Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển - Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.56 KB, 88 trang )

BẢNG LIỆT KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT.
KBNNVN Kho Bạc Nhà Nước Việt Nam.
NSNN Ngân sách Nhà Nước.
NHNN Ngân hàng Nhà Nước.
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán.
TTCK Thị trường chứng khoán.
TPCP Trái phiếu Chính phủ
XDTQ Xây dựng tổ quốc.
CNH – HĐH Công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
ĐTPT Đầu tư phát triển.
GT-TL Giao thông – thuỷ lợi.
KT-XH Kinh tế xã hội.
BHXH Bảo hiểm xã hội.
XHCN Xã hội chủ nghĩa.
HASTC Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
hjjk HANOI STOCK TRADING CENTER
LỜI MỞ ĐẦU.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, để thực hiện chủ trương khai thác tối đa các
nguồn vốn trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển, Chính phủ đã rất chú trọng
đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trong đó có việc phát hành để thực
hiện các dự án, chương trình trọng điểm của quốc gia, tạo đà tăng trưởng kinh
tế cả nước.
Việc huy động vốn thông qua phát hành TPCP cho các dự án, chương
trình trọng điểm của quốc gia, từ năm 2004 trở lại đây đã mang lại những ý
nghĩa thiết thực, khẳng định hướng đi đúng đắn trong chiến lược tạo vốn phục
vụ phát KTXH
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, để tiếp tục bổ sung và
hoàn thiện các công cụ quản lý nhà nước về tài chính, tạo điều kiện phát triển
thị trường vốn, thị trường chứng khoán, bảo đảm đủ nguồn lực tài chính cần


thiết phục vụ nhu cầu và mục tiêu phát triển KTXH của các địa phương và
nhu cầu vốn thực hiện các dự án kinh tế trọng điểm, các chương trình mục
tiêu của Chính phủ trong giai đoạn sắp tới, đòi hỏi công tác huy động vốn
dưới hình thức phát hành TPCP cho các công trình, dự án trọng điểm phải tiếp
tục cải tiến và hoàn thiện.
Xuất phát từ tình hình trên, học viên đã lựa chọn đề tài: "Phát hành trái
phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển - Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn 2004 - 2008" để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Chuyên đề nghiên cứu tổng thể về hoạt động huy động vốn bằng việc
phát hành TPCP: khái niệm, đặc điểm, trình tự, thủ tục, công tác quản lý, cơ
chế phát hành, hình thức phát hành,… từ đó làm sáng tỏ được sự cần thiết
khách quan của việc huy động vốn cho đầu tư phát triển.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn bằng TPCP ở Việt Nam giai
đoạn 2004 – 2008 để từ đó tìm ra những mặt được, những hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế đó.
Trên cơ sở lý luận chung và thực trạng huy động vốn cho ĐTPT bằng
cách phát hành TPCP ở Việt Nam, chuyên đề đã đề xuất một số giải pháp
nhằm tăng cường huy động vốn cho ĐTPT bằng cách phát hành TPCP ở Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề tập trung vào hoạt động phát hành
TPCP cho ĐTPT tại Việt Nam, đặc biệt là trái phiếu giao thông – thuỷ lợi và
công trái giáo dục. Chuyên đề dựa vào thực trạng phát hành TPCP trong giai
đoạn 2004 – 2008 để phân tích, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phù hợp để
tăng cường khả năng huy động vốn trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là lĩnh vực huy động vốn trong nước cho
ĐTPT thông qua phát hành TPCP tại KBNN ở Việt Nam giai đoạn 2004 –
2008.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là phương
pháp duy vật biện chứng, hệ thống hoá,… theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lê nin. Kết hợp với các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: thu thập
thông tin, phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp,…để nghiên cứu.
5. Kết cấu chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề chia thành 3 chương:
Chương 1 - Lý luận chung về việc phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư
phát triển.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
Chương 2 - Thực trạng phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển
tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2004 – 2008.
Chương 3 – Giải pháp hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu Chính phủ cho
đầu tư phát triển ở nước ta trong những năm tới.
Do nhiều hạn chế về thời gian, kiến thức và nguồn tài liệu nên chuyên đề
không tránh khỏi những hạn chế và thiết sót. Vì vậy, em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến từ thầy cô giáo và bạn bè để chuyên đề thực tập được
hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo khoa
Kinh Tế Đầu Tư – trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đã truyền đạt
những kiến thức chuyên ngành bổ ích; cảm ơn thầy giáo: TS. Phạm Văn Hùng
– người đã trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu chuyên đề; cảm
ơn các bác, cô chú, anh chị công tác tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam đã tạo
điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm thông tin và tài
liệu để em có thể hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Sinh viên
Lý Thị Ngọc Huyền
Chương 1 - LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.

1.1 - Giới thiệu chung về trái phiếu chính phủ.
1.1.1 Khái niệm trái phiếu Chính phủ.
Trái phiếu là một loại tài sản tài chính phản ảnh nghĩa vụ của nhà phát
hành đối với người nắm giữ trái phiếu. Nhà phát hành (người vay tiền) phải
cam kết trả cho người nắm giữ trái phiếu (người cho vay) tương ứng số tiền
đã vay và tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Như vậy xét về bản chất, trái
phiếu là một hình thức đặc biệt của tín dụng. Nó phản ảnh quan hệ vay mượn,
sử dụng vốn lẫn nhau trên nguyên tắc hoàn trả. Bản thân chứng chỉ trái phiếu
hoặc các sổ sách ghi chép trái phiếu thể hiện mối quan hệ vay mượn giữa hai
chủ thể. Dù phát hành dưới hình thức nào thì trái phiếu cũng có các điều
khoản phản ánh quan hệ vay nợ như: số tiền gốc, kỳ hạn, lãi suất, cách thức
trả lãi – gốc, các điều khoản có liên quan như quyền mua lại, quyền chọn bán,
thế chấp,…
Trái phiếu của Chính phủ là một loại công cụ nợ đặc biệt mà người phát
hành là Chính phủ hoặc các cơ quan, tổ chức được Chính phủ chỉ định phát
hành và Chính phủ đứng ra bảo đảm thanh toán trong trường hợp thanh toán
trong trường hợp tổ chức phát hành không bố trí đủ nguồn để trả nợ khi đến
hạn. TPCP được sử dụng để bù đắp bội chi NSNN hoặc để đầu tư xây dựng
các công trình, dự án mang tính cộng đồng hoặc để thực hiện các dự án trọng
điểm quốc gia, các chương trình, mục tiêu của Chính phủ. Nguồn vốn thanh
toán TPCP được bố trí từ NSNN hoặc nguồn thu do công trình mang lại.
Có thể định nghĩa TPCP là một loại giấy tờ có giá, được quy định tại
Quyết định số 141/2003/QĐ-BTC ngày 20/11/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính do Chính phủ phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận
nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
TPCP phát hành trực tiếp qua hệ hống KBNN gồm: trái phiếu kho bạc,
trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ, công
trái xây dựng tổ quốc.
1.1.2 Đặc điểm của trái phiếu Chính phủ.

