BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Đề bài: Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng và việc thực
hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình
Đặt vấn đề
Đời sống kinh tế – xã hội có nhiều thay đổi các quy định của pháp luật cũng
cần thay đổi cho phù hợp với yều cầu của thực tế. Nhận thức được vấn đề này
các nhà làm luật đã biết khéo léo dựa trên điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại cùng
với tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam, kế thừa và phát triển hệ thống
pháp luật hôn nhân và gia đình ở nước ta, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
đặc biệt là năm 2000 đã có những quy định rất mới về vấn đề tài sản riêng trong
đó có nói đến nghĩa vụ của vợ chồng đối với các tài sản này. Đây là một thành
công lớn bởi nó phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tạo sự linh hoạt khi thực
hiện quyền sở hữu chung và tính độc lập khi định đoạt tài sản riêng của vợ
chồng, vì lợi ích chung của gia đình; vùa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của những
người khác có liên quan đến tài sản của vợ chồng. Ngoài ra những quy định này
còn tạo cơ sở pháp lý trong thực tế áp dụng khi Tòa án giải quyết các tranh chấp
về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và với người khác.
Nhằm có một cách hiểu sâu rộng hơn những quy định về nghĩa vụ riêng về tài
sản của mỗi người và tầm quan trọng của vấn đề này đối với đời sống xã hội. Em
xin chọn đề tài: “Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng
và việc thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình”.
Nội dung
1. Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng
Cuộc sống vợ chồng khi quan hệ hôn nhân được xác lập đồi hỏi phải có một
khối tài sản trong đó tài sản riêng nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình và mỗi cá
nhân. Kế thừa và phát huy quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 về
1
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
những quy định có liên quan đến tài sản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã
dự liệu về căn cứ để thực hiện nghĩa vụ đối với các loại tài sản. Các quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về vấn đề tài sản cụ thể, dễ vận dụng hơn
nhiều so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trước đây. Điều 25 của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng
đối với giao dịch dân sự do một bên thực hiện.
"Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp
pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết
yếu của gia đình".
Như vậy từ Điều 25 ta có thể thấy các nhà làm luật đã dự liệu căn cứ để xác
định việc thực hiện nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ riêng chính là nhờ vào mục
đích xác lập giao dịch của mỗi bên vợ chồng. Nếu một bên thực hiện nghĩa vụ
giao dịch vì lợi ích chung của gia đình, đảm bảo nhu cầu cuộc sống thì đó là
nghĩa vụ chung, từ đó có thể suy ra nếu một bên thực hiện nghĩa vụ giao dịch vì
lợi ích riêng của cá nhân thì sẽ được xác định là nghĩa vụ riêng.
Cũng như vậy, Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định về chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung.
"Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình,
thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản
chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản
chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều
29 của Luật này".
2
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Quy định này lại cho ta thấy một căn cứ nữa đó chính là sự thỏa thuận của vợ
và chồng. Đối với tài sản chung của vợ chồng đều phải có sự thỏa thuận của hai
bên nếu hai bên đồng ý thì mới là nghĩa vụ chung của cả hai vợ chồng trừ trường
hợp tài sản chung đã được chia còn ngược lại nếu không có sự thỏa thuận thì đó
là nghĩa vụ riêng của mỗi bên vợ chồng và khi có hậu quả xảy ra thì mỗi bên
phải tự gánh chịu.
Cũng theo quy định tại Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình lật ngược lại vấn
đề ta sẽ thấy căn cứ thứ ba để xác định nghĩa vụ chung, hay nghĩa vụ riêng của
vợ chồng đó chính là việc vợ chồng dùng loại tài sản nào để thực hiện giao dịch.
Nếu dùng tài sản chung của vợ chồng đã được sự thỏa thuận của hai bên thì tất
nhiên đó là nghĩa vụ chung, còn nếu lấy tài sản riêng để thực hiện thì có thể xảy
ra hai trường hợp. Thứ nhất là tài sản riêng dùng vào mục đích riêng thì sẽ là
nghĩa vụ riêng, nhưng trường hợp thứ hai là tài sản riêng lại dùng để trang trải
cho cuộc sống gia đình thì nó lại là nghĩa vụ chung.
