Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phân tích ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Liên hệ thực tiễn địa phương.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.95 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

PHÂN TÍCH Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG. LIÊN
HỆ THỰC TIỄN ĐỊA PHƯƠNG.
NGUYỄN QUANG LONG
Lớp: GMA63ĐH-CTTTG13

Mã sinh viên: 97732

Khoa: Viện Đào tạo Quốc tế
Khóa năm: 2022 – 2026
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: VŨ PHÚ DƯỠNG

Hải Phòng – 2022


MẪU ĐĂNG KÝ TIỂU LUẬN
GỬI GIÁO VIÊN PHỤ TRÁCH GÓP Ý KIẾN

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Quang Long
Tên tiểu luận: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu mối quan hệ
biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Liên hệ thực tiễ địa phương.
Đề tài tiểu luận được lấy từ nguồn: Theo yêu cầu của thầy Vũ Phú Dưỡng chia
theo từng nhóm làm bài tiểu luận.
Kết cấu phần nội dung:
I.



Phân tích ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện

chứng giữa cái riêng và cái chung.
II.

Liên hệ thực tiễn địa phương.
Ngày 30 tháng 11 năm 2022
Long
Nguyễn Quang Long


MỤC LỤC
M
Ở ĐẦU................................................................................................................4
NỘI
DUNG............................................................................................................5
I. Các khái
niệm……………………………………………………………….5
II. Mối quan hệ biện
chứng…………………………………………………....7
Phái duy
thực.................................................................................................7
Phái duy
thanh...............................................................................................7
Phép biện chứng duy vật...............................................................................8
Thứ
nhất...................................................................................................8
Thứ
hai......................................................................................................9

Thứ ba.......................................................................................................9
Thứ tư......................................................................................................10
III. Ý nghĩa phương pháp luận...........................................................................11
IV. Liên hệ thực tiễn địa
phương…………………….......................................12


1.
Gia đình......................................................................................................12
2.Giáo
dục.....................................................................................................14
3.Xã
hội.........................................................................................................16
KẾT
LUẬN………………………………………………………………………18
TÀI LIỆU THAM
KHẢO....................................................................................19
L
ỜI CAM ĐOAN..................................................................................................20


MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỳ nguyên của tri thức, địi hỏi mỗi con người
phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo
đức, ý thức lao động, ý thức cộng đồng, bảo vệ tài nguyên, môi trường... để đáp
ứng yêu cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ cũng như sự biến đổi ngày càng
nhanh của xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu,

quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Chúng ta phải
khẳng định rằng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế
xã hội. Đồng thời những con người ấy phải có tri thức, có đạo đức.
Đặt mỗi cá nhân vào mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội
ta lại càng thấy tầm quan trọng giữa mối liên hệ chung – riêng. Theo quan điểm
triết học Mác – Lê nin: “Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời
gian nhất định và khi nó mất đi sẽ khơng bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái
không lặp lại Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất
đi thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn cịn tồn tại
ở nhiều cái riêng khác.”
Để tìm hiểu một cách rõ ràng hơn về mối quan hệ biện chứng giữa cái
riêng, cái chung và cái đơn nhất cũng như áp dụng vào thực tiễn, em đi vào nghiên
cứu đề tài “Phân tích ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu mối quan
hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Từ đó liên hệ thực tiễn địa
phương.”


NỘI DUNG
I. Các khái niệm
“Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các
sự kiện, sự vật, hiện tượng rất khác nhau về màu sắc, trạnh thái, tính chất, hinh
dáng, kích thước,... nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm,
thuộc tính chung giống nhau
+ Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khác quan”.1
+ Ví dụ: ngôi nhà, cái bản, hiện tượng ô nhiễm môi trường, q trình
nghiên cứu thị trường của một cơng ti.
“Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong các cấu
trúc sự vật khác. Tinh chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn
nhất là một phạm trù triết học dung để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tỉnh

chỉ tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất định và không lặp lại ở kết cấu vật chất khác.
Tính cách của một người, vân tay, nền văn hóa của một dân tộc .... là những cái
đơn nhất. Như vậy, cái đơn nhất không phải là một sự vật, một hiện tượng đơn lẻ
mà nó tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là đặc trưng của cái riêng.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung
khơng những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều
sự vật, hiện tượng hay q trình riêng lẻ khác”2.

1

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Triết học Mác – Lênin,Nxb.

Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.7- 50.
2

Học viện chính trị- hành chính khu vực I, Khoa Triết học, Giáo trình Triết học Mác- Lênin, tập 1, Nxb Chínhtrị

Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.102 - 144.