1.1.2.1 Độ rủi ro thấp.
Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán có độ rủi ro thấp nhất
trong các loại chứng khoán nợ, bởi vì TPCP được NSNN bảo đảm thanh toán.
Trong trường hợp NSNN không đảm bảo được nguồn để thanh toán gốc, lãi
trái phiếu khi đến hạn thì Chính phủ có thể phát hành nợ đến hạn (bằng đồng
tiền nội địa). Mặt khác, về mặt chính trị, khi Chính phủ này hết hạn cầm
quyền thì Chính phủ mới có trách nhiệm tiếp nhận và thanh toán các khoản nợ
của Chính phủ tiền nhiệm.
Mặc dù được coi là có độ an toàn cao nhất trong các loại chứng khoán nợ
nhưng TPCP vẫn tiềm ẩn những yếu tố rủi ro như rủi ro do biến động lãi suất,
tỷ giá, rủi ro về khả năng thanh toán bằng ngoại tệ, rủi ro về khả năng chuyển
trái phiếu thành tiền mặt.
TPCP có nhiều loại khác nhau, tương ứng với mức độ rủi ro khác nhau.
TPCP trực tiếp phát hành có độ rủi ro thấp nhất, trái phiếu chính quyền địa
phương và trái phiếu của các cơ quan của Chính phủ phát hành có độ rủi ro
cao hơn TPCP nhưng vẫn thấp hơn trái phiếu công ty.
1.1.2.2 Tính sinh lời thấp.
Trái phiếu Chính phủ cũng có tính sinh lời như các loại chứng khoán nợ
khác. Khi đầu tư vào TPCP người đầu tư sẽ được hưởng một mức lợi tức nhất
định. Lợi tức của trái phiếu là vấn đề mà nhà đầu tư và các nhà kinh tế quan
tâm nhất vì nó phản ánh chính xác lợi nhuận thu được khi đầu tư vào trái
phiếu. Tỷ lệ lợi tức được xác định bằng cách lấy số tiền mà người sở hữu trái
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
phiếu nhận được từ lãi suất được hưởng của trái phiếu, cộng với sự sai biệt về
giá của trái phiếu đó, chia cho giá mua.
So với lãi suất của trái phiếu công ty và trái phiếu ngân hàng, TPCP
thường có lãi suất thấp hơn do độ rủi ro thấp hơn. Tuy nhiên lãi suất trên thị
trường trái phiếu do cung cầu quyết định nên biến động theo thời gian. Do đó,
nếu so sánh cùng thời điểm phát hành thì thị trường TPCP có mức lãi suất
thấp hơn các loại trái phiếu khác (trừ trường hợp đặc biệt như chiến tranh,

khủng hoảng, lạm phát, …Chính phủ cần huy động vốn cấp tốc để chi tiêu
hoặc hút tiền để điều hoà lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát thì lãi suất rất
cao). Nhưng nếu xét cả một quá trình thì lãi suất ở các thời điểm khác nhau
của TPCP cũng biến động tuỳ theo diễn biến thị trường nên có thể tăng hay
giảm. Vì vậy, so với thời kỳ trước và sau, không nhất thiết lãi suất TPCP luôn
thấp hơn lãi suất của các loại trái phiếu khác.
1.1.3. Phân loại trái phiếu chính phủ.
1.1.3.1 Phân loại theo chủ thể phát hành.
• Trái phiếu Chính phủ do Chính phủ (thường uỷ nhiệm cho Bộ Tài chính)
phát hành với mục đích bù đắp bội chi ngân sách, tăng cường vốn đầu tư phát
triển và Chính phủ chịu trách nhiệm trích ngân sách hoàn trả gốc, lãi trái
phiếu cho chủ sở hữu khi đến hạn. Đây là hình thức phổ biến nhất và thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ từ chứng khoán nợ của các quốc gia.
• Trái phiếu chính quyền địa phương, do chính quyền địa phương cấp bang
trở xuống phát hành gồm chính quyền địa phương; chính quyền tỉnh, thành
phố; chính quyền quận, huyện,…Theo luật pháp của Mỹ và một số nước phát
triển như Anh, Nhật, Canada, Italia, chính quyền địa phương có ngân sách
độc lập với ngân sách quốc gia, được hình thành từ nguồn thu thuế , phí, lệ
phí và một phần trợ cấp từ ngân sách liên bang. Chính quyền địa phương
được phép huy động vốn để tài trợ cho các dự án phát triển KTXH trên địa
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
bàn và chịu trách nhiệm thanh toán khi đến hạn.Ở Việt Nam, theo luật NSNN
chỉ chính quyền cấp tỉnh mới được phép phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương.
• Trái phiếu do các cơ quan của Chính phủ phát hành và sử dụng nguồn
vốn đó để thực hiện chương trình, dự án theo mục tiêu chỉ định của Chính
phủ. Tổ chức phát hành loại trái phiếu này thông thường là các tổ chức tài
chính, tín dụng Nhà nước.
• Trái phiếu của các doanh nghiệp Nhà nước được Chính phủ chỉ định phát
hành trái phiếu để đầu tư cho các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia và được

