.
 Khi NH chỉ thông báo mà không có cam kết về thanh toán thì NH thông báo
chỉ là người đưa thư.
 Quy trình thông báo tín dụng và sửa đổi tín dụng:
Để đảm bảo an toàn cho người thụ hưởng tránh nhận phải một L/C giả hay một
sửa đổi không chân thật, gây hậu quả nghiêm trọng, thì nhất thiết L/C phải được
thông báo qua 1 ngân hàng – ngân hàng thông báo NHTB. NHTB luôn phải do
NHPH chỉ định và thường là ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu và là chi
nhánh hay đại lý của NHPH. Mục đích chuyển L/C cho nhà xuất khẩu thông qua
NHTB là để xác minh tính chân thật bề ngoài của L/C hay của sửa đổi. Khi nhận
được yêu cầu thông báo tín dụng L/C hay sửa đổi tín dụng, NHTB:

 Hoặc là quyết định không làm việc này thì phải thông báo không chậm trễ
cho ngân hàng mà từ đó đã nhận được tín dụng, sửa đổi hoặc thông báo;
 Hoặc là xác minh tính chân thật bề ngoài của L/C hoặc sửa đổi L/C trước khi
thông báo cho nhà xuất khẩu;
Bằng việc thông báo tín dụng hoặc sửa đổi, NHTB (hoặc NHTB thứ 2) cho biết
rằng tự nó đã thỏa mãn về tính chân thật bề ngoài của tín dụng hoặc sửa đổi và
rằng thông báo đã phản ánh chính xác các điều kiện và điều khoản của tín dụng
hoặc sửa đổi đã nhận.
Trong trường hợp tự nó (NHTB) không thể thỏa mãn tính chân thật bề ngoài
của L/C, sửa đổi hoặc thông báo nhưng vẫn quyết định thông báo tín dụng hoặc
sửa đổi, thì nó phải thông báo cho người thụ hưởng hoặc NHTB thứ hai biết rằng
nó đã không thể thỏa mãn tính chân thật bề ngoài của tín dụng, sửa đổi hoặc của
thông báo.

19

Điều 10: Sửa đổi tín dụng
a) Các quy định:
 Trừ khi có quy định khác tại điều 38, một tín dụng không thể cũng như
không thể hủy bỏ mà không có sự thỏa thuận của NHPH, NHXN (nếu có), và của
người thụ hưởng.
 NHPH bị ràng buộc không thể hủy bỏ bởi các sửa đổi kể từ khi ngân hàng
phát hành sửa đổi.
 NHXN có thể xác nhận thêm cả sửa đổi và sẽ bị ràng buộc không thể hủy bỏ
kể từ khi thông báo sửa đổi. Tuy vậy, NHXN có thể lựa chọn thông báo sửa đổi mà
không xác nhận thêm và nếu vậy, nó phải thông báo không chậm trễ cho NHPH và
thông báo cho người thụ hưởng trong thông báo sửa đổi của mình.
 Đối với người thụ hưởng:
- Người thụ hưởng phải thông báo chấp nhận hay từ chối sửa đổi.
- Các điều kiện và điều khoản của tín dụng gốc (Original credit) (hoặc một tín

dụng đã đưa vào các sửa đổi được chấp nhận trước đó) sẽ vẫn còn nguyên hiệu
lực đói với người thụ hưởng cho đến khi người thụ hưởng truyền đạt chấp nhận
sửa đổi của mình đến ngân hàng đã thông báo sửa đổi đó.
- Nếu người thụ hưởng không thông báo như thế thì một xuất trình phù hợp
với tín dụng và với bất cứ sửa đổi nào chưa được chấp nhận, sẽ được coi như là
thông báo chấp nhận sửa đổi của người thụ hưởng. Tín dụng sẽ được sửa đổi từ
thời điểm đó.
- Chấp nhận một phần sửa đổi là không được phép và sẽ được coi như là
thông báo từ chối sửa đổi.
 Ngân hàng thông báo sửa đổi phải thông báo cho ngân hàng mà từ đó nó
nhận được sửa đổi về việc chấp nhận hay từ chối sửa đổi.
20