Ví dụ: Cái chung của người Việt Nam là có một lịng lồng nàn u
nước, tỉnh thần đồn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập của
nước nhà.
+ “Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công
nhân làm thuê.
+ Cái đơn nhất là một phạm trù triết học chỉ những mặt, những thuộc
tính ... chỉ có ở một sự vật mà không lặp lại ở sự vật khác”.3
Ví dụ: Đều là cây nhưng sao mỗi loại cây lại đặc điểm khác nhau.
Chẳng hạn đều là hồng đỏ có mùi hương thoang thoảng, hoa hồng vàng có mùi
hương thơm ngát, hoa hồng xanh mùi hương gần gũi, kiêu sa.

* Phân biện cái chung bản chất và cái chung không bản chất
Khái niệm: “Cái chung không bản chấtlà cái chung thường do sự ngẫu hợp
mà có.
Có thể như cái chug bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là
vật chất luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của cái chung. Tính
chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình
vật chất khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn
liền với nhau”.4
Ví dụ: Cuộc cách mạng là cái chung, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái
khác tiến bộ hơn. Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách mạng tư
sản, cách mạng dân tộc dân chủ), đó là những cái riêng.
+ “Còn cái chung bản chất lại là cái chungi giống nhau của rất nhiều sự vật

3

Học viện chính trị- hành chính khu vực I, Khoa Triết học, Giáo trình Triết học Mác- Lênin, tập 1, Nxb Chínhtrị

Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.102 - 144.
4

Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viênđại

học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia Sựthật.


hiện tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào
đó”.5
Ví dụ: Cái chung của các loại cây là quá trình quang hợp, hô hấp, trao
đổichất với môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà khơng có những đặc
điểm đấy sao con gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung bản chất chínhlà

tình cảm, mối quan hệ với gia đình, xã hội.
II. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Những nhà nghiên cứu triết học Mác - Lenin đề cập đến có hai quan
điểmtrái ngược nhau về mối quan hệ giữa “cái riêng” và “cái chung”, đó là phái
duythực và phát duy danh. Triết học Mác - Lênin cho rằng, cả quan niệm của
pháiduy thực và phái dư danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái
chung, tuyệt đối hóa cái riêng phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại.
Phái duy thực
“Phải duy thực là trường phái triết học có ý kiến về mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, theo phái này thì cái riêng chỉ tồn tại tạm thời, thống qua,
khơng phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có cái chung mới tồn tại vĩnh viễn, thậtsự
độc lập với ý thức của con người. Cái chung không phụ thuộc vào cái riêng, mà
còn sinh ra cái riêng. Cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những
cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra”.6
Phái duy danh

5

Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viênđại

học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia Sựthật.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Triết học Mác – Lênin,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 50-74.
6


“Phái duy Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái
chung là những tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì
trong hiện thực. Quan điểm này khơng thừa nhận nội dung khách quan của các
khái niệm. Những khái niệm cụ thể đơi khi khơng có ý nghĩa gì trong cuộc sống

của con người, chỉ là những từ trống rỗng, khơng cần thiết phải bận tâm tìm hiểu.
Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhịa và con người
khơng cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx - Lenin cho rằng cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ
với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính chung khơng những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn
được lặp lại trong nhiều sự vật , hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác”.7
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chi tồn
tại trong mỗi liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung.
Bất cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của
cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật
riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”.
- Lê – nin Cụ thể là:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là khơng có cái chung thuần túy tồn tại bên ngồi
cái riêng.

Học viện chính trị Khu vưc I, Triết học Mác - Lênin, Những vấn đề lý luận cơ bản, Nxb Văn hóa- Thơng tin,Hà
Nội 2014, tr. 57 - 146.
7


Chẳng hạn, khơng có sinh viên nói chung nào tồn tại bên cạnh sinh viên
ngành kinh tế đầu tư, sinh viên ngành kinh tế phát triển... nào cũng phải đến trường
học tập, nghiên cứu, thi cử theo nội quy nhà trường. Những đặc tính chung này lặp
lại ở những sinh viên riêng lẻ và được phản ánh trong khái niệm “sinh viên".
Hay như quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung,

không thế thì khơng phải là nhà tư bản, nhưng quy luật đó được thể hiện ra ngồi
dưới những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng). Rõ ràng, cái chung tồn tại
thực sự nhưng khơng tồn tại ngồi cái riêng mà phải thông qua cái riêng để biẻu thị
sự tồn tại của mình.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là
khơng có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, khơng có liên hệ với cái chung.
Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người khơng thể tồn tại
ngồi mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác
động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong
mỗi con người.
Một ví dụ khác, nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc
điểm phong phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối
bởi quy luật cung câu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy, sự vật hiện tượng nào cũng bao
hàm cái chung.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái
bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngồi
những đặc điểm chung, cái riêng cịn có đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng,
vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhên, lặp
phong phú hơn cái chung, vì ngồi những đặc điểm chung, cái riêng cịn có
đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái chung phản ánh những thuộc tính,
những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại nhiều cái riêng cùng loại.


Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng
tồn tại và phát triển cảu cái riêng. Cái riêng là sự kết hợp giữa cái chung và cái đơn
nhất. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, cịn cái
riêng là cái tồn bộ vì nó là tập thể sống động, trong mỗi cái riêng luôn tồn tại
đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất.
Nhờ thế, giữa những cái riêng ln có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua

lại lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, sự và chạm giữa những cái riêng vừa làm cho
những sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa bởi
cải đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể
được phát hiện ...
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá
trình phát triển của sự vật. Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới khơng bao giờ
xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo
quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái phổ
biến.
Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không
phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự
chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện cái mới ra đời thay thế cái
cũ. Đồng thời sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá
trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định, bị thay thế bằng cái mới.
Ví dụ, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trường diễn ra bằng
cách ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều
kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến
của nhiều cá thể. Những đặc tính khơng phù hợp với điều kiện mới sẽ mất dần đi
và trở thành cái đơn nhất.
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính


tươngđối. Có những đặc điểm xét trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất nhưng
xéttrong nhóm sự vật khác lại là cái chung”. 8
Ví dụ: quy luật cung cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường nhưng
trong tồn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó chỉ là cái đơn nhất, đặc
trưng cho nền kinh tế thị trường, mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình
thức khác như kinh tế tự cung tự cấp.
“Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong những điều kiện
nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại, cái chung có

thể biến thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và
cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất”.
Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không
hề đơn giản, Lênin đã cho rằng: “Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện
chứng của cái riêng và cái chung”. 9
- Lê – nin III. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ viêc phát hiện mối qua hệ biễn chứng giữ cái chung và cái riêng. Triết
học mác – Lênin nêu ra một số ý nghĩa có phương pháp luận cho mối quan hệ
này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
“Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những
sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con
người bên ngồi cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.

Học viện chính trị Khu vưc I, Triết học Mác - Lênin, Những vấn đề lý luận cơ bản, Nxb Văn hóa- Thông tin,
Hà Nội 2014, tr. 57 - 146.
9
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viênđại
học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia Sựthật.
8


Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải
nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý
chung (không hiểu biết lý luận), sẽ khơng tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động
một cách mị mẫm, mù qng.
Trong q trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định (cái
đơn nhất) có thể biế thành (cái chung) và ngược lại (cái chung) có thể biến thành

(cái đơn nhất), nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần tạo điều kiện
thuận lợi để (cái đơn nhất) có lợi cho con người trở thành (cái chung) và (cái
chung) bất lợi
để trở thành (cái đơn nhất).” 10
Trong bút ký Triết học, Leenin viết:
“Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước Khi giải quyết vấn đề
chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi những vấp váp
vấn
đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó
trong
trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính sách cua rmifnh đến chỗ có
sự
giao động tồi tệ nhất và mất đi hẳn những nguyên tắc.”
IV. Liên hệ thực tiễn địa phương
1. Gia đình
Trong bất kỳ một mối quan hệ nào cũng đều chứa đựng những nét chung và
nét riêng biệt vậy nên trước tiên em đi xét về mối quan hệ giữa bản thân và gia
đình:
10

Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viênđại

học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia Sựthật.


Gia đình là tổ ấm là nơi chở che là bến bờ vững chắc cho mỗi cá nhân, mỗi
con người. Ngồi ra, nơi đây cịn là một tổ hợp của các chỉnh thể có các mối liên
hệ với nhau như vợ-chồng, cha mẹ-con, cháu –ông, bà… họ sống hạnh phúc, đầm
ấm và chan hịa. Ở đó tình thương được tồn tại, được vun đắp và gieo trồng trong
mỗi con người. Còn bản thân là một cái riêng mang những đặc tính riêng biệt về