Chính phủ bảo đảm thanh toán.
1.1.3.2 Phân loại theo mục đích phát hành.
• Trái phiếu kho bạc (trái phiếu bù đắp bội chi NSNN). Chính phủ phát
hành trái phiếu nhằm mục đích huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, bổ
sung vốn cho đầu tư phát triển thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách Trung ương
theo chỉ tiêu đã được Quốc hội phê chuẩn.
• Trái phiếu huy động vốn cho chương trình, mục tiêu Quốc gia. Bao gồm
công trái xây dựng Tổ quốc, trái phiếu do các cơ quan của Chính phủ phát
hành. Mục đích phát hành loại trái phiếu này là huy động vốn đầu tư xây
dựng những công trình quan trọng Quốc gia và các công trình thiết yếu khác
phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kĩ thuật cho đất nước.
• Trái phiếu huy động vốn cho chương trình, mục tiêu của chính quyền địa
phương. Phát hành để đầu tư các dự án phát triển KTXH thuộc nhiệm vụ chi
của chính quyền địa phương.
• Trái phiếu huy động vốn cho các công trình của doanh nghiệp Nhà nước.
Đây là loại trái phiếu mà doanh nghiệp Nhà nước được Chính phủ chỉ định
phát hành và bảo lãnh thanh toán. Mục đích phát hành loại trái phiếu này là để
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
đầu tư cho các dự án kinh tế trọng điểm Quốc gia, do doanh nghiệp Nhà nước
quản lý.
1.1.3.3 Phân loại theo kỳ hạn.
• Trái phiếu ngắn hạn (thường gọi là tín phiếu) có kỳ hạn dưới một năm.
Tín phiếu thường được phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN và
làm công cụ để điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trung ương thông qua
nghiệp vụ thị trường mở. Thông thường, tín phiếu ngắn hạn phát hành dưới
hình thức chiết khấu, giao dịch theo lợi tức chiết khấu.
• Trái phiếu dài hạn, có kỳ hạn trên 1 năm. Trái phiếu thường được phát
hành để bù đắp bội chi NSNN, đáp ứng các nhu cầu chi ĐTPT. Thông
thường, trái phiếu được phát hành theo hình thức trả lãi định kỳ hoặc cuối kỳ,
giao dịch trên cơ sở lãi suất cộng dồn. Về nguyên tắc, lãi suất trái phiếu dài

hạn phải lớn hơn lãi suất tín phiếu ngắn hạn.
1.1.3.4 Phân loại theo hình thức trả lãi.
• Trái phiếu có lãi suất cố định. Lãi suất của trái phiếu không thay đổi và
được xác định ngay tại thời điểm phát hành, có thể trả một lần khi đến hạn
( bullet bond), trả định kỳ (coupon bond) hoặc trả trước.
• Trái phiếu có lãi suất thả nổi. Lãi suất của trái phiếu thay đổi tại từng thời
điểm trả lãi, thường được tính theo lãi suất của thị trường liên ngân hang hoặc
điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát.
Trái phiếu chiết khấu (zero coupon). Trái phiếu được bán với giá thấp
hơn mệnh giá và thanh toán bằng mệnh giá khi đến hạn. Số tiền chênh lêch
giữa bán và mệnh giá chính là lãi của trái phiếu.
1.1.3.5 Phân loại theo mức độ bảo đảm thanh toán.
• Trái phiếu Chính phủ. Do Chính phủ (uỷ nhiệm cho Bộ Tài chính) phát
hành và chịu trách nhiệm bố trí nguồn thanh toán gốc, lãi trái phiếu cho chủ
sở hữu từ NSNN.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
• Trái phiếu được Chính phủ bảo đảm. Do chính quyền địa phương, các cơ
quan, tổ chức được Chính phủ chỉ định phát hành trái phiếu. Các tổ chức phát
hành có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi khi đến hạn. Trường hợp các tổ chức
phát hành không bố trí đủ nguồn thanh toán gốc, lãi đúng hạn thì Chính phủ
trích NSNN để thanh toán cho chử sở hữu.
1.1.3.6 Phân loại theo hình thức và tiêu thức quản lý.
Theo hình thức biểu hiện có trái phiếu chứng chỉ vật chất và trái phiếu ghi
sổ.
Theo tiêu thức quản lý thì có trái phiếu vô danh và trái phiếu ghi danh.
Trái phiếu vô danh không ghi tên chỉ sở hữu lên trái phiếu. Trái phiếu ghi
danh có ghi tên, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, … của nhà đầu tư trên trái
phiếu cả trong sổ của nhà phát hành.
Trong trái phiếu ghi danh có trái phiếu ghi danh đầy đủ và trái phiếu ghi
danh không đầy đủ. Ngày nay bên cạnh hình thức chứng chỉ ghi danh thì hình

