Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài thu hoạch, nhà nước và pháp luật xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.14 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN.........................................................................2
1. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền”..............................................................2
2. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam...............2
3. Tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước
pháp quyền........................................................................................................2
4. Quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng
Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.................................................................4
5. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam........5
II. Thực trạng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam...................................................................................................................6
III. Giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời gian tiếp theo....................................................................................7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, như chiến tranh, nội chiến,
quan niệm về chủ nghĩa xã hội một cách giản đơn và có phần cực đoan khi
đối lập một cách trừu tượng nhà nước tư sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa,
đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, coi mơ hình nhà nước
pháp quyền là mang tính tư sản…nên ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó
có Việt Nam, việc nghiên cứu và vận dụng một cách có ý thức (chủ động, tự
giác) mơ hình nhà nước pháp quyền có nhiều hạn chế. Đó là một trong những
nguyên nhân khiến dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa trở thành “có vấn
đề”. Dân chủ mang nặng tính hình thức; tình trạng độc đốn, chun quyền,
quan liêu có xu hướng phát triển đã làm suy yếu nhà nước. Tổ chức bộ máy
cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Nhà nước quản lý, điều hành xã
hội chủ yếu bằng mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, bằng đạo lý, trong khi pháp
luật thì bị coi nhẹ.


Chính vì vậy, vấn đề dân chủ đã được đặt ra một cách bức bách ở các
nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng. Trong q trình đổi mới
tư duy về chính trị, về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà nước pháp quyền
của Đảng ta ngày càng đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn; quyết tâm chính trị
là xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp quyền
cũng ngày càng cao hơn. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
là bước đột phá trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc
quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới Nhà nước ở
nước ta nói riêng.
Vì vậy, qua tìm hiểu, nghiên cứu, em chọn đề tài “Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm tiểu
luận cho môn học Nhà nước và pháp luật.

1


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền”
Qua nhiều nghiên cứu về sự hình thành, phát triển và các quan điểm lý
luận về nhà nước pháp quyền hiện nay, chúng ta có thể xác định: “Nhà nước
pháp quyền là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành
bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp
luật; bao hàm việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã
hội, nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của cơng dân
(hoặc con người nói chung)”.
2. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam

Trong văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã
nêu: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ở nước ta là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng
pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng
khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nơng
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”.
3. Tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà
nước pháp quyền
Trong học thuyết chun chính vơ sản, đúng là C.Mác và Ph.Ăngghen
chưa sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng những tư tưởng cốt lõi 
về nhà nước pháp quyền lại được các nhà kinh điển đề cập sâu sắc trong các
chủ trương xây dựng nhà nước kiểu mới, chế độ dân chủ mới, chế độ dân chủ
vơ sản. Đó là chủ trương xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước
dân chủ  cao nhất, triệt để nhất, dân chủ “do nhân dân tự quy định”; là bước
chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân, từ “nhân dân của nhà nước”
2


sang “nhà nước của nhân dân”. Đó là chế độ dân chủ xuất phát từ con người
và pháp luật cũng vì con người. Đó là nhà nước đảm bảo cho “tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Nhà nước đó
xây dựng và phát triển một xã hội có khả năng tạo ra những điều kiện cơ bản
để “giải phóng cá nhân” theo phương châm “xã hội sẽ không thể giải phóng
cho mình được, nếu khơng giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt”… Những tư
tưởng cốt lõi đó của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin vận dụng và
phát triển trong sự phân tích, đánh giá nhà nước tư sản, chế độ cộng hoà dân
chủ tư sản, cũng như trong thực tiễn lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng nền
pháp luật kiểu mới, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền cũng đã được thể hiện rất

đậm nét ở Hồ Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà nước
cách mạng. Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ
dân chủ thực sự theo phương châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân
cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Chính phủ là
chính phủ của nhân dân, Chính phủ phải hứa với dân: “Việc gì có lợi cho dân,
ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Đó là một nhà
nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, “tất cả các cơ quan nhà nước đều phải
dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và chịu sự kiểm soát
của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp 1959). Trong quan hệ với nhân dân, Hồ
Chí Minh khẳng định, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Người viết: “Chế độ
ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân.
Nhân dân có quyền đơn đốc và phê bình Chính phủ”. Chỉ một ngày sau khi
đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ,
Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời xác lập nền tảng dân chủ và pháp
quyền cho chế độ nhà nước cách mạng, đó là tổ chức Tổng tuyển cử và xây
dựng Hiến pháp dân chủ. Người nói: “Trước đây chúng ta bị chế độ quân chủ
chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên
3


nước ta khơng có hiến pháp. Nhân dân ta khơng được hưởng quyền tự do, dân
chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức
càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, khơng
phân biệt giàu nghèo, tơn giáo, dịng giống, v.v.”.
4. Quá trình nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới Nhà nước
đã manh nha một số nội dung về Nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định

