Tải bản đầy đủ (.docx) (215 trang)

Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 215 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MAI THỊ NAM

CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TỊA
XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2022


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MAI THỊ NAM

CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TỊA
XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 9380106

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS. TRỊNH ĐỨC THẢO


2. TS. LÊ HỮU THỂ

HÀ NỘI - 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
theo đúng quy định về trình bày luận án.
Tác giả

Mai Thị Nam


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1
9
9

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và câu
hỏi nghiên cứu

42


Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM
SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TỊA XÉT
XỬ HÌNH SỰ THEO U CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

46

2.1. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của cải cách tư pháp về chất lượng tranh
tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tịa
xét
xử hình sự
46
2.2. Tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng của kiểm
sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tịa xét xử hình sự
theo
u cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
68
2.3. Tranh tụng của kiểm sát viên (cơng tố viên) tại phiên tịa xét xử hình sự một
số nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam
79
Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT
VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TỊA XÉT XỬ
HÌNH SỰ THEO U CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

88
88

3.1. Khái quát tình hình đội ngũ kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện
3.2. Ưu điểm và nguyên nhân trong đánh giá chất lượng tranh tụng của kiểm sát
viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự 91
3.3. Hạn chế và nguyên nhân trong đánh giá chất lượng tranh tụng của kiểm sát

viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự
107
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG
TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI
CÁCH TƯ
PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm bảo đảm chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm
sát nhân dân cấp huyện tại phiên tịa xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải
cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay
4.2. Giải pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm
sát nhân dân cấp huyện tại phiên tịa xét xử hình sự đáp ứng u cầu cải
cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay

120

120

131
155

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


158


PHỤ LỤC

174


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCTP

:

Cải cách tư pháp

ĐCSVN

:

Đảng Cộng sản Việt Nam

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

HTND

:


Hội thẩm nhân dân

KSND

:

Kiểm sát nhân dân

KSV

:

Kiểm sát viên

QLNN

:

Quyền lực nhà nước

TTHS

:

Tố tụng hình sự

TAND

:


Tịa án nhân dân

VKS

:

Viện Kiểm sát

VKSND

:

Viện Kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

:

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

XXHS

:


Xét xử hình sự

XXST

:

Xét xử sơ thẩm


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước, cải cách tư pháp (CCTP) được xác định
là một nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhiệm vụ CCTP đã được Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đề ra
trong nhiều văn kiện; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian
tới”; Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về “Chiến lược CCTP đến năm 2020”; nhằm hướng tới mục tiêu “Xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động
tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực
cao” [10]. Khẳng định những giá trị đúng đắn về CCTP, Bộ Chính trị đã ban
hành Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 “về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW”; Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 “về tiếp tục thực

hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW”; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
ĐCSVN xác định chủ trương “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược hoàn thiện nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045,
trong đó có Chiến lược pháp luật và CCTP” [26]. Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII khẳng định một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm
kỳ Đại hội XIII có nội dung “CCTP, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã
hội” [26]. Thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ CCTP, nhiều vấn đề được đặt ra, trong
đó “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên toà, bảo
đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác...” [8]; “bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết
quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là
khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp” [9]; “nâng cao chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tịa án nhân dân, Viện Kiểm
sát nhân dân…” [26].


2
Thể chế hóa đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng; Nhà nước đã ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng
hình sự (TTHS) và tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp.
Trong đó, Hiến pháp năm 2013 [84] và Bộ luật TTHS năm 2015 chính thức ghi
nhận vấn đề tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm [86].
Với quy định này, không chỉ khẳng định tầm quan trọng của một nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động TTHS mà còn đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi đối với KSV
trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ “thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” [84]; góp phần “bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [84].
Trong TTHS, Kiểm sát viên có vai trò rất quan trọng, thể hiện ở tất cả các