thức trái phiếu ghi danh ghi sổ ngày càng phát triển vì tiết kiệm được chi phí
in ấn và quản lý.
1.1.3.7 Phân loại theo địa bàn phát hành.
• Trái phiếu trong nước: phát hành trong phạm vi một quốc gia.
• Trái phiếu quốc tế: phát hành ra thị trường vốn quốc tế.
1.2 – Sự cần thiết phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển.
1.2.1 Đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.1.1 Đáp ứng nhu cầu vốn phát triển kinh tế địa phương.
Trong những năm gần đây, nhu cầu huy động vốn của chính quyền địa
phương trở nên lớn hơn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam,
chủ yếu do hai xu hướng:
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
• Xu hướng thứ nhất xuất phát từ việc phân cấp chính trị đang được triển
khai ở một số nước đang phát triển. Ở những nước này, chính quyền Trung
ương đã giao cho chính quyền địa phương trách nhiệm cung cấp các dịch vụ
công cộng tại địa phương và phát triển cơ sở hạ tầng có liên quan. Điều này
đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính rất lớn. Việc cải cách này nhằm mục đích
giảm các khoản thâm hụt tài chính lớn ở chính quyền Trung ương và địa
phương bằng cách tăng hiệu quả phân bổ nguồn lực của chính quyền địa
phương cho việc cung cấp dịch vụ công cộng. Các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có cơ hội gần gũi với cử tri của mình hơn, sẽ nhạy cảm hơn và
có trách nhiệm hơn với các nhu cầu của người dân và nhờ vậy sẽ phân bổ hiệu
quả hơn các nguồn lực cần thiết để cung cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng các
nhu cầu đó.
Tại Việt Nam, việc phân cấp chính trị đang được triển khai trong những
năm gần đây. Trong khuôn khổ công cuộc đổi mới bao gồm cải cách hành
chính công năm 2001, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể về cải
cách hành chính công giai đoạn 2001 -2010. Theo đó, các quy định cơ bản
mới về phân cấp quản lý hành chính giữa Trung ương và địa phương và giữa
các cấp khác nhau của chính quyền địa phương sẽ được phát triển và đưa vào

thực hiện. Ngoài ra, cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách cũng sẽ
được đổi mới để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống quản lý tài chính quốc
gia và vai trò dẫn dắt của ngân sách Trung ương. Điều này sẽ thúc đẩy tính
chủ động, sang tạo và trách nhiệm trong việc quản lý tài chính và ngân sách
được phân bổ cho chính quyền địa phương, quyền ra quyết định về việc sử
dụng ngân sách sẽ được giao cho Hội đồng Nhân dân các cấp. Các cải cách
này sẽ tăng cường việc phân cấp, giao trách nhiệm cung cấp các dịch vụ công
cộng tại chỗ cho chính quyền địa phương.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
• Xu hướng thứ hai xuất phát từ việc đô thị hoá nhanh đang diễn ra ở hầu
hết các nước đang phát triển với sức ép lớn hơn đối với chính quyền địa
phương trong việc nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng mới nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao về các dịch vụ công cộng đô thị bao gồm đường xá, hệ
thống cấp nước, truyền tải và phân phối điện, xử lý chất thải, …
Việc đô thị hoá cũng diễn ra rất nhanh ở Việt Nam. Sự đô thị hoá ở các
thành phố lớn càng nhanh, càng đòi hỏi nhiều dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng
mới. Sự đô thị hoá là một quá trình làm thu hẹp quỹ đất trong nhiều lĩnh vực
của cuộc sống đô thị như việc xây dựng nhà ở, việc lắp các công trình dịch vụ
đô thị, việc phát triển các hệ thống giao thông, … Thực tế, thành phố Hồ Chí
Minh có tốc độ đô thị hoá nhanh nhất trong cả nước cũng là địa phương có
khối lượng trái phiếu đô thị phát hành lớn nhất cả nước.
Với sự phát triển mạnh mẽ của hai xu hướng trên, ngân sách của các địa
phương thường không đủ để đáp ứng nhu cầu đó. Nhu cầu về tài chính cho
phát triển cơ sở hạ tầng đại phương đang gia tăng nhanh hơn so với khả năng
đáp ứng của ngân sách chính quyền địa phương. Để thực hiện chiến lược công
nghiệp hoá – hiện đại hoá đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp
hoá nông nghiệp nông thôn thì các địa phương cần phải chủ động khai thác
các nguồn tài chính khác cho ĐTPT. Phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương là một trong những giải pháp hữu hiệu. Theo tính toán của Bộ Tài
chính thì trong giai đoạn 2006 – 2010 nhu cầu huy động vốn bằng trái phiếu

chính quyền địa phương sẽ khoảng 20.000 tỷ đồng.
1.2.1.2 Đáp ứng nhu cầu vốn tài trợ cho các chương trình, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội đặc biệt của Chính phủ.
Tài trợ cho chương trình mục tiêu của Chính phủ là một trong những hoạt
động quan trọng của các nước đang phát triển. Việc tài trợ của Chính phủ
thông qua đảm bảo cho các trái phiếu do cơ quan của Chính phủ là một chính
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
sách hữu hiệu và là xu hướng chung của nhiều quốc gia. Chính phủ không
tham dự trực tiếp vào việc huy động và tài trợ vốn cho từng dự án theo kiểu
bao cấp mà chỉ bảo đảm khả năng thanh toán trong trường hợp tổ chức phát
hành không thanh toán được nợ và có thể hỗ trợ một phần lãi suất dưới hình
thức tín dụng đầu tư của Nhà nước. Chính sách này đặt ra cho các tổ chức tài
chính nghĩa vụ và trách nhiệm theo cơ chế thị trường, sau đó là sự đảm bảo từ
phía Chính phủ, dưới giác độ là người bảo trợ.
Thực tế ở Việt Nam, Chính phủ đã thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển với
chức năng thực hiện chính sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà
nước và Ngân hàng Chính sách xã hội với chức năng hỗ trợ xoá đói, giảm
nghèo, giải quyết việc làm và ổn định xã hội. Bản chất của các hoạt động tín
dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội là tín dụng
Nhà nước. Hoạt động tín dụng Nhà nước thường gắn chặt với các mục tiêu
khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh một ngành, lĩnh vực nhất định,
xây dựng cơ sở hạ tầng, các chương trình văn hoá, xã hội theo định hướng,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng giai đoạn.
Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, dự kiến
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong giai đoạn này
khoảng 160 - 170 nghìn tỷ đồng, tăng 50% so với giai đoạn 2001 - 2005. Dự
kiến giai đoạn 2006 - 2010, Quỹ sẽ huy động khoảng 37.000 tỷ đồng thông
qua phát hành trái phiếu.
Cùng với sự phát triển kinh tế thì vấn đề xoá đói, giảm nghèo luôn là
thách thức to lớn đối với các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, việc dôi dư