 Một điều khoản trong sửa đổi quy định rằng sửa đổi sẽ có hiệu lực trừ khi
người thụ hưởng từ chối trong một thời gian nhất định sẽ không được xem
xét đến.
b) Tình huống:
LC gốc quy định thời hạn xuất trình là 1/7/X. Tuy nhiên, ngày 21/6/X, NHPH
có sửa đổi L/C với hai nội dung sau:
(i) Thời hạn xuất trình: 30/7/X; và
(ii) Chứng từ yêu cầu xuất trình bổ sung: giấy chứng nhận xuất xứ Certificate of
origin C/O
Ngân hàng thông báo đã thông báo sửa đổi cho người thụ hưởng.
[?] Người thụ hưởng có được thanh toán trong các trường hợp sau:
i. Trường hợp 1:
- Người thụ hưởng chưa thông báo chấp nhận hay từ chối sửa đổi;
- Ngày 10/7/X, người thụ hưởng xuất trình chỉ thiếu C/O.
ii. Trường hợp 2:
- Người thụ hưởng đã thông báo chấp nhận sửa đổi đến ngân hàng thông báo
nhưng ngân hàng này chưa thông báo cho NHPH về việc người thụ hưởng đã chấp

nhận;
- Ngày 10/7, người thụ hưởng xuất trình đủ cả C/O.
Giải quyết:
a) Người thụ hưởng bị từ chối thanh toán do:
Người thụ hưởng chưa thông báo chấp nhận/từ chối sửa đổi trên thì những điều
khoản cũ vẫn còn hiệu lực (theo khoản c điều 10). Tuy nhiên, người thụ hưởng
xuất trình vào ngày 10/7 nhưng khi xuất trình lại thiếu C/O, tức là chỉ phù hợp với
1 trong 2 nội dung của sửa đổi.Theo điều 10c, việc xuất trình này được coi là thông
21

báo chấp nhận nhưng chỉ chấp nhận từng phần sửa đổi.Theo điều10e, chấp nhận
từng phần là không được phép và sẽ được coi như thông báo từ chối sửa đổi.
Như vây, những điều khoản cũ vẫn còn hiệu lực.việc xuất trình của người thụ
hưởng là chậm so với thời hạn xuất trình cũ. Vì vậy, việc xuất trình không phù
hợp, người thụ hưởng bị từ chối thanh toán.
b) Người thụ hưởng vẫn được thanh toán vì:
- Người thụ hưởng đã thông báo chấp nhận nên sửa đổi trên là có hiệu lực.
Việc xuất trình của người thụ hưởng phù hợp với sửa đổi đã có hiệu lực nên
được nhận định là phù hợp.
- UCP600 chỉ quy định trách nhiệm thông báo của NHTB về việc chấp
nhận/từ chối sửa đổi của người thụ hưởng mà không quy định nếu NHTB
chưa thông báo cho NHPH thì sửa đổi chưa có hiệu lực.
Vì vậy, người thụ hưởng đã xuất trình phù hợp nên được thanh toán.Còn
việc chậm trễ trong thông báo cho NHPH của NHTB thì thuộc về trách
nhiệm của NHTB.

Điều 11: Tín dụng và sửa đổi được sơ báo và chuyển bằng điện:
a) Về hình thức thông báo: 2 hình thức chủ yếu là điện chuyển
(Teletransmission) và xác nhận bằng thư (The mail confirmation).
Một tín dụng hoặc sửa đổi được truyền đi một cách chân thực sẽ được coi như

là tín dụng hoặc sửa đổi có giá trị thực hiện, và bất cứ xác nhận bằng thư gửi sau
này sẽ không được xem xét đến.
Nếu điện chuyển ghi “chi tiết đầy đủ gửi sau” (hoặc các từ tương tự) hoặc ghi
rằng xác nhận bằng thư sẽ là tín dụng hoặc sửa đổi có giá trị thực hiện, thì điện
chuyển sẽ không được coi là tín dụng hoặc sửa đổi có giá trị thực hiện. NHPH sau
22