Tóm lại, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những căn cứ nhất định
trong việc xác định nghĩa vụ riêng đối với vợ, chồng. Những căn cứ này có ý
nghĩa quan trọng, là cơ sở pháp lí bảo đảm quyền và lợi ích của mỗi bên vợ,
chồng; giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản
trên thực tế.
2. Nội dung nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng
Vợ, chồng với tư cách là chủ sở hữu tài sản riêng của mình, có quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng đó một cách độc lập, không bị chi phối
bởi ý chí của người chồng, vợ kia (trừ trường hợp được quy định tại khoản 5
Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Đồng thời, theo quy định, vợ,
chồng cũng phải thực hiện nghĩa vụ đối với hành vi của vợ, chồng liên quan đến
tài sản của mỗi bên.
3
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 4 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, "tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu
của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng". Nói cách
khác, trường hợp cuộc sống chung của gia đình gặp nhiều khó khăn, tài sản
chung của vợ chồng không đủ bảo đảm cho những nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
hàng ngày của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì vợ, chồng có
nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng của mình nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu
đó của gia đình, bảo đảm cuộc sống của vợ chồng và các con. Đây cũng là một
trong những quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, liên quan
đến tài sản riêng của vợ chồng. Nghĩa vụ này của vợ, chồng xuất phát từ việc bảo
đảm lợi ích chung của gia đình.
Thứ hai, theo khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhần và gia đình năm 2000 thì
"nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của
người đó".
Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng tức là nợ riêng của vợ chồng phát sinh từ
các khoản nợ mà vợ, chồng vay người khác, sử dụng vào mục đích cá nhân, mà
không vì lợi ích chung của gia đình; hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác theo luật định (nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ chông, con mà
vợ, chồng phải thực hiện). Như vậy, theo quy định của pháp luật, vợ, chồng bằng
tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
2.1. Nghĩa vụ trả nợ
2.1.1. Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ
trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình.
Căn cứ vào Điều 25, khoản 5 Điều 33 và khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000, tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để thanh toán các
khoản nợ như:
4
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
- Nợ phát sinh nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
- Nợ liên quan đến việc tạo lập, quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản chung của
vợ chồng.
- Nợ liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng
chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình.
- Nợ phát sinh có liên quan đến công việc mà cả hai vợ chồng cùng thực
hiện.
- Nợ theo thỏa thuận của hai vợ chồng
2.1.2. Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác
trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu
thiết yếu và lợi ích chung của gia đình.
Các khoản nợ trên đây vợ, chồng vay từ trước hoặc trong thời kì hôn nhân đã
chỉ bảo đảm cho quyền lợi riêng của vợ, chồng. Vì vậy, vợ, chồng phải thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đó bằng tài sản riêng của mình, không thể buộc người chồng, vợ
kia phải liên đới thực hiện các nghĩa vụ này. Trước đây, Nghị quyết số 01/NQ-
HĐTP ngày 20/01/1988 cũng đã hướng dẫn: đối với các khoản nợ mà vợ, chồng
vay riêng tù trước khi kết hôn hoặc trong thời kì hôn nhân sử dụng vào mục đích
riêng thì có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tài sản riêng. Nếu tài sản riêng không
đủ trả nợ thì phải trích phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ
chồng (Theo Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986) để trả nợ.
2.1.3. Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử
dụng, định đoạt tài sản riêng. Trừ trường hợp, nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến
hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ
chồng không có thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của
vợ, chồng.
5
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Quá trình quản lí, sử dụng, bảo quản tài sản riêng của vợ, chồng trong thời
kì hôn nhân bằng các khoản chi phí mà vợ, chồng vay của người khác, theo
nguyên tắc, vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản riêng của
mình.
2.1.4. Nghĩa vụ phải trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ chồng
đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dich dân sự liên quan đến tài sản chung
có giá trị lớn của vợ chồng là nguồn sống duy nhất của gia đình.
Khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình: “Việc xác lập, thực hiện và
chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là
nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh
phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu
tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.”
Như vậy, nghĩa vụ về tài sản trái với quy định này là nghĩa vụ riêng về tài
sản.