lao động trong quá trình đô thị hoá ở nông thôn và chủ trương triển khai kênh
tín dụng ưu đãi tại các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn đã nảy sinh thách
thức lớn về vốn để đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các đối tượng thụ
hưởng. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, Ngân hàng Chính
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
sách xã hội phải tính đến giải pháp huy động vốn trong và ngoài nước, trong
đó huy động vốn trực tiếp từ thị trường tài chính thông qua phát hành trái
phiếu được là giải pháp rất quan trọng và hữu hiệu.
1.2.1.3 Đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia của
các doanh nghiệp Nhà nước.
Với các quốc gia đang phát triển, nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án kinh
tế trọng điểm là rất lớn. Trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, để đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế đất nước, các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc tham gia đầu tư vào các dự án nói trên. Không
thể dựa hoàn toàn từ nguồn vốn ngân hàng vì đặc điểm vốn ngân hàng ngắn
hạn là chủ yếu, trong khi các dự án đầu tư cần vốn dài hạn; mặt khác việc dựa
quá nhiều vào khu vực ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro cho thị trường và cho
nền kinh tế. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần tiếp cận kênh huy động vốn
trực tiếp từ thị trường tài chính trong nước và quốc tế .
Đối với Việt Nam, để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân
8%/năm, trong giai đoạn 2006 - 2010, tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội
khoảng 2.700.000 tỷ đồng. Mức huy động vốn đầu tư qua thị trường vốn
chiếm khoảng 22 - 23%, khoảng 600.000 tỷ đồng, trong đó, khu vực doanh
nghiệp cần khoảng 29%, tương ứng với 174.000 tỷ đồng. Đây là một lượng
vốn rất lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp cần đa dạng hoá hình thức huy động
vốn và việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là một kênh huy
động vốn quan trọng trong điều kiện hiện nay, giúp cho doanh nghiệp thuận
lợi trong việc huy động vốn với chi phí thấp. Đối với các dự án có nhu cầu
huy động vốn bằng ngoại tệ với khối lượng lớn (như dự án của các ngành điện
lực, dầu khí, đóng tàu,...) thì cần thiết phải huy động vốn từ thị trường vốn

quốc tế. Thông qua phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, các nhà đầu
tư nước ngoài có điều kiện hiểu biết hơn về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội,
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
môi trường đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư của Việt Nam. Qua
đó, từng bước khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, mở rộng cơ
hội làm ăn với các nhà đầu tư trên thế giới.
1.2.2 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.
Sự có mặt của trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do cơ quan
Chính phủ phát hành, trái phiếu doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh sẽ
làm phong phú thêm hoạt động của thị trường vốn, thị trường chứng khoán,
nhất là trong giai đoạn đầu thị trường mới hoạt động như Việt Nam hiện nay.
Các nhà đầu tư có thêm danh mục chứng khoán để lựa chọn, các tổ chức tài
chính trung gian phát huy được vai trò của mình trong việc cung cấp các dịch
vụ tài chính. Việc phát hành trái phiếu đảm bảo bằng hợp đồng thế chấp tài
sản là một trong những nghiệp vụ chứng khoán hoá được sử dụng có hiệu
quả. Nghiệp vụ này cho phép chuyển những khoản vay theo hợp đồng thành
chứng khoán có khả năng chuyển nhượng, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự
luân chuyển và điều hoà vốn trong nền kinh tế.
Các trái phiếu được Chính phủ bảo đảm có thể sử dụng làm căn cứ xác
định giá của các công cụ nợ khác trên thị trường (trừ trái phiếu Chính phủ).
Trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do các cơ quan của Chính
phủ phát hành có độ an toàn khá cao, bởi được đảm bảo bằng nguồn thu thuế
của chính quyền địa phương, đảm bảo bằng hợp đồng vay thế chấp, được
Chính phủ đảm bảo, được bảo hiểm bởi các công ty bảo hiểm có uy tín. Vì
vậy, vào những thời điểm không phát hành trái phiếu Chính phủ, các nhà đầu
tư có thể dựa vào giá trái phiếu được Chính phủ bảo đảm để xác định giá các
công cụ nợ khác như trái phiếu công ty.
1.2.3 Góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các

SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
nước đang phát triển. Để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải
sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính, tiền tệ. Giải pháp quan
trọng đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng có hiệu quả là tăng cường
công tác huy động vốn nói chung, trong đó có trái phiếu được Chính phủ bảo
đảm, bởi vì thông qua các công cụ huy động vốn sẽ góp phần điều hoà lượng
tiền mặt trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh
tế, qua đó góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
1.2.4 Góp phần tăng cường vai trò của nhà nước trong điều tiết kinh tế
vĩ mô.
Nhờ nguồn vốn có được từ phát hành TPCP, nhà nước có thể chủ động
trong công tác xây dựng kế hoạch và điều hành NSNN, đặc biệt là trong việc
cân đối và bố trí nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Hơn nữa, thông qua phát
hành TPCP, nhà nước có nguồn để thực hiện các dự án phát triển kết cấu hạ
tầng như công nghệ thông tin, hệ thống giao thông, hệ thống thủy lợi, phát
triển y tế, giáo dục, nâng cao mức sống của nhân dân, ...
Phát hành TPCP giúp nhà nước giải quyết được tình trạng thâm hụt
NSNN mà không gây lạm phát, nhờ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Một
mặt, thuế và chi NSNN là những công cụ quan trọng được sử dụng trong ổn
định giá trị đồng tiền. Mặt khác, thuế và chi NSNN cũng là một trong những
công cụ để khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận. Việc đảm bảo tiềm
lực cho NSNN sẽ giúp cho NSNN thực hiện có hiệu quả vai trò của mình
trong ổn định giá trị tiền tệ, khuyến khích đầu tư phát triển, từng bước tăng
quy mô và tỷ trọng cũng như hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ NSNN.
Phát hành TPCP giúp cho việc điều hành ngân sách của nhà nước được
thuận lợi hơn, giúp nhà nước tăng cường vị thế, vai trò và uy tín của mình đối
với các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đồng thời, việc phát hành TPCP trong
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
nước cũng góp phần làm giảm tương đối vay nước ngoài, tránh sức ép trong
quan hệ đối ngoại, tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế.