đó phải phát hành không chậm trễ tín dụng hoặc sửa đổi có giá trị thực hiện với các
điều khoản không mâu thuẫn với điện chuyển.
b) Thông báo sơ bộ về việc phát hành một tín dụng hoặc sửa đổi (“tiền thông
báo”) sẽ chỉ được gửi đi nếu NHPH đã sẵn sàng phát hành tín dụng hoặc sửa đổi có
giá trị thực hiện. Một NHPH đã gửi thông báo sơ bộ có nghĩa vụ không thể hủy bỏ
phát hành không chậm trễ tín dụng, hoặc sửa đổi có giá tị thực hiện với các điều
khoản không mâu thuẫn với thông báo sơ bộ.
Điều 12: Sự chỉ định
Điều 12 quy định về sự chỉ định (nomination) của NH phát hành đối với một
NH khác (NH được chỉ định). Điều 12 có 3 khoản a, b, c, trong đó khoản a và c
xuất phát và tương tự như điều 10c trong UCP 500.
Điều 12 (a) quy định: Trừ phi NH chỉ định là NH xác nhận, việc uỷ quyền
thanh toán, thương lượng thanh toán không ràng buộc thêm nghĩa vụ đối với NH
chỉ định về thanh toán hoặc thương lượng thanh toán, trừ khi có sự đồng ý rõ ràng
của NH chỉ định và được truyền đạt đến người thụ hưởng.
Như vậy, mặc dù được uỷ quyền bởi NHPH nhưng NHĐCĐ có quyền từ chối
chiết khấu hối phiếu và/hoặc chứng từ xuất trình theo LC.
Về hình thức chiết khấu, chiết khấu có 2 loại, gồm: chiết khấu truy đòi
(negotiation with recourse) và chiết khấu miễn truy đòi (negotiation without
recourse). Chiết khấu truy đòi cho phép NHĐCĐ có quyền yêu cầu người hưởng
lợi hoàn trả lại số tiền đã được NHĐCĐ trả trước cộng với lãi phát sinh trong
trường hợp NHĐCĐ không nhận được tiền hoàn trả từ NHPH hoặc NHXN (nếu
có). Chiết khấu miễn truy đòi là việc NHCK mua đứt hối phiếu và/hoặc chứng từ

và chịu rủi ro trong trường hợp NHCK không nhận được tiền hoàn trả từ NHPH
hoặc NHXN (nếu có).
23

Định nghĩa tại Điều 2 UCP 600 không đề cập đến hình thức chiết khấu: có truy
đòi và chiết khấu miễn truy đòi. Tuy nhiên, trên cơ sở quy định tại Điều 12 (a)
UCP 600, có thể hiểu rằng NHĐCĐ hoàn toàn có quyền quyết định đồng ý hoặc từ
chối chiết khấu cũng như hoàn toàn có quyền lựa chọn hình thức chiết khấu: truy
đòi hoặc miễn truy đòi. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu như NHĐCĐ đồng thời
cũng là NHXN thì NHĐCĐ có nghĩa vụ phải chiết khấu và phải chiết khấu miễn
truy đòi khi chứng từ phù hợp được xuất trình (Điều 8 (a)(ii) UCP 600 và Điều
12(a) UCP 600).
Điều 12 (c) quy định: Việc tiếp nhận hoặc kiểm tra và gửi chứng từ của NH chỉ
định mà không phải là NH xác nhận, không làm cho ngân hàng chỉ định đó có
trách nhiệm thanh toán hoặc thương lượng thanh toán, đồng thời cũng không phải
là việc thanh toán hoặc thương lượng thanh toán
Điều 12 (a) và 12 (c) đã xác nhận quyền độc lập của NH được chỉ định trong
nghĩa vụ thanh toán hoặc thương lượng thanh toán.
Điểm đáng chú ý hơn cả trong điều 12 là khoản b, với những điểm cải tiến và rõ
ràng hơn nhất định so với UCP 500.
Điều khoản 12b: “Bằng cách chỉ định một ngân hàng chấp nhận một hối phiếu
hoặc thực hiện cam kết trả tiền sau, ngân hàng phát hành đã uỷ quyền cho ngân
hàng chỉ định đó trả tiền trước, hoặc mua một hối phiếu đã được chấp nhận
hoặc thực hiện cam kết trả tiền sau của NH chỉ định đó.”
Hay trong nguyên gốc tiếng Anh “By nominating a bank to accept a draft or
incur a deferred payment undertaking, an issuing bank authorizes that nominated
bank to prepay or purchase a draft accepted or a deferred payment undertaking
incurred by that nominated bank.”
24


