Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Xác định hiện trạng xâm lấn và đặc điểm phân bố của cây trinh nữ thân gỗ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.91 KB, 13 trang )




Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Viện khoa học nông nghiệp việt nam




Báo cáo tổng kết chuyên đề

Xác định hiện trạng xâm lấn
và đặc điểm phân bố của cây trinh nữ thân gỗ

Thuộc đề tài độc lập cấp nhà nớc
Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp phòng trừ cây
trinh nữ thân gỗ (mimosa pigra l.) ở việt nam


Mã số: ĐTĐL 2005/02

Chủ nhiệm đề tài: TS . nguyễn hồng sơn













6463-2
15/8/2007

hà nội- 2007


1
Chuyên đề
:
Xác định hiện trạng xâm lấn và đặc điểm phân bố của cây trinh
nữ thân gỗ (TNTG)


1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, cây TNTG đã và đang trở thành một dịch hại nguy
hiểm đối với các Khu bảo tồn, các vùng đất canh tác và các vùng đất hoang
hoáTrong khuôn khổ đề tài Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp phòng trừ cây
Trinh nữ thân gỗ (Mimosa pigra L.) ở Việt Nam đề tài đã tiến hành điều tra xác
định hiện trạng xâm lấn và đặc điểm phân bố của cây trinh nữ thân gỗ.

2. Mục tiêu
Nhằm xác định hiện trạng xâm lấn và đặc điểm phân bố của cây trinh nữ
thân gỗ tại Việt Nam.

3. Phơng pháp tiến hành
3.1. Phơng pháp điều tra thông qua tổng quan tài liệu từ các báo cáo Khoa
học của địa phơng: Tìm kiếm các nguồn tài liệu tài liệu từ báo cáo của các

Vờn Quốc gia; chi Cục Bảo vệ thực vật; Sở Nông nghiệp; Sở Khoa học, Công
nghệ & Môi trờng của các tỉnhcũng nh tham khảo ý kiến của các nhà khoa
học và nông dân tại những địa bàn điều tra.
3.2. Điều tra thực địa: Tiến hành điều tra trên các vùng sản xuất, trong các
Vờn Quốc gia hay các vùng đất hoang hoá đại diện cho:
- Điều kiện địa lý: Điều tra ở các vùng sinh thái chủ yếu của Việt Nam
nh Hoà Bình, Yên Bái, Điện Biên, Đồng Tháp, Tiền Giang, Kiên Giang, Cà
Mau, Đồng Nai, Lâm ĐồngMỗi địa phơng điều tra 2 lần.
- Điều kiện sinh thái: điều tra ở các vùng đại diện cho từng kiểu khí hậu,
thành phần đất đai và các loại địa hình khác nhau.

4. Kết quả điều tra
4.1. Hiện trạng và đặc điểm phân bố
4.1.1. Tại Vờn Quốc gia Tràm Chim
Vờn Quốc gia Tràm Chim có diện tích là 7.588 ha nằm trong địa bàn của
huyện Tam Nông (Đồng Tháp). Đây là khu bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nớc
còn lại duy nhất của vùng Đồng Tháp Mời. Vờn có 5 khu vực ký hiệu từ A1
đến A5 là nơi bảo tồn các quần xã động thực vật, trong đó có 6 quần xã thực vật
và 198 loài chim kể cả những loài đặc biệt quý hiếm nh Sếu đầu đỏ.
* Mức độ xâm lấn của cây TNTG tại Tràm Chim

Theo chi Cục Bảo Vệ Thực Vật tỉnh Đồng Tháp trớc năm 1980 cây TNTG
chỉ có ở huyện Tân Hồng, Hồng Ngự. Từ năm 1981 đến 1985 cây TNTG xuất hiện rải
rác ở Tam Nông, Thanh Bình. Từ năm 1991 đến 2003 cây TNTG mọc nhiều ở Tam
Nông. Riêng Vờn Quốc gia Tràm Chim (theo báo cáo của Vờn này) cây TNTG đã
xâm nhiễm rất nhanh: những năm 1984-1985 chỉ có một vài bụi trong Vờn Quốc gia,
đến nay cây TNTG đã xâm nhiễm một diện tích khá lớn khoảng 1.800 ha. Từ năm
1999 đến 2005 hàng năm diện tích bị cây TNTG xâm nhiễm cứ tăng lên với tỷ lệ gấp
1,5 -2 lần (bảng 1).


2
Bảng 1
. Tình hình xâm lấn của cây TNTG ở Tràm Chim
Thời gian Diện tích bị xâm lấn (ha) Ghi chú
1984-1985 Rải rác vài bụi -
1999 148 Đến ngày 24/11/1999
2000 490 Đến tháng 5/2000
2001 958 Đến tháng 7/2001
2004 1.800 Đến tháng 4/ 2004
2005 2.900 Đến tháng 5/ 2005
Nguồn: Báo cáo của Vờn Quốc gia Tràm Chim

Mật độ cây TNTG ở trong Vờn Tràm Chim rất khác nhau, tại những nơi
bị cây TNTG xâm lấn lâu ngày thì mật độ cây thấp khoảng 2 3 cây/ m
2
nhng
đờng kính và độ che phủ rất lớn. Những nơi cây mới xâm lấn đờng kính cây
và độ che phủ thấp hơn nhng mật độ lại rất cao từ 14 26 cây/ m
2
thậm chí có
nơi mật độ lên tới 115 cây/ m
2
. Vì vậy, tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch rất lớn
nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời.
Mật độ cây TNTG tại Vờn Tràm Chim trung bình là 4,3 cây/ m
2
. Nơi bị
nhiễm nặng (khu A4) thì mật độ cây cao nhất đạt 12 cây/ m
2
. Diện tích có mật độ

cao (12 cây/ m
2
) chiếm khoảng 15%. Phần lớn diện tích bị nhiễm (trên 55%) có mật
độ 4-5 cây/ m
2
, khoảng 25% diện tích bị nhiễm có mật độ 7-8 cây/m
2
và diện tích bị
nhiễm dới 1 cây/ m
2
dới 5% (bảng 2).