giai đoạn tố tụng, từ khi khởi tố vụ án hình sự đến giai đoạn thi hành bản án;
trong đó, tại phiên tịa xét xử hình sự (XXHS), KSV đóng vai trò là người buộc
tội. Quan điểm buộc tội của Viện Kiểm sát (VKS) được thể hiện bằng Bản cáo
trạng và KSV là người trực tiếp bảo vệ cáo trạng tại phiên tòa. Để thực hiện
nhiệm vụ này, KSV phải nắm chắc tồn bộ tiến trình điều tra vụ án, những tài
liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đặc biệt là chuẩn bị và tiến hành các hoạt động
tranh tụng có hiệu quả tại phiên tịa. Điều đó khơng chỉ giúp cho KSV hoàn
thành các nhiệm vụ đặt ra trong q trình tố tụng mà quan trọng hơn cịn khẳng
định KSV, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) nói riêng, các cơ quan tư pháp nói
chung thực sự là chỗ dựa, niềm tin của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, pháp
luật, pháp chế XHCN, bảo đảm quyền con người, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Như vậy, hoạt động tranh tụng diễn ra
tại phiên tòa XXHS phản ánh yêu cầu bảo đảm tính cơng bằng, khách quan, cơng
khai, dân chủ giữa người tham gia tố tụng với VKS, Kiểm sát viên; đồng thời là
căn cứ quan trọng, không thể thiếu để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm
cơ sở để Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bản án đúng người, đúng tội. Đặc biệt,
tinh thần cốt lõi của CCTP là nhằm nâng cao chất lượng xét xử và bảo vệ cơng
lý; vì thế, tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đóng vai trị quyết
định đối với chất lượng xét xử, bảo vệ công lý. Ở cấp xét


3
xử cấp huyện, phần lớn các vụ án hình sự được xét xử ở cấp này, nếu chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện được bảo đảm thì các vụ án xét
xử thỏa đáng, rõ ràng, sẽ giảm kháng cáo, kháng nghị và giảm tải công việc cho
VKSND và Tòa án nhân dân (TAND) cấp trên. Như vậy, có thể khẳng định, chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tốt hơn thì chất lượng xét
xử và công lý được bảo đảm tốt hơn.
Trong thời gian qua, nhìn chung đội ngũ Kiểm sát viên VKSND cấp
huyện đã thể hiện tinh thần trách nhiệm trong thực hiện hoạt động tranh tụng tại

phiên tịa, tích cực rèn luyện kỹ năng tranh tụng, khẳng định vị thế của KSV và
cơ quan VKS; góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa. Tuy nhiên,
trong q trình thực hiện nhiệm vụ vẫn còn nhiều hạn chế như: “nhận thức của
các cán bộ tư pháp về chủ trương tăng cường tranh tụng chưa nhất quán… Các
phiên tòa thực hiện chủ trương tranh tụng không nhiều, chưa đúng định hướng,
hiệu quả chưa cao” [5]; “tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá của
CCTP nhưng chưa được nghiên cứu xây dựng quy trình, cơ chế cụ thể;… việc
tranh tụng cịn hình thức, hiệu quả chưa cao” [5]; “hoạt động tranh tụng của KSV
tại phiên tịa hình sự cịn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng phiên tòa và
chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử án hình sự” [130].
Điều này do nhiều nguyên nhân như đội ngũ KSV chưa có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn, chưa được chuẩn bị đầy đủ về kỹ năng tranh tụng; sự ảnh hưởng của
thói quen và kinh nghiệm tham gia phiên tịa theo mơ hình, quy định cũ; trình
độ, năng lực của một bộ phận KSV chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai
đoạn mới… Bên cạnh đó, mặc dù vấn đề tranh tụng đã được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu có hệ thống, tồn diện hơn kể từ sau khi có các nghị quyết
của Đảng về tranh tụng, nhưng nhiều nội dung liên quan đến tranh tụng cịn có
những ý kiến khác nhau hoặc chưa được làm rõ, đặc biệt là việc nghiên cứu về
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện theo u cầu CCTP
là vấn đề cịn có nhiều cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau. Rõ ràng, trong khoa
học pháp lý của Việt Nam còn thiếu nghiên cứu quy mô về chất lượng tranh tụng
của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện nói riêng và chất lượng tranh tụng tại
phiên tịa hình sự nói chung.