“quản lý nhà nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”; phải quan
tâm xây dựng pháp luật; từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật
để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật.
Đến Đại VII, quan điểm đổi mới Nhà nước đã được bổ sung thêm nội dung:
“Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
với sự phân cơng rành mạch ba quyền đó”.
Như vậy, có thể nói, qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi
mới Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng đã có
những bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu tồn quốc
giữa nhiệm kỳ khố VII (1994), chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa mới được Đảng ta chính thức khẳng định và thuật ngữ “Nhà nước
pháp quyền” cũng mới lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường ở nước ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử,
hiểu biết của chúng ta cịn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh
nghiệm. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải thận trọng trong quyết định, cũng
như trong tiến hành thực hiện. Trong Văn kiện Đại hội VIII (1996), Đảng ta
coi xây dựng Nhà nước pháp quyền như một trong năm quan điểm cần quán
triệt trong quá trình tiếp tục cải cách, đổi mới Nhà nước, xây dựng và hoàn
4


thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đến Đại hội IX, qua tổng kết
những thành tựu nghiên cứu lý luận, cũng như thực tiễn từng bước xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã coi “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” là một nhiệm vụ mang tính chiến lược
và xuyên suốt trong quá trình “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của
nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”. Trong Văn kiện Đại hội
X, khi tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta không những

tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, mà còn ghi
nhận điều chúng ta “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” là một đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng.
5. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa có một số đặc
trưng chung của nhà nước pháp quyền vừa có đặc trưng riêng của nước ta
mang đậm tính dân tộc và nhân đạo được thể hiện ở một số điểm sau: Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước:
- Thực sự của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân.
- Tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc
của con người.
- Được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp
luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống Nhà nước
và xã hội.
- Tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhát, có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm sốt việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình và bảo
đảm cho cơng dân thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.
- Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
5


- Thực hiện đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng
và phát triển với nhân dân các dân tộc và các nước trên toàn thế giới, đồng
thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham
gia, ký kết, phê chuẩn.
II. Thực trạng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam
Thời gian qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam ở bất kỳ giai đoạn nào, đã được phát huy ở
mọi cấp, mọi ngành. Dân chủ ngày càng được mở rộng. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Quốc hội đã có nhiều đổi mới quan trọng, tập trung vào thực hiện chức
năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và quyền
giám sát tối cao. Điều này được thể hiện rất rõ ở cách thức Quốc hội lấy ý
kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong xây dựng và ban hành pháp luật.
Thơng qua hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp, nhân dân được tham gia
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Cơ cấu và hoạt động của
bộ máy hành pháp, tư pháp được phân định ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn và
có nhiều chuyển biến tích cực. Với Quy chế dân chủ ở cơ sở, hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội ngày càng có
hiệu quả thơng qua các cuộc vận động xã hội đầy ý nghĩa, thu hút được đơng
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được thì việc xây dựng
và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân trên thực tế vẫn cịn nhiều tồn tại, hạn chế và yếu kém:
"Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
6


dân còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc hội còn lúng túng trong việc thực
hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở
cịn yếu kém. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một

bộ phận công chức, nhất là ở các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc
của dân và doanh nghiệp, chậm được khắc phục. Mô hình tổ chức chính
quyền địa phương, nhất là tổ chức hội đồng nhân dân, còn những điểm bất
hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu. Hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi cịn mang tính hành chính,
hình thức. Dân chủ trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở
nhiều nơi không nghiêm". Hơn nữa, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật đối với nhân dân còn hạn chế.
III. Giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời gian tiếp theo
Để khắc phục các tồn tại, yếu kém và phát huy truyền thống dân tộc, nhân
văn, nhân đạo của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cần tập
trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
1. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây
dựng nhà nước và quản lý xã hội, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân: Trong lĩnh vực xây dựng nhà nước, quyền dân chủ và làm chủ của
nhân dân được thực hiện bằng phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp. Ở cơ sở, dân chủ và quyền làm chủ của dân được thực hiện bằng các
hoạt động tự quản trong cộng đồng với những thỏa thuận tự nguyện không
trái với pháp luật hiện hành và được tồn thể cộng đồng thơng qua. Trong
quản lý xã hội: thực hiện cơ chế “nhà nước và nhân dân cùng làm” để cùng
nhau huy động và phối hợp các nguồn lực; tham gia quản lý thông qua các tổ
chức, thiết chế phi nhà nước hay bằng sự kết hợp, phối hợp với các tổ chức,
các phong trào, các nguồn lực để phát triển kinh tế - văn hóa, xây dựng xã hội
lành mạnh và nhằm giải quyết các vấn đề trong đời sống xã hội, gắn với lợi
ích và nhu cầu của nhân dân.
7


2. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực

hiện pháp luật:  Coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
bảo đảm cho luật pháp thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và quyền lực của
dân, thực sự bảo vệ được các quyền của công dân. Nhà nước quản lý, điều
hành bằng pháp luật. Do đó, luật pháp chiếm vị trí tối thượng trong hoạt động
của Nhà nước và trong đời sống xã hội. Một trong những biểu hiện của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là pháp luật của Nhà nước được thể chế
hóa và bảo vệ quyền của cơng dân và quyền của con người. Điều này thể hiện
tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc của hệ thống luật pháp thuộc Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Muốn vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật phải tuân thủ các
nguyên tắc: Một là, bảo đảm sự phù hợp giữa ý chí chủ quan với tồn tại khách
quan trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hai là, bảo đảm dân
chủ trong xây dựng pháp luật. Ba là, bảo đảm pháp chế trong xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bốn là, bảo đảm tính khoa học trong xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Năm là, bảo đảm tính hiệu quả của điều
chỉnh pháp luật. Sáu là, bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật quốc gia với luật
pháp quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập. Bảy là, bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
3. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội: Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của Quốc hội theo hướng xây dựng Quốc hội bảo đảm thực
hiện được vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn do Hiến pháp và luật quy
định và cần thực hiện một số giải pháp như: tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu
quả việc thực hiện các chức năng của Quốc hội; phát huy vai trò, trách nhiệm,
nâng cao năng lực, bản lĩnh và nghiệp vụ hoạt động đại biểu của đại biểu
Quốc hội; tiếp tục kiện toàn các cơ quan của Quốc hội; tăng cường mối quan

8



hệ giữa Quốc hội với nhân dân; bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho hoạt
động của Quốc hội.
4. Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước theo yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Xây dựng nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất và năng lực đáp
ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Trong quá trình
thực hiện phải cải cách đồng bộ các yếu tố của nền hành chính nhà nước: Thứ
nhất, cải cách thể chế nền hành chính. Thứ hai, cải cách tổ chức hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa
phương. Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức. Thứ tư, tiếp tục đổi mới chế độ tài chính cơng và tài sản cơng.
5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp theo ý cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa:  Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo hướng:
"Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy
cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với
hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến
pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp". Đổi mới tổ chức và
hoạt động tư pháp cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Một là, tiếp
tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho hoạt động tư pháp. Hai là, đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ
quan tư pháp. Ba là, chấn chỉnh các tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp. Bốn
là, đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng về số lượng
và chất lượng theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
6. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là cần phải

9


đáp ứng những yêu cầu sau: Một là, có năng lực chuyên môn nghiệp vụ đáp
ứng yêu cầu công việc. Hai là, tận tâm, mẫn cán với công việc, thể hiện trách
nhiệm và đạo đức công vụ khi thực hiện cơng việc. Có tinh thần hợp tác, giúp
đỡ đồng nghiệp. Ba là, thực hiện đúng các quy định của pháp luật với ý thức
tự giác và kỷ luật nghiêm minh.
Cải cách tư pháp phải thể hiện và phát huy các quan điểm của Đảng
về vấn đề này. Đó là, cải cách tư pháp phải bảo đảm giữ vững bản chất dân
chủ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của các cơ quan tư pháp; phải
được tiến hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan lập
pháp, hành pháp, bảo đảm sự phân công rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền
lực nhà nước là thống nhất, không phân chia; cải cách tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp phải bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, luật, bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật; tổ chức và hoạt động
tư pháp phải cơng bằng, bình đẳng và dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các quyền
tự do của con người; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp phải đáp ứng các
yêu cầu của hội nhập quốc tế và khu vực.
1. Để đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam được người làm chủ là nhân dân tín nhiệm và tin cậy giao trách nhiệm
lãnh đạo Nhà nước, cần phải nâng tầm trí tuệ và tư tưởng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và phong cách lãnh đạo, kiên quyết khắc phục bệnh quan liêu, thành
tích, cơ hội, thực dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Phong cách lãnh
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được học tập và làm theo một cách có hiệu
quả, nói cần phải đi đơi với làm và làm một cách thiết thực. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được quy định rõ trong điều 4 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước,