Bảng 2
. Mức độ nhiễm cây TNTG ở vờn Tràm Chim năm 2005
Phạm vi biến động mật độ
Tỷ lệ diện tích bị nhiễm ở
mật độ tơng ứng (%)
Dới 1 cây/m
2
5
4 - 5 cây/m
2
55
7 - 8 cây/m
2
25
12 cây/m
2
15


Tại những nơi cây TNTG đã xâm nhiễm, mật độ cây gia tăng theo thời gian.
Năm 1999 mật độ toàn Vờn ớc khoảng 1 cây/m
2
đến nay những nơi mới bị xâm
nhiễm mật độ ớc chừng lên tới 115 cây/m
2
. Nh vậy, mật độ cây TNTG năm sau so
với năm trớc tăng 2-4 lần; năm 2005 so với năm 2000 đã tăng 38 lần (bảng 3).

Bảng 3
. Sự gia tăng mật độ cây TNTG
ở Vờn Quốc gia Tràm Chim
Năm theo dõi Mật độ
(cây/m
2
)

1999 1
2000 3
2001 12
2002 24
2005 115
Ghi chú: Nguồn Vờn Quốc gia Tràm Chim
Độ che phủ trung bình của khu vực bị nhiễm cây TNTG ở Vờn Tràm
Chim năm 2001 là 52,8% (10-100%). Độ che phủ không tỷ lệ thuận với mật độ

3
cây mà chúng tỷ lệ thuận với tuổi cây. ở những nơi mật độ thấp, cây thờng to
cao và độ che phủ lớn, có cây đạt độ che phủ xấp xỉ 100%. Quan sát năm 2005,

cho thấy ở Vờn Tràm Chim phần lớn số cây TNTG (45%) có độ che phủ
khoảng 40-60%; khoảng 35% số cây TNTG có độ che phủ trên 60% và khoảng
20% số cây TNTG có độ che phủ thấp dới 40%.
* Về đặc điểm và phạm vi phân bố

Cây TNTG phân bố rải rác ở hầu hết cả 5 khu của Vờn Quốc gia Tràm
Chim (A1, A2, A3, A4, A5). Cây thờng mọc dọc theo các bờ kênh, dọc các
bàu, đầm sen và các đờng nớc chảy. Sự phân bố của cây không tập trung mà
thờng mọc rải rác và theo băng. Mỗi băng rộng từ 20-40 m. Giữa hai băng có
những khoảng trống thờng là những lạch nớc. Sự phân bố này có thể do ảnh
hởng của dòng chảy khi nớc lũ rút. Nhng theo thời gian, cây TNTG có thể
mọc lấn sang các khoảng trống tạo thành những vùng bị nhiễm liền khoảnh rộng
hơn. Cho đến nay, chỉ còn khu C (khu Hành chính của Vờn Tràm Chim) là khu
mới bị xâm nhiễm nên cây TNTG mọc dọc theo hai bên dòng nớc theo nh quy
luật trên, các khu còn lại trong Vờn Tràm Chim sự xâm nhiễm của cây TNTG
không tuân theo quy luật đó nữa mà chúng xâm lấn hầu nh toàn khu với tốc độ
lây lan rất nhanh.
Các khu A4, A3, A2 của Vờn Tràm Chim bị xâm nhiễm với tỷ lệ diện tích bị
nhiễm/ diện tích đất tự nhiên cao nhất vì ở cả 3 khu này tỷ lệ diện tích đất trống/ đất tự
nhiên vào mùa khô rất lớn, đặc biệt ở khu A4 vào mùa khô nớc rút hoàn toàn trên toàn
khu, vì vậy cây TNTG mọc trên toàn diện tích của khu với độ che phủ hơn 60%. Các cây
mới phát tán thờng mọc ở những nơi nớc cạn hơn, không bị che bóng, mọc ở các vùng
đất trống và khu vực đồng cỏ. ở những khu vực có cây tràm che kín bóng hoặc khu vực
nớc sâu nh đầm sen thì cây TNTG hầu nh không mọc đợc. Diện tích có điều kiện
nh vậy ở trong Vờn Tràm Chim là rất ít và hầu nh cố định. Điều này chỉ ra sự tiềm ẩn
một nguy cơ khá cao tiếp tục xâm nhiễm của cây TNTG ở Vờn Tràm Chim.
4.1.2. Tại vờn Quốc gia Cát Tiên
Vờn Quốc gia Cát Tiên rộng lớn với tổng diện tích 73.878 ha, đợc chia làm ba
khu Cát Lộc, Tây Cát Tiên và Nam Cát Tiên. Theo báo cáo của V
ờn Quốc gia Cát

Tiên, hiện nay cây TNTG có mặt ở hầu hết các điểm đất ngập nớc trong vùng lõi
của vờn với mức độ khác nhau, Bầu Chim, Bầu Sấu là những điểm điển hình. Cây
TNTG phát triển mạnh ở Bầu Chim từ 1995-1999 và hiện nay chúng xâm nhiễm
hầu nh toàn bộ diện tích của Bầu Chim (50-60 ha). Tại Bầu Sấu cây TNTG cũng
đã xâm nhiễm và phát triển rất mạnh.
Từ 1999, đợc sự giúp đỡ của dự án bảo tồn, mỗi năm Vờn Quốc gia Cát
Tiên phải chi khoảng trên 100 triệu đồng để chặt cây và nhổ cây TNTG ngay từ khi
cây mới mọc. Nhng đến đầu mùa khô thì cây lại mọc trở lại và phát triển rất nhanh,
chỉ sau 3 tháng có thể cao 60-70 cm. Hàng năm trong Bầu Chim thờng xuyên có
cây con mọc thêm nên mật độ cây cũng tăng nhanh theo thời gian. Vào thời điểm
năm 2001, mật độ cây TNTG chỉ vào khoảng 3-8 cây/ m
2
(trung bình là 4,7 cây/ m
2
),
diện tích che phủ khoảng 70%, nhng hiện nay cây TNTG đã che kín toàn bộ diện
tích bề mặt Bầu Chim. Mật độ cao nhất có chỗ lên tới trên 100 cây/ m
2
.

vùng đệm, cây TNTG xâm nhiễm dọc theo sông Đồng Nai, dọc các suối
trong vùng và ở cả các khu sản xuất nông nghiệp. Khu vực tập trung nhiều nhất
hiện nay là các cánh đồng lúa từ trung tâm huyện Cát Tiên đến các xã Gia Viễn,

4
Phớc Cát 1, Phớc Cát 2 (tỉnh Lâm Đồng) và xã Đắc Lua (Tân Phú - Đồng Nai).
Diện tích bị nhiễm cây TNTG ở vùng đệm khoảng 100-120 ha. Ngoài ra, cây
TNTG cũng xâm nhiễm rải rác ở vùng đệm thuộc vùng đất canh tác thuộc huyện
Cát Lộc. ớc tính diện tích bị nhiễm tới hàng nghìn ha.
4.1.3. Tại lu vực sông La Ngà