4
Trong giai đoạn cách mạng mới, những yêu cầu đặt ra đối với Kiểm sát
viên VKSND cấp huyện ngày càng cao, địi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ,
tồn diện về vấn đề này, góp phần khắc phục hạn chế “CCTP chưa đáp ứng đầy
đủ yêu cầu phát triển đất nước” [26]; theo định hướng của ĐCSVN “chú trọng

lãnh đạo đổi mới nâng cao chất lượng…CCTP” [26]; xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; hiện thực hóa
quyết tâm của Đảng, quan điểm của Nhà nước đối với nhiệm vụ CCTP; bảo đảm
sự phù hợp của CCTP với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
yêu cầu, đòi hỏi hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Xuất phát từ các lý do
trên, nghiên cứu sinh lựa chọn thực hiện đề tài luận án tiến sĩ luật học “Chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại
phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận án đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu
CCTP ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án trên
cơ sở khái quát tình hình nghiên cứu ở trong nước, nước ngồi và xác định
những vấn đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án.
- Phân tích cơ sở lý luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên
VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam (bao
gồm phân tích khái niệm và các vấn đề lý luận có liên quan khác), đồng thời, làm
rõ vấn đề chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND (Viện Cơng tố) tại
phiên tịa XXHS một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam.
- Nghiên cứu, khảo sát, làm rõ thực trạng chất lượng tranh tụng của Kiểm
sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam
hiện nay; từ đó chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng
này.


5

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất lượng tranh tụng của Kiểm sát
viên VKSND cấp huyện tại phiên tịa XXHS (dưới góc độ chun ngành Lý luận
và lịch sử nhà nước và pháp luật).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi chủ thể: Đề tài luận án nghiên cứu chất lượng tranh tụng của chủ
thể là Kiểm sát viên VKSND cấp huyện.
- Phạm vi hoạt động tranh tụng: Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp
huyện tại phiên tịa XXHS; trong đó, tập trung vào hoạt động tranh tụng của
Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tịa xét xử sơ thẩm (XXST) hình sự,
trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện tranh tụng tại
phiên tòa XXHS của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện.
- Phạm vi thời gian: Đề tài luận án nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực
trạng chất lượng tranh tụng của chủ thể là Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại
phiên tòa XXHS trong khoảng thời gian 2011 - 2021 (tập trung giai đoạn từ khi
Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của ĐCSVN, Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, về CCTP, hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước và
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lô-gic, lịch sử,

hệ


6
thống, điều tra xã hội học… Các phương pháp được sử dụng phù hợp với mục
đích và nội dung nghiên cứu.
Trong đó, một số phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng trong các
chương của luận án như sau:
Phương pháp phân tích được sử dụng ở cả bốn chương, khi trình bày, luận
giải về tình hình tổng quan (chương 1), cơ sở lý luận (chương 2), đánh giá thực
trạng (chương 3), trình bày quan điểm và giải pháp (chương 4) về vấn đề chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo
yêu cầu CCTP ở Việt Nam.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đánh giá chung về những cơng
trình nghiên cứu có liên quan, để khái quát hóa các vấn đề đã nêu trong các cơng
trình nghiên cứu (chương 1); tổng hợp các quan điểm của Đảng về CCTP, chức
năng, nhiệm vụ của VKS theo quy định của pháp luật (chương 2); tập hợp các
hoạt động tranh tụng, kết quả, hạn chế trong chất lượng tranh tụng của Kiểm sát
viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS (chương 3).
Phương pháp thống kê được sử dụng khi liệt kê các cơng trình nghiên cứu
theo những trật tự lơ-gic nhất định, theo nhóm vấn đề và trật tự thời gian
(chương 1); khi xác định những nội dung đánh giá thực trạng đội ngũ Kiểm sát
viên VKSND cấp huyện (chương 3).
Phương pháp so sánh được sử dụng khi đối chiếu nội dung trong các cơng
trình nghiên cứu có liên quan để tìm ra những điểm giống và khác nhau trong
việc nhận định, đánh giá các vấn đề, từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của các
cơng trình nghiên cứu về các nội dung liên quan mật thiết tới đề tài (chương 1);
khi lập luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND (Viện Công tố)
một số nước trên thế giới, để rút ra giá trị tham khảo cho Việt Nam (chương 2).
Phương pháp lô-gic được sử dụng làm rõ các khái niệm thành phần để từ

đó xây dựng các khái niệm tổng quan (chương 2); đánh giá chất lượng tranh tụng
của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo hệ thống các tiêu
chí đã xác định (chương 3).
Phương pháp hệ thống được sử dụng khi khẳng định vấn đề mà đề tài luận
án nghiên cứu là một vấn đề trong tổng thể các nhiệm vụ CCTP, nhằm xác định
các