không bao biện, làm thay công việc của Nhà nước nhưng Đảng phải nắm chắc
công việc của Nhà nước để không bị động, lúng túng trong lãnh đạo Nhà
10


nước. Đồng thời, Đảng phải luôn khắc phục nguy cơ tiềm ẩn của một đảng
cầm quyền, như: xa dân, chủ quan, duy ý chí và quan liêu trong xây dựng chủ
trương, đường lối; dễ áp đặt ý muốn chủ quan đối với các cơ quan nhà nước
hoặc tự đặt Đảng lên trên Nhà nước và pháp luật. Vì vậy, cùng với quá trình
tự đổi mới, tự chỉnh đốn, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, cần phải đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính
trị. Trước mắt, cần tập trung nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để phân định và
làm rõ mối quan hệ trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ” trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế. Giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, mở rộng dân chủ và phát huy
được quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Đảng và Nhà nước. Xây
dựng và hoàn thiện các quy chế phối hợp giữa các tổ chức đảng, các ban của
cấp ủy với các cơ quan, tổ chức nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội...
2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội,
giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố và mở rộng quan hệ
đối ngoại với các nước trên thế giới, đồng thời quản lý, điều hành mọi hoạt
động xây dựng và thi hành luật pháp, cần phải được hoàn thiện về bộ máy tổ
chức, trong đó chất lượng của con người trong từng tổ chức, từng cơ quan của
bộ máy nhà nước cần được nâng lên một tầm cao mới. Nhiệm vụ của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thực hiện nguyện vọng chính
đáng của nhân dân và Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đưa đất

nước vững chắc tiến đến mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh".
3. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật để nhân dân hiểu được bản
chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nắm vững
11


và thực hiện quyền làm chủ và nghĩa vụ công dân của mình, hiểu được mọi
quyền lực của Nhà nước đều do dân giao cho, các cơ quan nhà nước khơng tự
có quyền lực. Quyền lực của dân được thể hiện qua việc bầu ra cơ quan đại
diện cho mình để xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, giám sát hoạt
động của bộ máy nhà nước các cấp thơng qua các bộ luật này. Điều này thể
hiện tính dân chủ, tính nhân văn của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam - một nhà nước mang tính nhân dân sâu sắc. Bên cạnh đó cần đẩy
mạnh việc giáo dục tư tưởng dân chủ và ý thức tôn trọng pháp luật cho nhân
dân và trách nhiệm của họ trong việc tham gia xây dựng luật pháp, giám sát
việc thi hành luật pháp và tự giác chấp hành luật pháp.
4. Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội theo
hướng: xây dựng Quốc hội bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ và kịp thời tất cả
các quyền hạn, nhiệm vụ do Hiến pháp và luật quy định theo tinh thần Đại hội
X của Đảng là: "Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu
Quốc hội..."2; nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và thực hiện các chức năng giám sát của Quốc hội;
phát huy vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng lực của đại biểu Quốc hội; tăng
cường mối quan hệ hai chiều giữa Quốc hội với nhân dân.
5. Coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cho luật
pháp thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo vệ
được các quyền của công dân. Nhà nước quản lý, điều hành bằng pháp luật.
Do đó, luật pháp chiếm vị trí tối thượng trong hoạt động của Nhà nước và
trong đời sống xã hội. Một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa là pháp luật của Nhà nước được thể chế hóa và bảo vệ quyền
của cơng dân và quyền của con người. Điều này thể hiện tính nhân văn, nhân
đạo sâu sắc của hệ thống luật pháp thuộc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Muốn vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và
tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc: Một là,
bảo đảm sự phù hợp giữa ý chí chủ quan với tồn tại khách quan trong xây
12


dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hai là, bảo đảm dân chủ trong xây
dựng pháp luật. Ba là, bảo đảm pháp chế trong xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Bốn là, bảo đảm tính khoa học trong xây dựng và hồn thiện
hệ thống pháp luật. Năm là, bảo đảm tính hiệu quả của điều chỉnh pháp
luật. Sáu là, bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật quốc gia với luật pháp quốc
tế mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập. Bảy là, bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ
chức thực hiện pháp luật.
6. Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo hướng: "Xây dựng hệ thống cơ quan tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền
con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử
làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng
cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp". Đổi mới tổ chức và Cải cách tư pháp phải thể hiện và
phát huy các quan điểm của Đảng về vấn đề này. Đó là, cải cách tư pháp phải
bảo đảm giữ vững bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
của các cơ quan tư pháp; phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và
hoạt động của cơ quan lập pháp, hành pháp, bảo đảm sự phân công rõ ràng và
sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia; cải

cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phải bảo đảm tính tối cao
của Hiến pháp, luật, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp
luật; tổ chức và hoạt động tư pháp phải cơng bằng, bình đẳng và dân chủ, tôn
trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người; cải cách tổ chức và hoạt động
tư pháp phải đáp ứng các yêu cầu của hội nhập quốc tế và khu vực.
7. Tiếp tục cải cách mạnh mẽ nền hành chính nhà nước. Nền hành chính nhà
nước là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và chính
quyền địa phương, cơ sở gắn với hệ thống thể chế hành chính, đội ngũ cán bộ,
13


cơng chức và hệ thống quản lý tài chính cơng, tài sản công, thực thi quyền
hành pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó bảo
đảm cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội
được thực hiện theo chương trình, kế hoạch đã đề ra; xử lý các tình huống,
diễn biến phát sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước mắt,
cần tập trung: "Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động
của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất,
thơng suốt, hiện đại. Luật hóa cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản
lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao
quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc
quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ
tài chính đối với Trung ương". Trong quá trình thực hiện phải cải cách đồng
bộ các yếu tố của nền hành chính nhà nước: Thứ nhất, cải cách thể chế nền
hành chính. Thứ hai, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính
nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương. Thứ ba, đổi mới, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức. Thứ tư, đẩy mạnh cải cách tài
chính cơng.
8. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất; đồng thời,

đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những tiêu cực khác đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo.
Đội ngũ cán bộ có vai trị quyết định sự thành bại của cách mạng và hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Cần phân cơng lao động hợp lý đội
ngũ cán bộ, cơng chức, tránh tình trạng bộ máy hành chính phình ra q lớn
và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và
phẩm chất đạo đức. Thực hiện trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ
lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới
thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Phải kết hợp chặt chẽ các
14


khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, sắp xếp, bố trí,
điều động cán bộ và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ và
công tác cán bộ để xây dựng một đội ngũ cán bộ có tâm, đức, năng lực và
thực sự là cơng bộc của dân.
Có ngăn chặn và chống được quan liêu, tham nhũng mới xây dựng được
Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Tồn bộ hệ thống chính trị và tồn dân phải có quyết tâm chính trị cao đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí thì cuộc đấu tranh mới có hiệu quả.
9. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện hơn nữa cho người dân thể hiện
quyền dân chủ và trách nhiệm của mình thơng qua các hoạt động tự quản ở
địa phương và cơ sở. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được Hiến
pháp quy định, song Nhà nước không thể làm hết mọi công việc trong xã hội.
Hiện nay, hoạt động tự quản của người dân đang được phát huy và đã có đóng
góp đáng kể vào quản lý xã hội. Đây là kết quả quan trọng trong việc dân chủ
hóa các hoạt động kinh tế - xã hội, sự đổi mới rất cơ bản về mối quan hệ giữa
Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đây cũng là nét đặc
trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một nhà

nước mang tính nhân dân sâu sắc. Thực tế đã chứng minh: ở đâu thực hiện
tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, dân được tự quản các hoạt động thì ở đó mọi
sáng kiến của dân, nguồn lực của dân được phát huy, được quản lý chặt chẽ,
khối đoàn kết thống nhất trong dân được củng cố, tăng cường, góp phần xứng
đáng vào xây dựng vững chắc hệ thống chính trị ở cơ sở; đặc biệt mối quan hệ
giữa Đảng - Nhà nước và nhân dân được gắn bó và phát huy với hiệu quả cao.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các
cấp với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm thực hiện của toàn
bộ hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo thực sự với bao nhiêu "quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân" như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ

X,XI,XII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2.

Hiếp pháp năm 2013. Bình luận Hiến pháp, Nxb Chính trị Quốc gia.

3.

Báo cáo tổng kết tình hình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật giai

đoạn 2011-2016 của Chính phủ.

4.

Một số văn bản quy quy phạm pháp luật.

5.

Giáo trình và các tài liệu bài giảng của môn học.

16



×