Với diện tích rộng lớn hàng nghìn ha thuộc các xã La Ngà, xã Phú Túc, xã
Phú Ngọc thuộc huyện Định Quán, xã Vĩnh Cửu thuộc huyện Vĩnh Cửu, xã Trảng
Bom thuộc huyện Trảng Bom, xã Thống Nhất thuộc huyện Thống Nhất. Tại đây
vào cuối mùa khô đầu mùa ma nông dân thờng trồng lúa và nhiều loại cây
trồng khác nh ngô, sắncây TNTG xâm lấn một diện tích rất lớn ở đây khoảng
trên 1.000 ha. Ban đầu vào mùa lũ chúng xâm lấn các gò đồi trên cao và theo mực
nớc rút chúng xâm lấn dần tới sát mép nớc sông nên tạo thành những băng dài
với chiều rộng khoảng 20 - 30 m và chiều dài hàng trăm mét (từ sát khu dân c
tới mép sông). Đờng kính thân cây và độ che phủ tại những nơi đất cao cũng lớn
hơn những nơi đất thấp. Mật độ cây trên các gò đồi khoảng 4 5 cây/ m
2
với độ
che phủ trên 60%, mật độ cây tại những nơi đất thấp (gần mép nớc) khoảng 10
12 cây/ m
2
, cá biệt có những nơi mới xâm nhiễm mật độ cây lên tới 120 cây/ m
2
.
Hiện nay, cây TNTG xâm lấn hầu nh các vùng đất thuộc khu vực gò đồi
và dần lan sang các khu vực đất thấp hơn, nếu không có biện pháp ngăn chặn
kịp thời thì chỉ trong vài năm tới toàn bộ khu vực thuộc lu vực sông La Ngà sẽ
bị cây TNTG xâm nhiễm toàn bộ. Ngoài ra, cây TNTG còn mọc rải rác 2 bên bờ
mơng, suối và lơng rẫy của nông dân gây khó khăn cho hoạt động sản suất
nông nghiệp cũng nh nuôi trồng thuỷ sản của ngời dân.
4.1.4. Tại lòng hồ Hoà Bình
Đây là một lòng hồ có diện tích rộng lớn thuộc các huyện Cao Phong; Đà
Bắc; Mai Châu; Tân Lạc; Thị xã Hoà Bình. Cũng nh khu vực lòng hồ Thác Bà,
cây TNTG xâm nhiễm ở hai khu vực chủ yếu là các đảo giữa lòng hồ và các
vùng đất canh tác bán ngập nằm trong vành đai chứa nớc trong mùa ma. Cây
TNTG bắt đầu xuất hiện vào những năm 1995 1996, ban đầu chúng xâm lấn

các gò đất cao thuộc lòng hồ và dọc hai bên bờ sông Đà. Vào mùa nớc, nguồn
hạt trôi dạt vào các thung lũng và các vùng đất bán ngập thuộc khu vực chứa
nớc của hồ Hoà Bình và xâm nhiễm trên diện tích khá rộng lớn. Hiện tại, việc
thống kê diện tích các đảo bị xâm nhiễm gặp khó khăn vì rất khó xác định chiều
rộng dải bị xâm nhiễm. Tuy nhiên theo ớc tính thì diện tích này có thể lên tới
xấp xỉ 3000 ha. Tại các vùng đất bán ngập, diện tích bị xâm nhiễm hoàn toàn là
200 ha. Diện tích xâm nhiễm của TNTG bắt đầu tăng nhanh từ những năm
1990, nhng khi mới bắt đầu bị xâm lấn, nông dân có thể áp dụng biện pháp
chặt bỏ để duy trì hoạt động canh tác nên mức độ xâm nhiễm còn nhẹ. Tuy
nhiên, kể từ năm 1998 trở lại đây, diện tích bị xâm nhiễm ngày càng mở rộng
với mật độ cao, vì vậy việc phòng trừ gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt kể từ
năm 2002 đến nay, diện tích xâm lấn hàng năm đều tăng gấp 2-3 lần. Mật độ
cây cũng tăng nhanh chóng kể từ năm 1998 trở lại đây. Cá biệt có vùng mật độ
cây ban đầu chỉ vào khoảng 1-2 cây/ m2 nhng nay đã bị che phủ hoàn toàn với
mật độ từ 17-20 cây/ m2, thậm chí nhiều vùng cây con mới mọc có thể lên tới
trên 150 cây/ m2.

5
4.1.5. Tại lòng hồ Thác Bà: Lòng hồ Thác Bà thuộc địa phận của huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái. Nơi đây, cây TNTG bắt đầu xuất hiện lác đác trên các đảo
của khu vực lòng hồ Thác Bà và dọc theo hai bên bờ sông Chảy từ những năm
1970. Từ năm 1990 trở lại đây hiện trạng cây TNTG tiếp tục xâm lấn trên diện
rộng. Theo thống kê của ban quy hoạch lòng hồ Thác Bà thì có khoảng 2000
hòn đảo và có 99 lạch nớc lớn chảy vào khu vực lòng hồ đã bị cây TNTG xâm
lấn. Đặc biệt là từ năm 1995, cây TNTG đã phát tán và xâm lấn nặng ở các
vùng đất canh tác, gây khó khăn rất lớn cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi
thuỷ sản cũng nh nhiều ngành khác có liên quan.
Đặc biệt là từ năm 1971 từ khi nhà máy thuỷ điện Thác Bà hoạt động lòng
hồ Thác Bà trở thành khu vực chứa nớc cho nhà máy hoạt động. Sự gia tăng
diện tích bị ngập nớc và sự tích trữ nguồn nớc nh một lòng chảo tích luỹ