7
yêu cầu của CCTP đối với chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp
huyện tại phiên tòa XXHS; các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng được đặt
trong mối quan hệ với các điều kiện bảo đảm về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy Nhà nước (chương 2).
Phương pháp lịch sử được sử dụng khi đánh giá các vấn đề theo tiến trình
lịch sử nhất định, gắn với những giai đoạn lịch sử và trình tự thời gian phù hợp.
Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng khi thu thập thông tin, làm
sáng tỏ các căn cứ đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tịa XXHS;
thơng qua việc phát phiếu khảo sát, xử lý số liệu thống kê; đối với các đối tượng
khảo sát gồm cán bộ VKSND các cấp, luật sư trong tổ chức hành nghề luật sư,
cán bộ TAND các cấp và Hội thẩm nhân dân (HTND) tham gia XXHS cấp
huyện. Số phiếu phát ra để thực hiện phương pháp điều tra xã hội học 1.500
phiếu, làm cơ sở đưa ra những đánh giá khách quan, toàn diện về các vấn đề có
liên quan. Các nội dung điều tra tập trung vào những vấn đề thuộc về tiêu chí
đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện; dự kiến
các quan điểm bảo đảm và các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tịa hình sự hiện nay.
5. Những điểm mới của đề tài luận án
Luận án là một cơng trình có tính chất chun khảo nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng tranh tụng của

Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt
Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu đề tài sẽ mang lại một số điểm mới, có giá trị
khoa học như sau:
- Kế thừa, tổng hợp, đánh giá về các cơng trình nghiên cứu khoa học có liên
quan để xây dựng, bổ sung, hoàn thiện lý luận chất lượng tranh tụng của Kiểm
sát viên VKSND cấp huyện trong XXHS. Trong đó, xây dựng khái niệm, phân
tích đặc điểm, xác lập các tiêu chí đánh giá và các yếu tố đảm bảo chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP
ở Việt Nam.
- Chỉ ra được một số giá trị tham khảo cho việc bảo đảm chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS ở Việt Nam
qua việc


8
nghiên cứu mơ hình tranh tụng của KSV (Cơng tố viên) tại phiên tòa XXHS một
số nước trên thế giới.
- Xây dựng được các quan điểm, đề xuất hệ thống giải pháp bao gồm nhóm
giải pháp chung và nhóm giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm chất lượng tranh tụng
của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu của
CCTP ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án góp phần hồn thiện cơ sở lý luận về chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS trên cơ sở bám sát các yêu
cầu CCTP.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận án có giá trị tham khảo, giúp các cấp ủy Đảng trong tổ chức
VKSND chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của Kiểm sát viên VKSND cấp
huyện, từ đó mở rộng tới việc nâng cao chất lượng hoạt động của KSV - chức

danh quan trọng trong thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Luận án là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập tại các trường đào
tạo pháp luật, đào tạo KSV.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm mở đầu, 4 chương, 10 tiết, kết luận, danh mục các cơng trình
nghiên cứu của tác giả đã được cơng bố có liên quan đến đề tài luận án, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN
CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngồi
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
- Các cơng trình nghiên cứu về tranh tụng, chất lượng tranh tụng trong tố
tụng hình sự
Tranh tụng - một trong những thành tựu pháp lý - đã trở thành đề tài nghiên
cứu từ rất sớm của các nhà khoa học trên thế giới. Ở Việt Nam, nghiên cứu về
tranh tụng và chất lượng tranh tụng trong TTHS nhận được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học, thể hiện quan điểm trong các cơng trình khoa học như đề
tài, sách, tài liệu, kỷ yếu hội thảo, luận án, luận văn, bài báo khoa học. Tiêu biểu
là các cơng trình nghiên cứu sau:
+ Về đề tài khoa học các cấp:
Đối với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, đáng chú ý có hai đề tài:

Đề tài “Vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam theo tinh thần CCTP” do
Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm, năm 2008 [101]. Với mục tiêu đưa ra các giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh tụng trong TTHS Việt
Nam, tác giả đã làm rõ các vấn đề cơ bản về hệ thống tố tụng tranh tụng, hệ
thống tố tụng thẩm vấn; thực trạng vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam;
nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và thực hiện tranh tụng theo tinh thần
CCTP. Trong phần giải pháp, tác giả đã làm rõ những quan điểm của Đảng về
CCTP; một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng trong TTHS;
một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về tranh tụng trong Bộ luật TTHS.
Đề tài “Xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS mới theo Hiến
pháp năm 2013” do Nguyễn Mai Bộ làm chủ nhiệm, năm 2015 [17]. Tác giả
khẳng định giá trị to lớn của hoạt động tranh tụng trong việc giải quyết vụ án,
bảo vệ sự công bằng và lợi ích của các chủ thể. Trong xã hội hiện đại, hệ thống
tư pháp hình