2.2. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
2.2.1. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lý di sản
thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán hoặc làm hư
hỏng, mất mát di sản.
Theo Khoản 3 Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001:
“Trong trường hợp Toà án chưa cho chia di sản theo quy định tại khoản 1 Điều
này, thì bên còn sống chỉ có quyền sử dụng, khai thác để hưởng hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ di sản và phải giữ gìn, bảo quản di sản như đối với tài sản của
chính mình; không được thực hiện các giao dịch có liên quan đến việc định đoạt
di sản, nếu không được sự đồng ý của những người thừa kế khác.”.
6
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Trong trường hợp này, những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch vô hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản; vợ, chồng còn sống
mà quản lí di sản đó có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho những người thừa
kế khác theo quy định của pháp luật.
2.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật
của vợ chồng.
Về nguyên tắc, đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ,
chồng có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình; nếu
tài sản riêng không có hoặc không đủ thì sau khi chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân sẽ trích một phần để thực hiện nghĩa vụ. Cũng có thể nghĩa vụ tài sản
của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng
thỏa thuận.
2.3. Nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng
2.3.1. Các chi phí cho người mà vợ, chồng là người giám hộ của người đó
theo quy định của pháp luật dân sự và Luật hôn nhân và gia đình.
Người giám hộ có nghĩa vụ quản lý tài sản cảu người được giám hộ như tài
sản của chính mình. Người giám hộ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những
mất mát, hư tổn tài sản cảu người được giám hộ. Người giám hộ có nghĩa vụ bảo
vệ quyền và lợi ích của người giám hộ: cất giữ tài sản, trông nom, quản lý tài
sản.
Trường hợp vợ, chồng giám hộ cho người dưới 15 tuổi còn phải chăm sóc,
giáo dục người được giám hộ; vợ, chồng giám hộ cho người bị bệnh tâm thần
hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình còn
có nghĩa vụ chăm sóc, bảo đảm điều trị bệnh cho người được giám hộ. Người
giám hộ phải vì quyền lợi mọi mặt của người được giám hộ mà làm tất cả những
7
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
gì có thể kịp thời đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho người được giám hộ: ăn,
mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh… Về nguyên tắc, người giám hộ không phải bỏ
tài sản của mình để chăm sóc, giáo dục , đảm bảo việc điều trị bệnh cho người
được giám hộ. Chi phí cho những hoạt động này sẽ được lấy từ tài sản riêng của
người được giám hộ (nếu người được giám hộ có)
Trường hợp người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác thì người giám
hộ có nghĩa bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Trong trường hợp người
được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người
giám hộ có nghĩa vụ lấy tài sản của mình để bồi thường cho đủ.
2.3.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiên liên đới đối với
các thành viên trong gia đình.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, theo luật định, được
thực hiện nhằm bảo đảm quyền được cấp dưỡng của các thành viên trong gia
đình. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác
để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan
hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người
chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy
định của Luật hôn nhân và gia đình (khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000).
Như vậy, trong các quan hệ gia đình, vợ, chồng với tư cách là ông, bà, cha,
mẹ, con, cháu, anh, chị, em phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với các thành
viên trong gia đình theo quy định tại các điều từ Điều 47 đến Điều 62 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000.
Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi có đầy đủ các điều kiện sau:
8
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
- Giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng.
- Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không còn chung sống với
nhau
- Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, người đã thành niên
nhưng không có kahr năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là
người túng thiếu, khó khăn.
- Người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiên liên đới đối với các thành
viên trong gia đình gồm:
a) Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con
Căn cứ Điều 56, Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình: Khi ly hôn, cha mẹ
không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Theo quy định tại
Điểm a Điều 11Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP: “…người không trực tiếp
nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó,
không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người
không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong
trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi
con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc
yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự
nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc
bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.”