nguồn hạt, đặc biệt trong môi trờng bán ngập nớc khả năng sinh sản và phát
tán của hạt cây TNTG rất nhanh đó nguyên nhân dẫn tới diện tích bị cây TNTG
xâm lấn tăng lên rất nhanh trong những năm vừa qua.
Qua điều tra tại 25 xã xung quanh khu vực lòng hồ thì hầu hết các xã đều bị
cây TNTG xâm lấn trong đó có 19 xã bị cây xâm lấn với mật độ cao. Hiện đã có
1.039ha trong tổng số 1.454 ha đất canh tác thuộc khu vực lòng hồ (chiếm
71.46%). Nếu tính theo tổng diện tích đất canh tác của toàn bộ các xã (kể cả khu
vực cao và khu vực lòng hồ) thì diện tích bị cây TNTG xâm lấn cũng đã xấp xỉ 7%.
Qua điều tra 19 xã bị cây TNTG xâm lấn thì có 6 xã bị xâm lấn với mức
độ cao đáng báo động đó là:
- Yên thành bị xâm lấn 113 ha
- Bảo ái bị xâm lấn 270 ha
- Mông Sơn bị xâm lấn 250 ha
Trong đó có Mông Sơn; Bảo ái; Yên Thành ở tình trạng khó kiểm soát đ-
ợc, còn 8 xã còn lại đó là: Thị Trấn Yên Bình; Tích Cốc; Phúc Ninh; Phú Thịnh;
Đại Minh; Mỹ Gia; Thanh Hà tuy cây TNTG mới chỉ xuất hiện lác đác, nhng
nguy cơ bị xâm lấn mạnh trong những năm tới là rất cao. Do đó chúng ta cần
phải cảnh báo sớm để ngăn chặn khả năng xâm lấn của cây TNTG.
Do kích thớc đờng kính thân cây bé nên mật độ cây TNTG ở Yên Bái khá
cao. Tại những vùng cây trởng thành 2-3 năm tuổi, mật độ TB có thể đạt 11,3 cây/
m2, cao nhất có thể lên tới 26 cây/ m2. Những vùng mới bị xâm nhiễm, mật độ cây
con có thể lên tới 270 cây/ m2.
4.1.6. Tại các tỉnh khác thuộc khu vực đồng bằng sông Mê Kông: Đây là khu
vực có nhiều điều kiện thuận lợi cho cây TNTG phát tán và xâm lấn vì vậy diện
tích xâm nhiễm đang có xu h
ớng gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên hiện nay
khu vực đáng báo động đó là vùng Đồng Tháp Mời thuộc địa phận các tỉnh
Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp với diện tích xâm lấn tơng ứng của mỗi
tỉnh xấp xỉ là 850, 600 và 550ha . Theo chi Cục Bảo Vệ Thực Vật tỉnh Đồng
Tháp trớc năm 1980 cây TNTG chỉ có ở huyện Tân Hồng, Hồng Ngự. Từ năm

1981 đến 1985 cây TNTG xuất hiện rải rác ở Tam Nông, Thanh Bình. Từ

năm
1991 đến 2003 cây TNTG mọc nhiều ở huyện Tam Nông và khu vực đồng Tháp
mời. Sự xâm lấn của cây TNTG tại các khu vực này chủ yếu là các vùng đất
thấp ven lộ, dọc các mơng hay lạch nớc và các vùng đất bán ngập cha đợc
canh tác hoặc đã canh tác nhng do điều kiện bất thuận nên bị bỏ hoang. Tại các

6
tỉnh khác nh Vĩnh Long, Hậu Giang, An Giang hay Kiên Giang, sự phát tán và
xâm nhiễm của cây TNTG còn ở mức độ nhẹ, mọc rải rác, cha xuất hiện những
vùng xâm lấn tập trung hay các vùng có nguy cơ tích luỹ quần thể lớn. Tại vờn
quốc gia U minh thợng, do diện tích trống không bị các thảm thực vật che phủ
không lớn nên cây TNTG không có điều kiện phát tán và xâm nhiễm nhanh trên
diện rộng. Cho đến nay, diện tích xâm nhiễm ở mỗi vờn chỉ vào khoảng 250
ha. Đặc biệt, do đợc quan tâm phòng trừ thờng xuyên nên các diện tích mới bị
xâm nhiễm nhanh chóng đợc khống chế. Hàng năm, cây TNTG vẫn tái mọc trở
lại nhng trên diện hẹp và đợc ngăn chặn, xử lý kịp thời.
4.1.7. Tại một số tỉnh khác ở khu vực phía Bắc: Do đặc điểm phát tán của cây
TNTG chủ yếu là nhờ nguồn nớc nên sự xâm nhiễm của chúng thờng đợc
hớng về các lu vực sông lớn nh sông Hồng, sông Mã, sông Đà, sông Chảy
v.v Tuy nhiên qua thực tế điều tra cho thấy, cây TNTG ít mọc dọc theo các
sông lớn mà phần lớn mọc dọc theo các con sông nhánh, các mơng nội đồng
đặc biệt sự xâm lấn tập trung thờng xảy ra ở các bãi sông bán ngập hay các
vùng đất nội đồng bán ngập có điều kiện canh tác khó khăn, do đó ít đợc quan
tâm canh tác. Tại các vùng đất cao, cây TNTG chỉ phát tán và xâm nhiễm rải
rác theo từng đám nhỏ, ít có nguy cơ xâm nhiễm trên diện rộng. Vì vậy sự phát
tán và xâm nhiễm của cây TNTG ở một số tỉnh miền núi phía bắc thuộc thợng
nguồn các sông lớn nh Điện Biên, Sơn La, Lao Cai, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc
Kạn hay Tuyên Quang còn rải rác và cha thực sự đáng báo động, diện tích xâm

nhiễm mỗi tỉnh chỉ vào khoảng 150 đến 300 ha.

Bảng 4:
Diện tích xâm nhiễm của cây TNTG tại một số tỉnh miền núi
phía Bắc và vùng đồng bằng sông Mê Kông
(Số liệu điều tra năm 2005)
Địa phơng
Diện tích
nhiễm
(ha)
Ghi chú
Đồng Tháp 850
Phân bố chủ yếu ở huyện Tam Nông và
vùng đồng Tháp Mời. DT này không bao
gồm diện tích nhiễm của vờn quốc gia
Tràm Chim
Long An 600 Phân bố chủ yếu vùng đồng Tháp Mời
Tiền Giang 550 Phân bố chủ yếu ở vùng đồng Tháp Mời
An Giang 250
Thờng xuyên đợc tỉnh phát động phòng
trừ nên diện tích nhiễm đã đợc hạn chế
đáng kể
Kiên Giang 400
U Minh
Thợng
250
Phần đa lại diện tích bị tái nhiễm vì vờn đã
tiến hành phòng trừ thờng xuyên
Điện Biên 200 Cây mọc ở các thung lũng và ven sông
Sơn La 300