10
sự của các nước dù được tổ chức theo mô hình tố tụng nào thì trong đó ít nhiều
đều có yếu tố tranh tụng. Tác giả nhận định:
Thực tiễn hoạt động TTHS ở nước ta cho thấy công cuộc CCTP đã
triển khai nhiều năm nhưng chưa tạo được sự chuyển biến cần thiết.
Chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa cịn yếu kém và mang tính
hình thức, kết quả xét xử chủ yếu vẫn trong tình trạng “án tại hồ sơ”,
việc truy cứu oan người vô tội vẫn thường xuyên xảy ra… [17, tr.9].
Nhận định trên cho thấy việc nghiên cứu xây dựng nguyên tắc tranh tụng
trong Bộ luật TTHS mới theo Hiến pháp năm 2013 là nhu cầu cấp thiết về lý
luận và thực tiễn. Do đó, đề tài được nghiên cứu đã làm rõ nhiều vấn đề có giá trị
tham khảo rất lớn như: Cơ sở lý luận về xây dựng nguyên tắc tranh tụng, cơ sở
pháp lý và thực tiễn của nguyên tắc này trong Bộ luật TTHS sửa đổi, xây dựng
các quy định của Bộ luật TTHS mới liên quan đến tranh tụng.

Ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học cơ sở, có các đề tài:
Đề tài “Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo
tinh thần CCTP” do Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ nhiệm, năm 2009 [93]. Trong
Chuyên đề 5 “Nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên toà XXST hình sự”; tác giả
Đỗ Thị Phượng đã nêu quan điểm tranh tụng trong TTHS là một quá trình nhằm
xác định sự thật khách quan của vụ án. Theo quan điểm này, tính khách quan thể
hiện qua việc các chủ thể tham gia tố tụng có quyền đưa ra những tài liệu, căn cứ
để làm rõ vấn đề và chứng minh nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
trước HĐXX theo các trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Tác giả
cũng trình bày về khái niệm, đặc điểm của việc tranh tụng tại phiên tòa XXST
hình sự; quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về tranh tụng tại phiên toà sơ
thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này; một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tranh tụng tại phiên toà XXST vụ án hình sự. Trong các giải pháp, tác
giả phân tích về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật
TTHS hiện hành về tranh tụng; một số yêu cầu đối với các chủ thể chính tham
gia tranh tụng.
Đề tài “Bảo đảm quyền con người trong TTHS Việt Nam hiện nay - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” do Lê Minh Thắng làm chủ nhiệm, năm 2010 [99].
Trong đề tài này, mặc dù tác giả không trực tiếp nghiên cứu về tranh tụng, nhưng


11
trong nhiều nội dung của đề tài có đề cập đến vấn đề tranh tụng như: Tác giả nêu
rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai là “xét hỏi, tranh
luận tại phiên tòa còn nhiều thiếu sót, phiến diện, khơng đầy đủ dẫn đến việc ra
bản án trái pháp luật” [99]; khi đề xuất hoàn thiện pháp luật, nguyên tắc tranh
tụng được đưa lên vị trí đầu tiên “Sự tồn tại của nguyên tắc tranh tụng là sự phản
ánh khách quan trong hoạt động TTHS và cần thiết phải được bổ sung vào hệ
thống các nguyên tắc của TTHS” [99].
Đề tài “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 liên quan đến

tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm - Cơ sở lý luận và thực tiễn” do Nguyễn Đức
Mai làm chủ nhiệm, năm 2011 [62]. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận của tranh
tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự với các nội dung khái niệm, bản chất, chức
năng của các chủ thể trong tranh tụng; thực trạng quy định của Bộ luật TTHS về
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm; định hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật
TTHS liên quan đến hoạt động tranh tụng. Tác giả thừa nhận việc quy định tranh
tụng là một nguyên tắc và đưa ra một số đề xuất sửa đổi có liên quan.
+ Về sách, tài liệu:
Trong cuốn sách “CCTP ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền” của tác giả Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí [18], có một số bài viết
về vấn đề tranh tụng trong TTHS như: Bài viết“Tố tụng tranh tụng và vấn đề
CCTP ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền” của tác giả
Nguyễn Ngọc Chí [20]. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến đặc điểm của tố
tụng tranh tụng, có sự phân tích những ưu điểm và hạn chế của loại hình tố tụng
này; phân tích một số nội dung có thể tiếp thu phù hợp với TTHS nước ta để cải
cách nền tư pháp ở Việt Nam đạt hiệu quả. Bài viết “Bảo đảm quyền con người
trong TTHS - yêu cầu của pháp luật quốc tế và của CCTP ở Việt Nam” của tác
giả Đào Trí Úc [118]. Với nhận định: Một trong những định hướng chủ đạo của
CCTP ở Việt Nam hiện nay là hoàn thiện các quy định pháp luật TTHS nhằm
bảo đảm một cách hợp pháp, vững chắc, đầy đủ các quyền con người theo chuẩn
mực quốc tế. Một trong những bảo đảm cụ thể, trực tiếp cho các quyền con
người trong hoạt động tư pháp nói chung, TTHS nói riêng là bảo đảm tranh tụng
và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp. Từ đó, tác giả khẳng định: “để


12
đáp ứng yêu cầu CCTP và tính pháp quyền của nền tư pháp, TTHS Việt Nam
cần lấy các nguyên tắc tranh tụng, ngun tắc suy đốn vơ tội làm hai nguyên tắc
trụ cột” [118, tr.176].

Trong cuốn sách “Những nội dung mới trong Bộ luật TTHS năm 2015” do
Nguyễn Hịa Bình chủ biên, có bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và
việc cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS năm 2015” của Trần Cơng Phàn [70, tr.86102], trong đó tác giả đã nêu rõ tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân
loại, không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển
dân chủ và tiến bộ của TTHS; tranh tụng được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc và
nguyên tắc này cũng đã được cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS năm 2015.
Cuốn sách “Sổ tay luật sư. Tập 2 Kỹ năng hành nghề luật sư trong TTHS,
hành chính, dân sự” của Liên đồn luật sư Việt Nam và Jica pháp luật 2020, năm
2017 [58], có nội dung “Ngun tắc suy đốn vơ tội, ngun tắc tranh tụng trong
xét xử” đã phân tích các quy định của pháp luật về vấn đề tranh tụng; việc cụ thể
hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của khoản 5 Điều 103 Hiến
pháp năm 2013; nhấn mạnh “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết
quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Đặc biệt,
tài liệu nêu rõ ý nghĩa của hoạt động tranh tụng trong TTHS đối với việc đổi
mới, hồn thiện mơ hình TTHS Việt Nam cũng như yêu cầu của công cuộc
CCTP.
+ Về kỷ yếu hội thảo:
Trong Kỷ yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt
Nam”, do Viện chính sách cơng và pháp luật - Liên hiệp các hội khoa học và kỹ
thuật Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, Học viện Khu vực IV - Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức tại An Giang ngày 30/5/2014, có
hai bài viết về vấn đề tranh tụng.
Bài viết thứ nhất là “Tranh tụng tại phiên tòa theo Hiến pháp năm 2013”
của Trần Thị Hương [45, tr.290-295] đã bàn về các mơ hình tố tụng trên thế giới,
khẳng định ưu điểm của mơ hình tố tụng tranh tụng, thừa nhận “nhiều nước trên
thế giới hiện nay đang xây dựng mơ hình tố tụng đan xen, phát huy những ưu
điểm của cả mơ hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn trong quá trình giải
quyết vụ án”