tính cách, học vấn, nhận thức, cách giao tiếp, .... cái riêng này tạo nên sự khác biệt
cho mỗi thành viên trong gia đình.
Cụ thể hóa một chút ta thấy mỗi con người sinh ra đểu có họ tên, ngày tháng
năm sinh, có các đặc điểm nhận dạng dấu vân tay, vân tai... đặc điểm di truyền như
ADN, tính cách: nhu mì, hiền lành... tất cả những đặc điểm đó tạo nên sự khác biệt
giữa các thành viên với nhau cũng như giữa những con ngưới với con người
trong một xã hội. Cịn đối với gia đình, khi ta nhắc đến 2 từ đó thơi thì ta cũng có
thể hình dung ra được những đặc điểm chung nhất để tạo nên một gia đình đó là
mỗi thành viên trong gia đình đó có mối liên hệ với nhau về mặt huyết thống hay
có mối liên hệ về mặt luật pháp: ông, bà, cha, me, con, anh chị em... Tất cả họ cùng
sống trong một mái nhà cùng lao động, cùng sinh hoạt, cùng xây đắp nên một gia
đình hồn chỉnh hơn. Và gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình
thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội.
Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những người thầy thân yêu là
cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng, hịa nhập vào
đời sống cộng đồng như cách ứng xử giữa các thành viên gia đình (cha mẹ thương
u chân thành, tơn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà vừa yêu quý, vừa nghiêm
khắc và bao dung với con cháu), giữa gia đình với họ hàng, với láng giềng, với
cộng đồng (trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hịa, ghét thói gian tham,
điều giả dối), qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những
bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát
triển nhân cách.


Trong gia đình, người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính,
vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau...Ở đó,
mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương: từ khoảng sân, mái nhà, chiếc
giường, ... đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Từ đó khi đi phân tích mối i quan hệ giữa bản thân với gia đình ta nên nghĩ

ngay đến sự tác động qua lại giữa chúng. Bản thân là một cái riêng, chứa những cái
riêng góp phần vào cái chung “gia đình” để tạo nên cái riêng biệt cho cái chung đó.
Và cũng từ những cái chung căn bản đó chúng ta gần gũi, gắn kết, có tinh thần
trách nhiệm hơn đối với gia đình tuy nhiên khơng hề đánh mất đi cái riêng, sở
trường của bản thân bởi chính mái ấm đó đã tạo điều kiện cho cái riêng phát
triển mạnh mẽ hơn, do được đáp ứng chăm sóc đầy đủ các nhu cầu về vật chất lẫn
tinh thần.
2. Giáo dục
Đảng và Nhà nước ta đã và đang tính nhất quán trong ưu tiên phát triển
giáo dục và đào tạo. “Một là, kế thừa các văn kiện quan trọng của Đảng
trong
các giai đoạn trước đây, Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) đã đưa
ra những quan điểm, định hướng lớn về phát triển giáo dục và đào tạo, chỉ
rõ: “
Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển
của
xã hội”
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2015-2025 xác định: “Phát triển giáo


dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục Việt
Nam
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc
tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý là khâu then chốt”
Đối với triết học Mác -Lênin, mối quan hệ giữa mối chúng ta- sinh viên với
nhà trường là một mối quan hệ gắn bó mật thiết, liên hệ với nhau. Xét trong nền

giao dục nước nhà, nhà trường là một cái riêng. Mỗi nhà trường đều có chung
những đặc điểm như đều có tên trường, có đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên,
có thiết bị dụng cụ phục vụ học tập, có nội quy, quy định của nhà trường... đó
chính là cái chung mà mỗi nhà trường đều có. Tên cụ thể mỗi trường, mỗi sinh
viên, học sinh hay mỗi phương pháp dạy học riêng của trường... là các cái đơn
nhất, là đặc trưng của một trường mà khơng trường nào có cả. Cái đơn nhất của
mỗi trường tạo nên cái riêng biệt, đặc trưng của trưng của trường đó, đặc điểm để
phân biệt giữa các trường với nhau.
Nhà trường và mỗi bản thân chúng ta đều tồn tại một cách khách quan, trong
đó sinh viên tồn tại trong nhà trường, thể hiện năng lực nhận thức của bản thân qua
các phương pháp học tập khác nhau. Ta có thể thấy được nhà trường là cái tồn bộ,
cịn giáo viên, sinh viên, ... là một bộ phận khẳng định và thể hiện nhà trường, nó
sâu sắc bản chất hơn nhà trường. Trong nhà trường mỗi sinh viên là một cái riêng,
mỗi sinh viên lại có một phương pháp học tập khác nhau tạo nên cái đơn nhất cho
nhà trường, nhưng khi phương pháp học tập đó có hiệu quả cao và được chia sẻ
rộng rãi cho nhiều người, điều đó sẽ tạo nên cái chung giữa các sinh viên. Từ đó ta
thấy được cái đơn nhất đã chuyển hóa thành cái chung trong điều kiện nhất định.