Lao Cai 150
Cây mọc rải rác ven đờng và một số sông
nhỏ
Cao Bằng 120 Câ
y
m

c rải rác ở các thun
g
lũn
g
ven núi,

7
ven đờng và ven sông nhỏ
Bắc Kạn 150
Cây mọc rải rác ở các thung lũng ven núi,
ven đờng và ven sông nhỏ
Tuyên Quang 300
Mọc chủ yếu ở các vùng đất ven sông và
thung lũng
Phú Thọ 350
Mọc chủ yếu ở các vùng đất ven sông và
thung lũng
Quảng Trị 1000
Cây phát tán trên diện rộng, đã hình thành
các vùng tập trung (5-10ha). Mọc chủ yếu ở
các vùng đất bán ngập, đất xấu, điều kiện
canh tác kém


Trong khi đó, các vùng đất bán ngập thuộc hạ nguồn các dòng sông lớn
đang là các điểm nóng đáng báo động, tại một số địa phơng, cây TNTG đã phát
tán và gia tăng diện tích rất nhanh. Đặc biệt tại Quảng Trị, nhiều vùng đất bán
ngập dọc theo các đờng lộ hay các mơng nớc ở vùng thấp thuộc các huyện
Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng đã bị cây TNTG xâm lấn dày đặc, tạo thành
những vùng tập trung với diện tích xấp xỉ 1000ha.

một số tỉnh khác nh Huế,
Quảng Bình, Hà Tĩnh, Bắc Giang, cây TNTG đã bắt đầu phát tán và mọc thành
những dải tập trung với diện tích khá lớn.
4.2. Đặc điểm xâm nhiễm của cây TNTG ở một số vùng sinh thái chủ yếu
* Tại các vờn quốc gia:

Sự xâm nhiễm ban đầu của cây TNTG thờng diễn ra ở các khu vực đất
trống, không bị che bóng sau đó lan dần ra khu vực đồng cỏ. ở những khu vực
có cây tràm che kín bóng hoặc khu vực nớc sâu nh đầm sen thì cây TNTG hầu
nh không mọc đợc. Tại các khu vực có điều kiện thuận lợi, sự xâm nhiễm ban
đầu dọc theo các lạch nớc, các khu vực cao hơn vì cây TN thờng mọc ngay
sau khi nớc rút. Vì vậy, tại những vùng mới bị xâm nhiễm, cây thờng mọc
thành băng rộng từ 20-40 m phân bố theo dòng nớc. Tuy nhiên trong trờng
hợp bị xâm lấn nặng, cây có thể lan rộng và che phủ toàn bộ diện tích bề mặt.
Tại vờn quốc gia Tràm Chim: Cây TNTG phân bố rải rác ở hầu hết cả 5
khu của Vờn Quốc gia Tràm Chim (A1, A2, A3, A4, A5). Cây thờng mọc dọc
theo các bờ kênh, dọc các bàu, đầm sen và các đờng nớc chảy. Tất cả đê bao
xung quanh khu vực vờn Quốc gia Tràm Chim đều bị cây TNTG xâm lấn kể cả
những con kinh nhỏ nằm sâu trong nội đồng nh kinh Mời Nhẹ, kinh Bà Hồng,
kinh nhỏ song song với kinh Phú Hiệp thuộc khu A
1
. Ven bờ các con kinh chống
cháy trong nội đồng mới đào đến nay chỉ đợc khoảng một năm cũng bị cây

TNTG xâm lấn, có nơi nó mọc vào sâu đến 400m (Khu A
4
). Khu A
4,
A
2
và A
5

những khu bị xâm lấn nặng nhất, tại các khu vực này cây TN mọc theo các
đờng nớc hình vòng cung lấn sâu vào nội đồng đến 500-600m. Đặc biệt tại
khu A4, diện tích và mức độ xâm nhiễm không ngừng gia tăng. Trớc năm
2000, cây còn mọc rải rác hoặc mọc theo băng nhng hiện nay toàn bộ 590 ha
diện tích không trồng tràm của khu A4 bị xâm lấn dày đặc hoàn toàn. Sự phân
bố của cây không tập trung mà thờng mọc rải rác và theo băng, mỗi băng rộng
từ 20-40 m. Giữa hai băng có những khoảng trống thờng là những lạch nớc.
Sự phân bố này có thể do ảnh hởng của dòng chảy khi nớc lũ rút. Nhng theo

8
thời gian, cây TNTG có thể mọc lấn sang các khoảng trống tạo thành những
vùng bị nhiễm liền khoảnh rộng hơn. Cho đến nay, chỉ còn khu C (khu Hành
chính của Vờn Tràm Chim) là khu mới bị xâm nhiễm nên cây TNTG mọc dọc
theo hai bên dòng nớc theo nh quy luật trên, các khu còn lại trong Vờn Tràm
Chim sự xâm nhiễm của cây TNTG không tuân theo quy luật đó nữa mà chúng
xâm lấn hầu nh toàn khu với tốc độ lây lan rất nhanh.

* Tại lu vực sông La Ngà:
ban đầu cây xâm nhiễm chủ yếu ở các
vùng gò đồi cao cạnh các bãi sông, sau đó theo mực nớc rút chúng xâm lấn dần
tới sát mép nớc sông tạo thành những băng dài với chiều rộng khoảng 20 - 30 m