Nuôi dưỡng, giáo dục con là ngĩa vụ của cha và me. Vì vậy, dù rằng người
trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con không túng thiếu thì người không trực tiếp
nuôi dưỡng, giáo dục con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tiền cấp dưỡng
nuôi con bao gồm những chi phí về nuôi dưỡng và học hành của con, Tòa án căn
cứ vào khả năng kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và khả năng
9
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
kinh tế của người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con mà quyết định mức cấp
dưỡng nuôi con với từng đứa con cho hợp lý (Điểm b Điều 11Nghị quyết số
02/2000/NĐ-HĐTP). Không nhất thiết chia đôi mức phỉ tổn nuôi dưỡng, giáo
dục con cho mỗi bên chịu một nửa để ấn định mức cấp dưỡng nuôi con. Nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con phải thực hiện cho đến khi con đủ 18 tuổi. Trường hợp
con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình thì việc cấp dưỡng nuôi con vẫn
tiếp tục cho đến khi người con có thể lao động để tự nuôi mình.
b) Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ
Khoản 2 Điều 36 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “2. Con có nghĩa vụ và
quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu tàn
tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”. Khi cha mẹ không có khả năng lao động, không có tài
sản để nuôi mình mà con không sống chung với cha mẹ thì con phải có nghĩa vụ
cấp dưỡng cho cha mẹ.
c) Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em
Anh, chị, em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau trong những trường hợp nhất
định. Điểu 58: “1. Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có
khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã
thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành
niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng
lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2. Em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”
d) Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
10
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Điều kiện cấp dưỡng:
- Một bên vợ hoặc chồng khó khăn túng thiếu có lý do chính đáng yêu cầu
bên kia cấp dưỡng.
- Bên kia có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nói túng thiếu nghĩa là có khó khăn trong đời sống vật chất. Túng thiếu có lý
do chính đáng được hiểu là túng thiếu vù lý do không có khả năng lao động hoặc
khả năng lao động kém (ốm đau, tàn tật, sức yếu, đang mắc bệnh…) nên thu
nhập không đủ tự nuôi sống hoặc có lao động nhưng tạm thời trước mắt có khó
khan về sinh kế vì tách khỏi gia đình (trước đây sống chung với gia đình bên vợ).
Nếu có sức lao động mà không chịu lao động mà không chịu lao động đề đến
mức túng thiếu hoặc do chi tiêu hoang phí mà túng thiếu thì không thể vin lý do
túng thiếu để yêu cầu cấp dưỡng.
Bên vợ hoặc chồng có túng thiếu nhưng tự giác giải quyết được khó khan vật
chất và không yêu cầu cấp dưỡng thì việc cấp dưỡng sau ly hôn cũng không đặt
ra. Mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do hai bên
thỏa thuận, nếu không thì do Tòa án quyết định.
2.3.3. Nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người
được giao quản lý nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích.
Khoản 4 Điều 18 Nghị định Số: 70/2001/NĐ-CP: “Người được giao quản lý
khoản cấp dưỡng một lần có trách nhiệm bảo quản tài sản đó như đối với tài sản
của chính mình và chỉ được trích ra để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng.”
Các quy định về nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản riêng
của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được dự liệu cụ thể
hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trước đây. Những quy định này
11
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
là cơ sở pháp lý cho việc xác định nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện bằng
tài sản riêng hoặc theo thỏa thuận trong thực tiễn.
3. Thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình
Thực tế cuộc sống đã chỉ ra có rất nhiều vụ tranh chấp có liên quan đến nghĩa
vụ tài sản riêng mà nếu như không có luật chúng ta sẽ không thể xử lí được.
Chẳng hạn:
Ví dụ : Chị A và anh B là hai vợ chồng. Sau khi kết hôn, chị A được cho một
căn nhà, và được đứng tên giấy chứng nhận sở hữu. Nay hai vợ chồng bất hòa,
dẫn tới ly hôn. Tài sản chung đã thỏa thuận xong, còn căn nhà được cho đó anh
B đòi chia với lý do - Tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân, làm thế nào để
chứng minh đó là tài sản riêng.
Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài
sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung Trong trường hợp không có
chứng cứ chứng minh tài sản có tranh chấp là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản
chung vấn đề này được quy định tại Điều 32 và 33 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000
Trong cuộc sống vợ chồng, có rất nhiều loại tài sản được hình thành trước và
trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên không phải tài sản nào cũng là tài sản chung
nếu hai bên không có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định khác…
Có thể thấy, trước khi kết hôn, chồng hoặc vợ có tài sản do cha mẹ để lại,
được thừa kế riêng, tặng cho riêng hoặc do việc buôn bán riêng và được hình
thành trước khi kết hôn. Và sau khi kết hôn khối tài sản này không được vợ hoặc
chồng đồng ý nhập vào khối tài sản chung thì vẫn là tài sản riêng.
Ngoài ra, xuất phát từ nhu cầu kinh doanh riêng của từng người. Chế định
Luật Hôn nhân và gia đình đã qui định và ghi nhận: Trong thời kỳ hôn nhân vợ
12
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
chồng có quyền có tài sản riêng. Tuy nhiên để chứng minh đâu là tài sản riêng
của vợ, chồng trên thực tế là rất khó khăn nếu hai bên không có thỏa thuận trước
hoặc không chứng minh được bằng các chứng cứ, tài liệu cụ thể.
Trong thời kỳ hôn nhân nếu vợ chồng đã có văn bản thỏa thuận “ Chia tài sản
riêng” thì những lợi tức được phát sinh trong thời kỳ hôn nhân từ khối tài sản
riêng là tài sản riêng của vợ chồng (mặc dù tài sản này được hình thành trong
thời kỳ hôn nhân).
Có thể thấy trong thực tế có rất nhiều trường hợp cho ta thấy nếu không có
những quy định rõ ràng về vấn đề nghĩa vụ riêng đối với tài sản thì có lẽ sẽ rất
khó giải quyết.
4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định có liên quan đến việc
thực hiện nghĩa vụ riêng đối với tài sản giữa vợ và chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000.
Theo khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ riêng
về tài sản của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài sản riêng của người có
nghĩa vụ. Tuy nhiên, quy định này còn quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể
để xác định loại nghĩa vụ tài sản này. Cần xác định rõ nghĩa vụ riêng về tài sản
của vợ, chồng bao gồm các nghĩa vụ như nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp
dưỡng mà vợ, chồng là người được giao quản lí nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử
dụng không đúng mục đích hay nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ
sở vợ, chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến
tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia
đình để từ đó đưa ra cách giải quyết cho phù hợp.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là chế
độ cộng đồng tạo sản, với nội dung: Luật vừa quy định chế độ tài sản chung của
vợ chồng, vừa ghi nhận vợ, chồng có tài sản riêng. Luật quy định các căn cứ,
nguồn gốc, phạm vi xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng cùng với
13
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
quyền sở hữu của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và
nguyên tắc chia tài sản chung giữa vợ chồng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc quy định chế độ cộng đồng tạo sản giữa vợ chông đã tạo được sự linh
hoạt trong việc tạo dựng tài sản và thực hiện quyền sở hữu đối với các loại tài
sản trong gia đình; khuyến khích vợ, chồng sử dụng các loại tài sản đó vì lợi ích
chung của gia đình. Chế độ tài sản được quy định theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 vừa phù hợp với xu thế chung, vừa đảm bảo tính truyền thống
của gia đình Việt Nam.
Kết luận
Việc quy định nghĩa vụ riêng đối với tài sản giữa vợ, chồng có vai trò rất quan
trọng, nó có ý nghĩa pháp lí trong việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến
tài sản. Cuộc sống luôn biến đổi không ngừng các nhà làm luật cũng cần phải
xây dựng, thay đổi những quy định cho phù hợp với yêu cầu của thực tế nhằm
giúp giải quyết những vấn đề về tài sản chung, tài sản riêng của vợ và chồng
nhưng để có được điều đó cần phải dựa trên những căn cứ nhất định. Đó là
những thứ không thể thiếu bởi nếu thiếu luật không còn là luật với nghĩa tốt đẹp
nhất
14
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình việt nam, NXB Công An Nhân Dân,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Tập 1, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,2002
3. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Nxb Chính tri quốc gia,
Hà Nội.
4. Luật Hôn nhân và gia đình và những văn bản có liên quan, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia.
5. Bộ luật Dân sự nước CHXHCNVN năm 2005, Nxb Lao động xã hội, Hà
Nội
15