Điều khoản này đã quy định cụ thể hơn quyền của NH được chỉ định khi được
uỷ quyền thanh toán hoặc thương lượng thanh toán, đó là trả tiền trước (chiết khấu)
hoặc mua lại hối phiếu hay cam kết trả chậm của chính mình.
UCP 500 không quy định rõ về việc NHĐCĐ có thể chiết khấu cam kết trả
chậm, đặc biệt là cam kết trả chậm của chính mình hay không, do vậy, trước đây
đã xảy ra nhiều cuộc tranh chấp liên quan đến vấn đề này, điển hình là vụ kiện kinh
điển giữa Banco Santander và Banque Paribas.
Về diễn biến vụ Banco Santander, có thể tóm tắt như sau: Khi nhận được chứng
từ phù hợp với L/C trả chậm (deferred payment L/C) được phát hành bởi Banque
Parisbas, Banco Santander với tư cách là ngân hàng xác nhận (NHXN - NHĐCĐ)
đã phát hành cam kết trả tiền cho người hưởng lợi khi đáo hạn, đồng thời thực hiện
chiết khấu cam kết trả chậm của chính mình, tức là trả tiền cho người thụ hưởng
trước khi đáo hạn. Chứng từ sau đó được gửi đến Banque Paribas. Tuy nhiên,
Banque Paribas phát hiện một trong những chứng từ là giả mạo và thông báo ngay
lập tức cho Banco Santander về vấn đề này và từ chối hoàn trả tiền cho Banco
Santander (cho dù Điều 15 UCP 500 quy định ngân hàng được miễn trách đối với
sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của các chứng từ).
Vụ tranh chấp được xử bởi Toà án Thương mại rồi được phúc thẩm bởi Toà
Phúc thẩm nước Anh nhưng kết quả vẫn y án: Banco Santander thua kiện, tức là
không nhận được tiền hoàn trả của Banque Paribas. Toà án nước Anh lập luận rằng
với L/C trả chậm không có hối phiếu, Banque Parisbas chỉ uỷ quyền cho Banco
Santander cam kết trả tiền có kỳ hạn khi chứng từ xuất trình phù hợp với L/C trả
chậm và thực hiện trả tiền khi đáo hạn chứ không uỷ quyền cho Banco Santander
chiết khấu cam kết trả chậm của mình.
Quyết định của toà án nước Anh ngay lập tức đã trở thành một chủ đề thu hút
nhiều chuyên gia quốc tế tham gia tranh luận kéo dài nhiều năm và người ta vẫn
25

trông đợi UCP 600 sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào. Điều 7 (a)(vi) UCP 600
quy định “Việc hoàn trả số tiền trên chứng từ được xuất trình theo L/C chấp nhận

hoặc L/C trả chậm sẽ được thực hiện khi đáo hạn, cho dù NHĐCĐ đã trả trước
hoặc mua lại trước khi đáo hạn hay không. Cam kết của NHPH về việc hoàn trả
cho NHĐCĐ độc lập với cam kết của NHPH đối với người thụ hưởng”.
Điều 12 (b) UCP 600 quy định: “Sự chỉ định bởi NHPH cho NHĐCĐ chấp
nhận hối phiếu hoặc cam kết trả chậm bao gồm cả sự uỷ quyền cho NHĐCĐ được
thực hiện trả trước hoặc mua lại hối phiếu đã được chấp nhận hoặc cam kết trả
chậm của NHĐCĐ.”
Quy định tại Điều 7 và Điều 12 UCP 600 đã xác lập rõ những quyền độc lập
của các NHĐCĐ; sự chỉ định của NHPH về việc chấp nhận hối phiếu hoặc cam kết
trả chậm sẽ bao gồm cả sự uỷ quyền cho NHĐCĐ được thực hiện trả trước hoặc
mua lại những nghĩa vụ trả tiền của chính họ; và quyền được nhận tiền hoàn trả của
họ không bị ảnh hưởng bởi những hành động trả trước hay mua lại hối phiếu đã
được chấp nhận hoặc cam kết trả tiền của chính họ.
Thật tiếc cho Banco Santander! Nếu như UCP 600 có hiệu lực sớm hơn thì có lẽ
toà án nước Anh sẽ có một phán quyết hoàn ngược lại. Nhưng cũng có thể nói lại
rằng nếu như không có vụ Banco Santander thì chưa chắc UCP 600 có Điều 7 và
Điều 12 như hiện nay.

Điều 13: Thoả thuận hoàn trả tiền giữa các Ngân hàng
Một L/C có thể có chỉ định hoặc không chỉ định Ngân hàng Hoàn trả
(Reimbursing Bank).
- Trong giao dịch L/C không chỉ định Ngân hàng Hoàn trả, Ngân hàng được chỉ
định gửi yêu cầu hoàn trả đến Ngân hàng Phát hành để được hoàn trả.

×