và chiều dài hàng trăm mét (từ sát khu dân c tới mép sông). Nguồn hạt cũng
đợc tích luỹ tại những khu vực cao, sau đó phát tán ra các khu vực thấp hơn cạnh
mép sông. Nhìn chung, đây là khu vực thuận lợi cho cây phát tán và xâm nhiễm
vì thảm thực vật che phủ hầu nh không có. Trong điều kiện mới bị xâm nhiễm
nhẹ, nông dân có thể chặt cây trớc khi mùa lũ về, sau khi lút thì tiến hành gieo
trồng ngay các cây trồng ngắn ngày nh lúa, ngô, rau và đậu các loại. Tuy nhiên
trong nhiều trờng hợp bị xâm nhiễm nạng nông dân không thể tiếp tục canh tác
đợc, cây sinh trởng và phát tán rất nhanh. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
tích luỹ nguồn hạt và xâm nhiễm tiếp tục của cây TNTG.
* Tại các khu vực lòng hồ Thác Bà và Hoà Bình:
Cây TNTG xâm nhiễm
nặng trên tất cả các đảo giữa lòng hồ và các khu vực đất canh tác bán ngập thuộc
khu vực chứa nớc cho các nhà máy thuỷ điện.
Trên các khu vực đảo giữa hồ: Trong mùa ngập nớc, hạt TN thờng bám
vào các thảm cỏ và mô đất ven theo các bình độ thấp của các hòn đảo. Khi nớc
rút, hạt bắt đầu nảy mầm và sinh trởng, phát triển. Có thể nhận thấy rất rõ là khi
nớc dâng đến đâu, thì nguồn hạt tích tụ và phát tán đến đó. Trong tr
ờng hợp bị
ngập nớc hoàn toàn, TNTG có thể xâm nhiễm và che phủ toàn bộ các hòn đảo
thấp. Tại lòng hồ Hoà Bình, có những bình độ bị ngập trong nớc tới hàng vài
chục mét nhng cây TNTG vẫn tồn tại, ngay sau khi nớc rút cây lại bắt đầu tái
sinh. ở các khu vực nớc sâu, cây kết thành bè trôi nổi trên mặt nớc.
Tại các vùng canh tác bán ngập: đây thờng là các khu vực lòng chảo bằng
phẳng hay các khu vực đất canh tác dọc theo lạch nớc thông với khu vực lòng
hồ, vì vậy có điều kiện thuận lợi cho hạt trinh nữ phát tán và tích luỹ. Sự xâm lấn
ban đầu thờng xảy ra từ các khu vực đất công nh ven đờng đi, dọc theo bờ
mơng nớc, bờ ruộng hay các ruộng đất hoang hoá, các ruộng có điều kiện canh
tác đặc biệt khó khăn. Sau khi có nguồn hạt tích luỹ đủ lớn, cây TN bắt đầu phát
tán trên toàn bộ diện tích với mật độ thấp. Trong trờng hợp không đợc ngăn
chặn kịp thời, cây sẽ nhanh chóng xâm nhiễm và lất át toàn bộ diện tích canh tác.

Nh vậy, qua các đặc điểm xâm nhiễm trên có thể thấy rõ ngoài những
điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiên thì hoạt động của con ngời cũng là một điều
kiện quan trọng tác động đến quá trình phát tán, tích luỹ nguồn hạt và xâm lấn
của cây TNTG. Trong điều kiện không có hoạt động canh tác của con ngời hay
không có sự quan tâm ngăn chặn sớm thì mức độ xâm nhiễm của cây TNTG sẽ
diễn ra nhanh chóng và ở mức độ cao hơn.
* Tại các vùng đất công, đất hoang hoá và công trình giao thông:
đây
là khu vực đáng báo động hiện nay. Sự xâm nhiễm ban đầu của của cây TNTG
thờng xuất phát từ các vùng đất này. Đặc biệt, các dải đất hoang thuộc hành

9
lang đờng quốc lộ, dọc theo ven đờng thờng là vùng thấp, rất dễ bị cây TN
xâm nhiễm. Do có đủ điều kiện thuận lợi để cho cây tích luỹ nguồn hạt lại
không có sự quản lý và kiểm soát của con ngời, mức độ xâm nhiễm ngày càng
nặng. Khi tích luỹ đợc một lợng hạt đủ lớn, cây TN bắt đầu lan rộng và phát
tán sang các khu vực đất canh tác xung quanh.
4.3. Nguồn xâm nhiễm ban đầu, con đờng phát tán và các điều kiện tiên
quyết để cây TNTG có thể xâm nhiễm:

Cho đến nay, có nhiều ý kiến khác nhau
về nguồn gốc phát tán và hình thức xâm nhiễm của cây TNTG ở nớc ta, tuy
nhiên qua các kết quả điều tra khảo sát về thực trạng và đặc điểm xâm nhiễm
cho thấy hình thức phát tán ban đầu của cây TNTG chủ yếu vẫn là theo các dòng
nớc. Vì vậy, có thể khẳng định nguồn khởi phát ban đầu đều từ thợng nguồn
các sông lớn đa về. Tuy nhiên, tại mỗi vùng sinh thái, mỗi vùng đất đặc thù
khác nhau thì con đờng phát tán, xâm nhiễm và tích luỹ quần thể của cây TN
cũng khác nhau. Qua điều tra và khảo sát cho thấy, có 4 con đờng phát tán chủ
yếu của cây TNTG tại các vùng sinh thái của nớc ta bao gồm:
- Phát tán theo nguồn nớc

: Bằng chứng về sự phát tán của cây TNTG theo
nguồn nớc có thể tìm thấy ở tất cả các khu vực bị TNTG xâm nhiễm nặng hiện
nay. ở các vờn quốc gia hay lu vực sông, vùng lòng hồ, cây TNTG đều xâm
nhiễm nặng ở các khu vực ngập nớc, trong khi đó tại các vùng đất cao hơn nhờ
bờ kinh, bờ sông mức độ phát tán và xâm nhiễm rất hạn chế mặc dù cây TNTG
có khả năng sinh sống và phát triển trong cả điều kiện khô hạn và ngập nớc.
Hình thức phát tán này có thể nhận thấy rõ rệt nhất tại các gò đất, các đảo nằm
trong khu vực lòng hồ. Trong mùa nớc, khi nớc dâng đến đâu thì hạt TN bám
vào các thảm thực vật trên bề mặt đảo và khi nớc rút, cây con mọc lên đến đó,
tạo thành vành đai TN bao quanh đảo. Vành đai này cũng chính là dấu hiệu
nhận biết mức nớc dâng trong mùa ngập nớc. Tại những gò đất thấp bị ngập
chìm hoàn toàn trong nớc thì khi nớc rút, cây TN cũng mọc phủ kín từ đỉnh
xuống chân gò.
- Phát tán hạt qua động vật, con ngời, xe cộ v.v : Trong quá trình tiếp
xúc với khu vực bị TNTG xâm nhiễm, hạt TNTG có thể bám vào da động vật, áo
quần của con ngời hay các phơng tiện giao thông nh tàu hoả, tàu thuỷ, xe ô
tô v.v từ đó phát tán nguồn hạt từ khu vực bị nhiễm sang khu vực không bị xâm
nhiễm, từ vùng thấp lên vùng đất cao. Bên cạnh đó một số loài chim hay động
vật nh trâu, ngựa hay dê cũng có thể ăn hạt TN nhng do dạ dầy của chúng
không có khả năng tiêu hoá nên hạt vẫn không bị phá huỷ mà trái lại còn đợc
kích thích nảy mầm. Từ đó chúng có thể phát tán nguồn hạt từ khu vực bị xâm
nhiễm sang các vùng đất canh tác hay vùng khác cha bị xâm nhiễm.
- Phát tán do hoạt động có chủ đích của con ngời:
Không chỉ ở nớc ta
mà ở nhiều nớc khác nh Thái Lan, Malaysia hay Indonesia, đây cũng là một
quan đờng hình thành quá trình phát tán quan trọng của cây TNTG. Do thiếu
những thông tin hay hiểu biết đầy đủ về tác hại của cây TNTG, nông dân có thể
trồng nó làm cây cảnh, cây giữ đất chống xói mòn và đặc biệt một hiện tợng
khá phổ biến ở nớc ta là sử dụng vào mục đích làm hàng rào. Đây chính là
những con đờng tích luỹ nguồn hạt và phát tán quan trọng, làm mở rộng phạm

vi phân bố và khu vực bị xâm nhiễm cây TNTG ở khắp mọi miền, mọi vùng sinh
thái khác nhau.