Tóm lại, trái phiếu Chính phủ là công cụ huy động vốn quan trọng của
các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Chính quyền địa phương cấp
nào được phép phát hành trái phiếu và cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp Nhà
nước nào được phát hành trái phiếu sẽ tuỳ thuộc vào chính sách của mỗi nước
và mức độ phát triển của thị trường tài chính của các nước. Tuy nhiên, trong
xu hướng hiện nay, các nước cần từng bước thực hiện tự do hoá hoạt động
huy động vốn trên thị trường, trong đó có việc cho phép các cấp chính quyền
địa phương, các cơ quan Chính phủ, các doanh nghiệp Nhà nước phát hành
trái phiếu Chính phủ để đầu tư phát triển theo những mục tiêu đã định.
1.3 – Trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu Chính phủ.
Căn cứ vào Quyết định số 66/2004/QĐ-BTC ngày 11/8/2004 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về việc hướng dẫn về trình tự, thủ tục phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính
quyền địa phương.
Quy chế này hướng dẫn về trình tự lập kế hoạch, xây dựng phương án
phát hành, quyết định phát hành, điều hành lãi suất và các vấn đề liên quan
đến tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương (gọi chung là trái phiếu).
1.3.1 Phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình
Trung ương và trái phiếu ngoại tệ.
Kho bạc Nhà nước tổ chức triển khai thực hiện việc phát hành tín phiếu
kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương và trái phiếu
bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu chi của ngân sách nhà nước và các dự án,
công trình quan trọng thuộc phạm vi cân đối của Ngân sách Trung ương.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
Căn cứ tổng mức vốn phát hành trái phiếu trong năm và kế hoạch phát
hành đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt, Kho bạc Nhà nước chủ động
tổ chức triển khai thực hiện việc phát hành trái phiếu theo nhu cầu và tiến độ
chi của ngân sách nhà nước.
Việc phát hành trái phiếu theo phương thức bán lẻ qua hệ thống Kho bạc

Nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành..
1.3.2 Phát hành trái phiếu đầu tư.
Quỹ Hỗ trợ phát triển, các tổ chức tài chính, tín dụng được chủ động tổ
chức phát hành trái phiếu đầu tư để huy động vốn đáp ứng nhu cầu về vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo kế hoạch hàng năm và kế hoạch
phát hành trái phiếu đã báo cáo Bộ Tài chính.
Việc huy động vốn phải phù hợp với tiến độ giải ngân vốn vay, nguồn thu
hồi nợ và đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm đến mức thấp nhất các chi phí về huy
động vốn. Không huy động vốn khi chưa có nhu cầu sử dụng hoặc nguồn vốn
hiện tại vẫn đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các dự án.
1.3.3 Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
Khi có nhu cầu phát hành trái phiếu, doanh nghiệp gửi đến Bộ Tài chính
các tài liệu sau:
Đơn đề nghị phát hành trái phiếu kèm theo phương án phát hành thuyết
minh rõ về tổng mức vốn dự kiến huy động; thời hạn, lãi suất; kế hoạch trả nợ
vốn vay khi đến hạn; nguồn trả nợ; biện pháp tổ chức phát hành, thanh toán
trái phiếu.
Văn bản về việc cho phép doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu
để huy động vốn cho dự án;
Dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
Giấy đề nghị Bộ Tài chính thực hiện bảo lãnh thanh toán;
Các tài liệu khác có liên quan.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp pháp, hợp
lệ, Bộ Tài chính có ý kiến thoả thuận bằng văn bản để doanh nghiệp thực hiện
phát hành trái phiếu.
1.3.4 Phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương.
Khi có nhu cầu phát hành trái phiếu, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi Bộ Tài
chính các tài liệu sau:
Văn bản đề nghị phát hành trái phiếu, trong đó có nêu rõ về tổng mức vốn

dự kiến huy động; thời hạn, lãi suất; thời gian dự kiến phát hành; biện pháp tổ
chức phát hành, thanh toán trái phiếu.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua việc phát hành trái
phiếu kèm theo phương án phát hành.
Các tài liệu khác có liên quan.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp pháp, hợp lệ, Bộ
Tài chính xem xét, có ý kiến thoả thuận bằng văn bản để Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh triển khai thực hiện.
Căn cứ ý kiến thoả thuận của Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có
quyết định uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng
trên địa bàn thực hiện việc phát hành trái phiếu theo các quy định hiện hành.
1.4 – Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác phát hành TPCP.
Việc phát hành TPCP bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
1.4.1 Nhu cầu vốn cho ĐTPT kinh tế.
Việc phành hành trái phiếu của Chính phủ trên thị trường sơ cấp phụ
thuộc vào nhu cầu huy động vốn để bù đắp thiếu hụt của NSNN và cho
ĐTPT. Với rất nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, các
nguồn thu ngân sách có hạn nhưng nhu cấi chi ngân sách rất lớn, Chính phủ
cần phải đi vay để bù đắp thâm hụt ngân sách. Hơn nữa, nhu cầu vốn lớn
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
cho ĐTPT cũng là một vấn đề hết sức cấp bách. Nhiều Chính phủ không muốn
phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, đồng thời thi hành chính sách tín
dụng thận trọng để kiếm soát lạm phát nên việc phát hành các loại trái phiếu
cho NSNN và cho ĐTPT là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
1.4.2 Tốc độ phát triển kinh tế.
Với một nền kinh tế tăng trưởng cao và ỏn định, thu nhập và tiết kiệm
trong nền kinh tế nói chung và các tầng lớp dân cư ngày càng tăng. Khi đó,
nhu cầu đầu tư vào trái phiếu của Chính phủ cũng tăng lên. Trong trường
hợp kinh tế suy thoái, thu nhập dân cư giảm sút cùng với thiết kiệm, cầu về
TPCP sẽ giảm đi. Cầu về trái phiếu là yếu tố quan trọng quyết định khả