Áp dụng cái chung- cái riêng của triết học Mác- Leenin vào phương pháp
quản lí sinh viên, học sinh của mỗi nhà trường: Mỗi nhà trường đều chọn cho mình
những giáo viên, học sinh, sinh viên ưu tú, đủ điều kiện mà nhà trường đặt ra, có
năng lực và khả năng tạo được nét riêng cho nhà trường. Trong quá trình dạy và
học, mỗi giáo viên, mỗi sinh viên phải chọn cho mình phương pháp dạy và
học tối ưu hiệu quả nhất để có thể phát huy hết tiềm năng của bản thân mình. Khi
phương pháp đó là hữu ích, nó được chia sẻ, áp dụng rộng rãi cho tất cả mọi người,
từ đó giúp cho mọi người đi đúng hướng việc học tập trở nên dễ dàng và đạt hiệu
quả cao hơn. Qua quá trình học tập một bộ phận học sinh, sinh viên chưa đạt kết
quả cao, không đủ điều kiện để dự thi thì phải được đào tạo lại, đến khi đủ điều
kiện và đạt được kết quả tốt hơn. Mặt khác một bộ phận học sinh, sinh viên có

phương pháp học tập tốt hơn đạt kết quả cao trong học tập và được nhà trường
khen thưởng qua các mức khác nhau như: xuất sắc, tiên tiến...hay xếp loại: giỏi,
khá, trung bình, yếu...
Về các hoạt động cho sinh viên, nhà trường ln vận động, khuyến khích
sinh viên tham gia các hoạt động tình nguyện, vui chơi lành mạnh và hạn chế
những hoạt động vô bổ, không làh mạnh diễn ra trong nhà trường, đồng thời đặt ra
những quy định yêu cầu học sinh, sinh viên, cán bộ giáo viên phải tuân theo.
Xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu những chủ nhân tương lai của đất
nước- mỗi sinh viên phải khơng ngừng ngày càng nâng cao trình độ, kiến thức của
mình, hồn thiện bản thân. Mỗi sinh viên cần năng động, sáng tạo, khơng ngừng
tìm tịi nghiên cứu để tìm ra, nghiên cứu ra những cái hay cái mới có ích cho bản
thân, cho xã hội và cho đất nước. Không chỉ vậy nhà trường cũng phải tạo điều
kiện tốt nhất cho sinh viên học tập đạt kết quả tốt nhất, phải không ngừng thay đổi
cái lỗi thời, lạc hậu bằng cái mới, hiện đại hơn, tiên tiến hơn nhằm tạo ra một thế
hệ tương lai tốt nhất cho đất nước.
3. Xã hội


Xét về mối quan hệ giữa bản thân với xã hội, ta thấy cái riêng là cá nhân, cái
chung là xã hội. Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân là một
chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác
với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ...
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ... Xã
hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những cá nhân này sống và hoạt động
trong nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử quy định.
Trong quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân biểu
hiện ra với tư cách như sau:
Cá nhân là phương thức tồn tại của lồi “người”. Khơng có con người nói
chung, loài người tồn tại độc lập.
Cá nhân là cá thể riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một

chỉnh thể tồn vẹn có nhân cách.
Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.
Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó với nhau, chuyển
hóa lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng. Mác cho rằng: “Chỉ có trong tập thể mới
có những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát triển tồn diện những
năng khiếu của mình... chỉ có trong tập thể mới có tự do cá nhân.”
Mỗi cá nhân trong một tập thể phải biết phát huy điểm mạnh của mình, biến
cái đơn nhất có lợi thành cái chung, biến cái chung bất lợi thành cái đơn nhất. Khi
làm bất cứ một vấn đề gì cũng phải xem xét giải quyết vấn đề sao cho hợp lý nhất.
Có như thế thì con đường đến thành công của bạn sẽ ngắn đi rất nhiều đấy.


Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình
Cao cấp lý luận chính trị, Triết
học Mác – Lênin,
11

11
12

12


KẾT LUẬN
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Cái chung là một phạm trù
triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau,
hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật,
sự lặp lại.

Giữa cái riêng và cái chung ln có mối quan hệ gắn bỏ chặt chẽ với nhau.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại của
mình; cịn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung. Áp dụng một cách
nhuần nhuyễn, hợp lý triết học vào cuộc sống, công việc để mang lại một hiệu quả
tốt nhất. Tất cả là bởi vì: “Học phải đi đơi với hành, giáo dục phải gắn liền với thực
tiễn."
Trên đây là bài tiểu luận của em, trong q trình làm bài khó tránh khỏi thiếu
sót, em rất mong nhận được góp ý của Thầy cơ để hoàn thiện tốt hơn trong các bài
tiểu luận sắp tới.
Em xin chân thành cảm ơn!



×