13
[45, tr.291] và khẳng định: “… tranh tụng tại phiên toà xét xử, coi đây là khâu
đột phá trong CCTP nhằm bảo đảm bảo cho phán quyết của Toà án khách quan,
chính xác đúng với sự thật của vụ án hình sự, vừa khơng bỏ lọt tội phạm, vừa
khơng để xảy ra các trường hợp oan sai” [45, tr.292]. Tác giả khẳng định ý nghĩa
của việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013; yêu cầu
triển khai thi hành đối với các cơ quan Nhà nước. Trong đó, khi tham gia phiên
tịa xét xử vụ án hình sự, KSV đồng thời thực hiện hai chức năng: Thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát xét xử nên có những yêu cầu, đòi hỏi riêng trong thực
hiện nguyên tắc này.
Bài viết thứ hai là “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng: Nguyên tắc hiến định
quan trọng trong việc đổi mới Bộ luật TTHS Việt Nam” của La Hồng [39, tr.296299] đã nêu rõ “Tranh tụng được hiểu theo ba nghĩa, là: Q trình tranh tụng,
ngun tắc tranh tụng và mơ hình tranh tụng” [39, tr.297]; đồng thời đi sâu trình
bày về nguyên tắc tranh tụng theo quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm
2013, kiến nghị các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng. Đáng chú ý, tác
giả cũng thừa nhận, ở giai đoạn xét xử, phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện
đầy đủ nhất bản chất q trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Tranh tụng
thể hiện rõ nét trong diễn biến phiên tịa. Tuy vậy, thực tiễn cho thấy có nhiều
hạn chế trong hoạt động tranh tụng ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng, như “vị
cơng tố viên đích thực đại diện cho Nhà nước buộc tội bị cáo tại phiên tịa thì lại
thụ động trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình, im lặng và khơng
tranh tụng, bởi lẽ, cơng việc này đã có Tịa “giúp sức” [39, tr.298-299].
+ Về các luận án (chuyên ngành Luật):
Luận án “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Hiển, năm 2010 [37] đã trình bày những nội
dung của vấn đề nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam trong ba chương:
Những vấn đề chung của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS (chương 1); sự thể
hiện của nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn
tranh tụng trong TTHS Việt Nam (chương 2); phương hướng xây dựng và áp

dụng nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam (chương 3). Tác giả
đã có sự trình bày khá chi tiết về các vấn đề có liên quan, đặc biệt là đưa ra quan
điểm khẳng định tranh tụng trong TTHS không phải là một thủ tục, một giai
đoạn và đồng nhất với tranh luận


14
tại phiên tịa; khơng phải là một q trình trong TTHS, mơ hình TTHS, mà là
một ngun tắc của TTHS: “những tư tưởng chỉ đạo và định hướng cho hoạt
động TTHS, tồn tại khách quan và chi phối toàn bộ quá trình tố tụng…” [37].
Tác giả cũng làm rõ ý nghĩa, vị trí, mối quan hệ của nguyên tắc tranh tụng với
một số nguyên tắc khác của TTHS cũng như sự thể hiện ngun tắc này trong
mơ hình tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi; đánh giá thực trạng tranh tụng
trong TTHS Việt Nam theo từng giai đoạn lịch sử; phân tích yêu cầu và đề xuất
thể chế hóa nguyên tắc này trong pháp luật TTHS Việt Nam và các biện pháp
bảo đảm.
Luận án “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thu Hiền, năm 2011 [35]. Tác giả đã trình bày
nhiều nội dung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng như khái niệm tranh
tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTHS; những ưu điểm vượt trội của tố tụng
tranh tụng; các yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS; các nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tồ án; các giải pháp xây dựng nguyên tắc tranh
tụng. Trong đó, tác giả khẳng định nguyên tắc tranh tụng là sự định hướng cho
các chủ thể trong mọi hoạt động, hành vi tố tụng theo luật định; tranh tụng cần
được tranh cãi bình đẳng bằng lý lẽ dựa trên những chứng cứ, quy định pháp luật
nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa; đồng thời là cơ sở
để Tòa án độc lập với chức năng tài phán ra phán quyết áp dụng pháp luật có
hiệu lực thi hành kết thúc quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tố tụng tranh tụng
có ưu điểm vượt trội, là cơ chế để phát huy tinh thần dân chủ trong hoạt động tố
tụng. Tác giả khẳng định các tiền đề tư tưởng pháp lý về nguyên tắc tranh tụng

chính là các nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tịa án. Ngun tắc tranh
tụng trong TTHS cần phải đáp ứng các yêu cầu: Bảo đảm đạt được nội dung của
nguyên tắc tranh tụng; phải xuất phát từ mục tiêu CCTP, gắn với xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN vì con người; phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam, bảo đảm được tính tối cao của luật nói chung và của TTHS nói riêng. Tác
giả cũng nêu lên các giải pháp xây dựng nguyên tắc tranh tụng trên cả khía cạnh
thực tiễn và pháp lý.
Luận án “Mơ hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng”
của Nguyễn Thị Thủy, năm 2014 [104]. Luận án có mục đích nghiên cứu một
cách tồn diện, có hệ thống về mặt lý luận, đánh giá chính xác, khách quan mơ
hình TTHS



×