năng huy động vốn trái phiếu trên thị trường sơ cấp.
1.4.3 Lạm phát và lãi suất tương lai dự tính.
Lạm phát và lãi suất chịu ảnh hưởng lớn của chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Trung ương. Hai phạm trù này có liên quan chặt chẽ đến nhau và cùng
có ảnh hưởng trực tiếp đến cầu trái phiếu. Nếu nhà đầu tư dự đoán được lạm
phát và lãi suất tăng trong tương lai, họ sẽ giảm cầu TPCP trong hiện tại.
Ngược lại, nếu dự kiến lạm phát hoặc lãi suất giảm trong tương lai thì cầi
trái phiếu sẽ có xu hướng tăng trong hiện tại.
1.4.4 Lợi tức và mức độ rủi ro của các công cụ đầu tư khác ( vàng,
bất động sản …)
Khi lợi tức của các công cụ đầu tư khác tăng lên hoặc mức độ rủi ro của
chúng giảm đi thì cầu trái phiếu giảm xuống. Ngược lại, trường hợp lợi tức
các công cụ đầu tư giảm hoặc mức độ rủi ro của chúng tăng lên thì cầu
TPCP sẽ tăng lên.
1.4.5 Khả năng sinh lời từ việc mua, bán chuyển nhượng TPCP.
Khi mua trái phiếu trên thị trường, các nhà đầu tư có thể nhằm vào hai
mục đích chủ yếu: mua để hưởng lãi từ trái phiếu khi đến hạn thanh toán và
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
mua trái phiếu để bán lại nhằm thu lợi từ hoạt động kinh doanh này. Đối với
các nhà đầu tư chuyên nghiệp và các nhà đầu tư có tổ chức, đa số mua trái
phiếu để nhằm mục đích thứ hai. Tuy nhiên các nhà đầu tư chỉ bán lại trái
phiếu đã mua khi thu được lợi từ hoạt động này, tức là số tiền lợi nhuận thu
được do đầu tư vào các loại hình đầu tư khác lớn hơn số tiền lãi từ việc giữ
trái phiếu. Nếu nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững sẽ có nhiều cơ
hội cho các nhà đầu tư tìm kiếm các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cao
nhu trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp hoặc đầu tư trực tiếp. Ngược lại trong
giai đoạn suy thoái, ít cơ hội đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao, các chủ thể sẽ
tăng tỷ trọng đầu tư vào các công cụ tài chính ít rủi ro là TPCP, khi đó cầu
TPCP trên thị trường sẽ tăng lên.
1.4.6 Tính thanh khoản của TPCP.

Nếu khả năng thanh toán của trái phiếu tăng thì cầu trái phiếu tăng.
Ngược lại, nếu khả năng thanh toán của trái phiếu thấp thì cầu trái phiếu sẽ
giảm nhanh chóng, nhất là đối với loại trái phiếu trung và dài hạn. Tính
thanh khoản của trái phiếu chịu ảnh hưởng lớn của các quy định và trình tự
thủ tục mua, bán trên thị trường. Nếu các quy định và trình tự này đơn giản,
nhanh chóng và chi phí thấp, các nhà đầu tư sẽ có điều kiện thuận lợi trong
việc mua, bán, chuyển nhượng các loại trái phiếu để chuyển đổi hình thức
đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Trong điều kiện đó, tất cả các nguồn vốn
đầu tư của các cá nhân và doanh nghiệp sẽ được huy động và sử dụng một
cách có hiệu quả nhất.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
Chương 2 - THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2004-2008.
2.1 - Cơ chế chính sách phát hành TPCP phủ cho đầu tư phát triển ở
nước ta.
2.1.2 Công tác xây dựng kế hoạch phát hành TPCP.
Công tác xây dựng kế hoạch phát hành TPCP được thực hiện theo qui
định tại Quyết định số 66/2004/QĐ-BTC ngày 11/8/2004 của Bộ Trưởng Bộ
Tài chính ban hành “Qui chế hướng dẫn về trình tự, thủ tục phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương. Theo đó:
- Bộ Tài chính chủ trì xây dựng kế hoạch phát hành, thanh toán các loại
trái phiếu để tổng hợp chung trong dự toán ngân sách nhà nước báo cáo Chính
phủ trình Quốc hội phê duyệt.
- Căn cứ vào chỉ tiêu huy động vốn đã được Quốc hội quyết định, Bộ
trưởng Bộ Tài chính giao nhiệm vụ huy động vốn phát hành tín phiếu, trái
phiếu cho Kho bạc Nhà nước.
- Kho bạc Nhà nước chủ trì phối hợp với Vụ Ngân sách nhà nước, Vụ Tài
chính các ngân hàng và tổ chức tài chính xây dựng kế hoạch phát hành các

loại trái phiếu hàng tháng phân theo từng loại trái phiếu, kỳ hạn trái phiếu,
đồng tiền và phương thức phát hành báo cáo Bộ trưởng Bộ Tài chính phê
duyệt.
2.1.2 Công tác quản lý phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống KBNN.
2.1.2.1 Tổ chức in trái phiếu.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
Kho bạc Nhà nước thống nhất in các loại trái phiếu để sử dụng tại tất cả
các đơn vị KBNN trong phạm vi cả nước.
Mẫu trái phiếu do KBNN thiết kế trình Bộ trưởng Bộ Tài chính phê
duyệt.
Việc in trái phiếu thực hiện kế hoạch được lập hàng năm hoặc trước mỗi
đợt phát hành trái phiếu, căn cứ vào kế hoạch, chỉ tiêu huy động vốn và tình
hình vốn kho các loại trái phiếu.
2.1.2.2 Phân phối, điều chuyển và thu hồi trái phiếu.
Kho bac Nhà nước trực tiếp phân phối trái phiếu cho KBNN các tỉnh,
thành phố phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra (Khu vực I), điều chuyển trái phiếu cho
các Trung tâm khu vực II và III. KBNN Đà Nẵng là trung tâm khu vực II.
KBNN Hồ Chí Minh là trung tâm khu vực III.
Lệnh phân phối trái phiếu cho KBNN các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, lệnh điều chuyển trái phiếu cho các trung tâm khu vực, lệnh điều
chuyển trái phiếu giữa các Trung tâm khu vực, các KBNN tỉnh, lệnh thu hồi
trái phiếu từ Trung tâm khu vực, KBNN tỉnh về KBNN do Tổng Giám đốc
KBNN (hoặc người được uỷ quyền) ký.
Lệnh phân phối trái phiếu cho KBNN quận, huyện, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là KBNN huyện), lệnh điều chuyển trái phiếu
giữa các KBNN huyện, lệnh thu hồi trái phiếu từ KBNN huyện về KBNN
tỉnh do Giám đốc KBNN tỉnh ( hoặc người được uỷ quyền) ký.
2.1.2.3 Trách nhiệm của các đơn vị trong việc quản lý trái phiếu
Tại KBNN.
• Ban Huy động vốn.