10
- Phát tán từ nguồn đất hay cát sử dụng trong xây dựng: Hiện nay, việc
sử dụng đất bãi ven sông hay nguồn cát dới sông để san lấp mặt bằng các công
trình xây dựng hay xây dựng đờng đang trở thành phổ biến. Do sau khi san lấp
không đợc xây dựng ngay, cây TN có cơ hội phát triển rất mạnh. Nhiều khu
vực mặt bằng xây dựng ở các tỉnh phía Nam bị cây TN bao phủ toàn bộ trên một
diện tích rộng chỉ sau khi san lấp 1-2 năm. Đây là nguy cơ đáng báo động vì nó
là điều kiện rất thuận lơin để hạt TN phát tán trên diện rộng, đặc biệt là các vùng
đất không bị ngập nớc, gây khó khăn cho công tác kiểm soát và phòng trừ .
Tuy nhiên, tại bất cứ vùng sinh thái nào, để nguồn hạt ban đầu đó có thể
xâm nhiễm thành công, nhân lên và phát tán tiếp tục trên diện rộng thì cần phải
có đầy đủ các yếu tố thuận lợi cho một quá trình xâm nhiễm và tích luỹ ngân
hàng hạt tại chỗ. Một trong những yếu tố đó là
- Thứ nhất là phải có những khu vực bán ngập đủ lớn và điều kiện mặt nớc
tơng đối tĩnh để nguồn hạt có thể tích tụ đợc trong đất: Qua thực tế cho thấy cây
TNTG không mọc đợc ở các ven sông lớn kể cả hệ thống sông có khu vực bãi bồi
nh sông Hồng. Sự xâm nhiễm ban đầu của chúng thờng ven theo các nhánh sông
hay các mơng nhỏ có một khoảng thời gian khô hạn trong năm. Đặc biệt, sự gia
tăng diện tích xâm nhiễm tại các vùng sinh thái đều chỉ diễn ra mạnh mẽ khi hình
thành các khu vực bán ngập (tức là một mùa khô và một mùa ngập hoàn toàn trong
nớc), đó chính là các vùng bảo tồn rừng ngập nớc, khu vực chứa nớc cho các
công trình thuỷ điện hay các khu vực đầm lầy, đất canh tác bán ngập chỉ canh tác
trong 1 vụ trong năm. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tích tụ nguồn hạt vì trong
điều kiện tĩnh tại, hạt TN có thể dễ dàng bám vào các thảm thực vật, sau đó đợc
vùi nhẹ xuống dới các lớp phù sa. Đây là điều kiện cần thiết để hạt có thể xảy ra
quá trình nảy mầm. Sau khi nớc rút, hạt bắt đầu nảy mầm và phát triển. Ngợc lại,
đối với khu vực ven các sông lớn, do tốc độ dòng chảy lớn nên hạt TN th

ờng
không thể xâm nhập vào đất đợc mà chỉ bám vào các thảm cỏ ven sông, do đó
chúng rất khó nảy mầm và phát triển đợc. Mặt khác, thời kỳ khô hạn tại các khu
vực này thờng rất ngắn, cây không đủ thời gian để đạt đợc một lợng sinh khối
cần thiết đã bị ngập trong nớc, vì vậy dù cho có nảy mầm đợc thì cũng không có
điều kiện xâm lấn và phát triển về sinh khối.
- Thứ hai là phải có đợc điều kiện không gian phù hợp cho quá trình xâm
nhiễm: sau khi có sự tích tụ của nguồn hạt trong đất, điều kiện quan trọng nhất
để quá trình xâm nhiễm có thể xảy ra là có đợc khoảng không gian phù hợp. Là
một thực vật ngoại lai, cây TNTG rất dễ thích nghi với các điều kiện bất thuận
nh hạn hán, đất cằn cỗi, dinh dỡng kém v.v tuy nhiên điều kiện tiên quyết để
hạt TN có thể nảy mầm và thực hiện quá trình xâm lấn là không bị che phủ bởi
các loài thực vật khác. Qua quan sát thực tế cho thấy tại những vị trí bị cỏ hoà
thảo che phủ kín trên bề mặt, cây TN hầu nh hoàn toàn mất khả năng nảy mầm
hoặc nảy mầm đợc nhng không sinh trởng và phát triển đợc.
ở nớc ta, các vùng đất thoả mn điều kiện này thờng là
+ Các vờn quốc gia hay khu bảo tồn rừng ngập nớc: đây là khu vực
đợc bảo tồn tự nhiên, không có các hoạt động canh tác hay sự can thiệp của
con ngời, vì vậy cây TN có điều kiện xâm nhiễm từ các khu vực đất trống là
khu vực canh tác trớc đây, sau đó cây phát tán dần sang các khu vực đồng cỏ
hay các khu vực thảm thực vật kém phát triển, ít bị che bóng.

11
+ Các vùng bán ngập có điều kiện canh tác khó khăn: Đây là các vùng đất
mà nông dân vẫn sử dụng để canh tác trong mùa khô nhng phần đa ở nơc ta các
vùng này thờng là các khu vực miền Núi có điều kiện canh tác khó khăn, năng
suất cây trồng thấp trong khi đó chi phí canh tác đặc biệt là phòng trừ cỏ dại rất
cao. Trong thời kỳ đầu khi mới bị cây TNTG xâm nhiễm nông dân có thể áp dụng
các biện pháp thủ công nh chặt, nhổ để duy trì hoạt động canh tác nhng khi mật
độ cây lên cao thì việc áp dụng biện pháp này là hết sức khó khăn. Vì vậy, nông