Thiết kế mẫu trái phiếu báo cáo Lãnh đạo KBNN, trình Lãnh đạo Bộ Tài
Chính phê duyệt.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
Lập kế hoạch in các loại trái phiếu, số lượng từng loại mệnh giá, cách
đánh số sêri,…..;
Xây dựng kế hoạch phân phối trái phiếu, lập lệnh phân phối, điều chuyển,
thu hồi trái phiếu tại các Trung tâm khu vực và KBNN các tỉnh, trình Lãnh
đạo KBNN phê duyệt.
Cuối mỗi đợt phát hành trái phiếu, phối hợp với Ban Kế toán, Ban Kho
quỹ đối chiếu, bảo đảm khớp đúng số tiền thu từ phát hành mới so với tổng
mệnh giá trái phiếu đã sử dụng, số liệu trái phiếu nhập, xuất, sử dụng, tồn kho
thực tế và trong chương trình “Quản lý trái phiếu KBNN” tại KBNN, Trung
tâm khu vực và KBNN các tỉnh.
• Ban Kho quỹ.
Chịu trách nhiệm nhân trái phiếu từ đơn vị in, trực tiếp phân phối, thu hồi
trái phiếu từ KBNN các tỉnh phía Bắc.
Điều chuyển, thu hồi trái phiếu từ các Trung tâm khu vực.
Tổng hợp trái phiếu hỏng, hết giá trị sử dụng từ KBNN tỉnh và các Trung
tâm khu vực, xin chủ trương và thực hiện tiêu huỷ trái phiếu hỏng hết hạn sử
dụng theo quy định.
Cuối mỗi đợt phát hành trái phiếu : chủ trì phối hợp với Ban Huy động
vốn, Ban Tài vụ Quản trị đối chiếu bảo đảm khớp đúng số liệu trái phiếu
nhập, xuất, sử dụng, tồn kho thực tế và trong chương trình “ Quản lý trái
phiếu KBNN” tại KBNN, Trung tâm khu vực và KBNN các tỉnh, tổng hợp,
báo cáo tình hình nhập, xuất, sử dụng, tồn kho các loại trái phiếu trong toàn
hệ thống.
• Ban Tài vụ Quản trị.
Căn cứ vào kế hoạch in trái phiếu đã được lãnh đạo KBNN phê duyệt,
phối hợp với Ban Huy động vốn và đơn vị in dự thảo Hợp đồng in trình Lãnh
đạo KBNN ký.

SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.
• Trung tâm Tin học và Thống kê.
Căn cứ vào yêu cầu, chịu trách nhiệm bổ sung, hoàn thiện chương trình
“Quản lý trái phiếu KBNN” cho phù hợp với các quy trình nghiệp vụ
Hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các đơn vị KBNN trong toàn hệ thống để bảo đảm
chương trình hoạt động tốt, số liệu được cập nhật kịp thời, báo cáo chiết xuất
nhanh chóng, đầy đủ, chính xác.
Các đơn vị KBNN tỉnh, huyện.
Giám đốc KBNN chịu trách nhiệm bố trí cán bộ, bảo đảm các điều kiện
phương tiện, cơ sở vật chất cần thiết cho công tác quản lý trái phiếu, bảo đảm
tuyệt đối an toàn tiền, tài sản được KBNN cấp trên giao quản lý.
Phụ trách phòng, bộ phận kế hoạch tổng hợp có nhiệm vụ theo dõi tình
hình nhập, xuất, sử dụng trái phiếu tại đơn vị, căn cứ vào nhiệm vụ huy động
vốn và tình hình tồn kho trái phiếu tại đơn vị, đề xuất nhu cầu bổ sung trái
phiếu trình Lãnh đạo ký gửi KBNN cấp trên, lập lệnh phân phối, điều chuyển,
thu hồi trái phiếu giữa các đơn vị trong phạm vi địa bản tỉnh.
Thủ kho chấp hành các chế độ quản lý kho, chịu trách nhiệm về việc bảo
đảm an toàn, chính xác toàn bộ trái phiếu xuất, nhập, bảo quản trong kho, mở
sổ, ghi chép trái phiếu nhập, xuất, tồn kho, thực hiện kiểm kê theo quy định,
cuối mỗi đợt phát hành, định kỳ hàng tháng và hàng năm, phối hợp với kế
toán giấy tờ có giá đối chiếu số liệu trái phiếu sử dụng, tồn kho, lập và cung
cấp số liệu để phòng, bộ phận kho quỹ lập báo cáo theo quy định.
Phụ trách phòng kế toán, bộ phận kế toán giấy tờ có giá chịu trách nhiệm
tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ nhập, xuất,
điều chuyển, bảo quản trái phiếu; chỉ đạo, tổ chức hạch toán kế toán giấy tờ
có giá theo quy định của Chế độ kế toán hoạt động nội bộ KBNN ban hành
kèm theo Quyết định số 1190/1998/QĐ-BTC ngày 11/09/1998 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính.
SVTH: Lý Thị Ngọc Huyền. GVHD: Ts. Phạm Văn Hùng.

×