dân thờng bỏ hoang không tiếp tục canh tác nũa, đây là điều kiện thuận lợi để
cây TNTG xâm lấn mạnh hơn. Tại Hoà Bình, có những vùng đất canh tác hiện đã
bị cây TNTG lấn át hoàn toàn trên 50% diện tích, hay tại Quảng Trị nhiều vùng đất
canh tác khó khăn cũng đã bị cây TNTG lấn át sau một vài vụ nông dân không thể
duy trì hoạt động canh tác.
+ Các khu vực đất công, đất hoang hoá, ven quốc lộ và các công trình
xây dựng: Đây là các vùng đất hầu nh không có hoạt động kiểm soát của con
ngời, do đó cây TNTG có điều kiện xâm lấn và tích luỹ nguồn hạt. Đặc biệt,
trong thời gian gần đây việc sử dụng các nguồn cát trên sông để san lấp các
công trình xây dựng hay đắp đờng đang tạo ra nguy cơ gia tăng khả năng xâm
nhiễm của cây TNTG từ các vùng đất thấp lên các vùng đất cao.
- Thứ ba là phải có nguồn hạt tích luỹ đủ lớn: Thực tế cho thấy, cây
TNTG có mặt ở nhiều vùng sinh thái ở nớc ta từ thập kỷ 70, trong thời kỳ
đó cũng có nhiều vùng đất hoang hoá thuộc diện bán ngập nhng sự xâm
nhiễm của cây TNTG hoàn toàn không đáng kể. Chỉ trong vòng từ năm
1995 trở lại đây, mức độ xâm lấn mới thực sự gia tăng ở nhiều vùng sinh
thái. Qua quan sát cho thấy, sự xâm nhiễm ban đầu của cây TNTG ở bất cứ
vùng nào cũng chỉ ở mức độ nhẹ, mọc rải rác sau đó khi nguồn hạt tích luỹ
đủ lớn thì mức độ xâm nhiễm mới tăng dần. Qua khảo sát nguồn hạt trong
đất tại một số khu vực nghiên cứu nh vờn quốc gia Tràm Chim, khu vực
sông La Ngà, lòng hồ Thác Bà hay Hoà Bình đều cho thấy sự phát tán và
tích luỹ nguồn hạt tại chỗ là điều kiện cơ bản để cho cây TN mở rộng diện
tích xâm nhiễm.

những khu vực có ngân hàng hạt lớn thì diện tích bị
xâm nhiễm tăng lên nhanh chóng. Tại những vùng mật độ cây trởng thành
cao thì mật độ cây con cũng rất lớn (bảng 4)

Bảng 5 . Mối tơng quan giữa mật độ cây TN trởng thành với mật độ cây
con tại một số khu vực điều tra năm 2005


Địa điểm điều tra Mật độ cây trởng
thành (cây/ m
2
)
Mật độ cây con (cây/
m
2
)
Vờn QG. Tràm Chim 4,3 115,0
Vờn QG. Cát Tiên 4,7 99,7
Lu vực sông La Ngà và
lòng hồ Trị An
6,3 121,5
Hồ Thác Bà 11,3 273,3
Hồ Hoà Bình 5,5 153,2



12
5. Kết luận
Nguy cơ xâm lấn của cây TNTG đang có xu hớng gia tăng không chỉ ở
các vờn quốc gia mà còn lan rộng ra các vùng đất canh tác bán ngập khác
thuộc các lu vực sông lớn, các khu vực lòng hồ và vùng đất ngập nớc vùng
đồng Tháp Mời. Tại vờn quốc gia Tràm Chim và lu vực sông La Ngà, diện
tích vẫn có xu hớng gia tăng và mức độ che phủ của cây TNTG ngày càng cao,
gây khó khăn cho hoạt động phòng trừ cũng nh tăng nguy cơ tích luỹ nguồn
hạt. Tại các địa phơng khác, diện tích xâm nhiễm cũng đang tiếp tục gia tăng,
đặc biệt là vùng đệm của vờn quốc gia Cát Tiên, lòng hồ Thác Bà, lòng hồ Hoà
Bình, khu vực đồng Tháp Mời và diện tích canh tác bán ngập nớc của tỉnh

Quảng Trị diện tích xâm nhiễm đã lên đến hàng nghìn ha.
Với các chứng cứ thu thập đợc có thể khẳng định hạt TNTG phát tán qua
nguồn nớc là chủ yếu. Tuy nhiên, bên cạnh đó các con đờng phát tán khác
nh qua động vật, phơng tiện giao thông, qua hoạt động của con ngời, qua
nguồn cát xây dựng cũng đáng đợc quan tâm. Đặc biệt là việc sử dụng cây TN
làm hàng rào cũng nh sử dụng cát để san lập mặt bằng các công trình xây dựng
là hai con đờng phát tán đáng báo động. ở mỗi vùng sinh thái nhất định, nguồn
hạt tích luỹ tại chỗ đóng vai trò quan trọng quyết định khả năng xâm nhiễm của
cây TNTG tại vùng đó.

mỗi hệ sinh thái nhất định, điều kiện cần và đủ để cho cây TNTG có
thể xâm nhiễm ở quy mô lớn và mức độ nhiễm cao là phải có diện tích bán ngập
lớn và có mực nớc tĩnh; có không gian trống không bị thực vật che phủ và có
nguồn hạt tích luỹ đủ lớn.

các vờn quốc gia, cây TNTG thờng xâm nhiễm
các vùng đất trống, sau đó lan dần và lấn át các thảm thực vật.

các khu vực
lòng hồ, hạt TN thờng xâm lấn ở các gò đất giữa lòng hồ, sau đó tích luỹ hạt và
phát tán vào các vùng đất canh tác bán ngập.

các vùng đất canh tác bán ngập,
cây thờng xâm nhiễm ở các mơng nớc, bờ ruộng, khu vực đất hoang hoá ven
đờng và nhũng diện tích đất xấu, khó canh tác và tiến hành các hoạt động
phòng trừ cỏ dại.
Sự xâm lấn của cây TNTG không chỉ gây tác động xấu đối với môi
trờng, làm giảm đa dạng sinh học ở các vờn quốc gia mà còn gây ra nhiều tác
động về mặt kinh tế xã hội khác nh cản trở giao thông, ảnh hởng đến công tác
nuôi và khai thác cá trên sông, khu vực lòng hồ, cản trở hoạt động canh tác của

con ngời. Đặc biệt, sự xâm lấn của chúng ở các vùng đệm. Vùng canh tác bán
ngập đang làm thu hẹp dần diện tích đất canh tác, tăng chi phí sản xuất gây ảnh
hởng nghiêm trọng đến đời sống của nông dân ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
miền Trung và Đông Nam Bộ.
Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2005
Ngời viết báo cáo





Nguyễn Thái Phong

×