Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò (fasciolosis) tại huyện yên sơn, tỉnh tuyên quang và lựa chọn thuốc điều trị hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.91 KB, 61 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, trâu và bò luôn là vật nuôi không thể thiếu trong mỗi
gia đình. Trâu, bò là loài vật không có tính cạnh tranh thức ăn với con người
và có thể chuyển đổi từ thức ăn đơn giản như cỏ rơm, rạ thành sữa và thịt.
Không những thế, chúng còn cung cấp sức kéo và phân bón cho cây trồng
trong trồng trọt, góp phần làm giàu cho cuộc sống của người dân.
Hiện nay, nước ta đang chuyển dần cơ cầu từ chăn nuôi trâu, bò cày
kéo sang chăn nuôi trâu, bò theo hướng kiêm dụng vừa lấy sữa vừa lấy thịt.
Nhu cầu tiêu thụ thịt và sữa trâu, bò ngày càng tăng cao. Thịt trâu béo cung
cấp 2558 Kcal/kg, loại trung bình cung cấp 2080 Kcal/kg. Sữa được xếp vào
loại thực phẩm cao cấp vì nó hoàn chỉnh về dinh dưỡng và dễ tiêu hóa. Đàn
trâu, bò của nước ta ở thời điểm 1/4/2011 ước đạt 8,5 triệu con giảm 4,6% so
cùng kỳ. Tuy số lượng đầu con giảm, nhưng sản lượng thịt sản xuất tại thời
điểm 1/4/2011 lại tăng cụ thể: Thịt bò tăng 4,8%, thịt trâu tăng 9,3%. Chính vì
vậy, việc tăng số lượng đàn trâu, bò ở nước ta là rất quan trọng. Hiện nay đàn
trâu, bò ở nước ta đang tăng chậm không chỉ bởi vì do lai tạo trong truyền
giống, khả năng chống chịu giá rét trong mùa đông, kỹ thuật chăm sóc của
người dân mà còn do các loại bệnh. Ngoài những bệnh truyền nhiễm phổ biến
như Lở mồm long móng, Nhiệt thán, Tụ huyết trùng đàn trâu, bò ở nước ta
còn giảm bởi các bệnh ký sinh trùng.
Bệnh sán lá gan (Fasciolosis) do sán Fasciola hepatica và Fasciola
gigantica ký sinh trong gan và ống dẫn mật gây ra, ở nước ta chủ yếu là do
Fasciola gigantica. Bệnh thường xảy ra ở thể mãn tính, ít gây chết, nhưng
làm gia súc gầy ốm, tiêu chảy kéo dài, giảm năng suất, dễ mắc các bệnh
truyền nhiễm khác. Do nước ta là nước nhiệt đới gió mùa nên bệnh xảy ra
quanh năm, thời tiết nóng ẩm mưa nhiều tạo điều kiện cho ký chủ trung gian
phát triển. Vì vậy, bệnh được phát hiện ở khắp các tỉnh từ miền Bắc đến miền
Nam nước ta. Bình quân tỷ lệ nhiễm sán ở các vùng điều tra như sau: Vùng


đồng bằng từ 19,6 % đến 61,3 %, vùng trung du từ 16,4 % đến 50,2 %, vùng
ven biển từ 13,7 % đến 39,6 %, vùng núi từ 14,7 % đến 44,0 % (theo Phan
Địch Lân, 1994 [13]).
1
2
Gần đây, bệnh sán lá gan lớn trên người đã được phát hiện ở khắp
các tỉnh thành trong cả nước. Vì vậy, việc xác định tình hình bệnh sán lá
gan trên đàn trâu, bò để có biện pháp điều trị bệnh đạt kết quả cao là một
yêu cầu cấp thiết.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế của sản xuất chăn nuôi trâu, bò, chúng tôi
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu dặc điểm dịch tễ bệnh Sán lá gan trâu, bò
(Fasciolosis) tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và lựa chọn thuốc điều
trị hiệu quả”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò tại một số xã
của huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
- Lựa chọn thuốc đặc hiệu điều trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Kết quả đề tài là
những thông tin khoa học bổ sung và làm sáng tỏ hơn những yếu tố liên quan
đến sự phát sinh, phát triển của bệnh sán lá gan ở trâu, bò.
- Ý nghĩa thực tiễn: Xác định được một số thuốc có hiệu lực và độ an
toàn cao trong điều trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò, đề phòng được sự phát tán
và lây lan của mầm bệnh, từ đó giúp người chăn nuôi hạn chế được thiệt hại
do bệnh gây ra.
2
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài

2.1.1. Sán lá gan ký sinh ở trâu, bò
2.1.1.1. Loài sán, ký chủ và vị trí ký sinh
- Bệnh sán lá gan do hai loài sán lá Fasciola gigantica và Fasciola
hepatica gây ra.
- Ký chủ của sán lá gan gồm: Ký chủ cuối cùng và ký chủ trung gian.
+ Ký chủ cuối cùng: Là các gia súc nhai lại: Như trâu, bò, dê, cừu, cũng
thấy ở lợn, ngựa, thỏ, một số động vật hoang dã và cả người.
+ Ký chủ trung gian: Các loài ốc nước ngọt thuộc họ Lymnaea:
Lymnaea auricularia, L. swinhoei, L. viridis, Radix ovata
- Vị trí ký sinh: Sán thường ký sinh ở ống dẫn mật, đôi khi thấy sán ký
sinh ở tim, phổi, hạch lâm ba, tuyến tụy.
2.1.1.2. Đặc điểm sinh học của sán lá Fasciola
*
Vị trí của sán lá Fasciola trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Skrjabin và cs (1963), Nguyễn Thị Lê và cs (1996), sán lá gan ký
sinh và gây bệnh cho gia súc nhai lại được xếp trong hệ thống phân loại động
vật như sau:
Ngành Plathelminthes Schneider, 1873
Phân ngành Platodes Leuckart, 1854
Lớp Trematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Prosostomadidea Skrjabin và Guschanskaja, 1962
Bộ Fasciolida Skrjabin et Schulz, 1937
Phân bộ Fasciolata Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Fasciolidae Railliet, 1895
Phân họ Fasciolinae Stiles et Hassall, 1898
Giống Fasciola Linnaeus, 1758
Loài Fasciola hepatica (Linnaeus, 1758)
Loài Fasciola gigantica (Cobbold, 1885)
3
4

*
Đặc điểm hình thái của sán lá Fasciola
Sán lá gan lưỡng tính, có thể thụ tinh chéo hoặc tự thụ tinh. Sán có giác
miệng và giác bụng, giác bụng không nối với cơ quan tiêu hoá. Sán không có
hệ hô hấp, tuần hoàn và cơ quan thị giác (ở giai đoạn mao ấu có dấu vết sắc tố
mắt). Hệ sinh dục rất phát triển với cả bộ phận sinh dục đực và cái trong cùng
một sán. Tử cung sán chứa đầy trứng.
Có hai loài sán lá gan thuộc giống Fasciola là: F. gigantica, F. hepatica.
- Fasciola gigantica (Linnaeus, 1758) có chiều dài thân gấp ba lần
chiều rộng, “vai” không có hoặc nhìn không rõ rệt, nhánh ruột chia toả ra
nhiều nhánh ngang.
Fasciola gigantica dài 25 - 75 mm, rộng 3 - 12 mm, u lồi hình nón của
đầu là phần tiếp theo của thân, vì vậy nó không có “vai” như loài F.hepatica
của giống Fasciola. Hai rìa bên thân sán song song với nhau, đầu cuối của
thân tù. Giác bụng tròn lồi ra, ruột, tuyến noãn hoàng, buồng trứng và tinh
hoàn đều phân nhánh. Trứng hình bầu dục, màu vàng nâu, phôi bào to xếp kín
vỏ. Kích thước trứng 0,125 - 0,170 × 0,06 - 0,10 mm.
- Fasciola hepatica (Linneaus, 1758): Trái với loài trên, loài này thân
rộng và nhô ra phía trước làm cho sán có “vai”, nhánh ruột chia ít nhánh
ngang hơn.
Fasciola hepatica dài 18 - 51 mm, rộng 4 - 13 mm, phần thân trước
nhô ra, tạo cho sán có vai bè ra hai bên. Hai rìa bên thân sán không song song
với nhau mà phình ra ở chỗ vai rồi thót lại ở đoạn cuối thân. Những ống dẫn
tuyến noãn hoàng chạy ngang, chia vùng giữa của sán thành phần trước và
phần sau thân. Phần sau thân có tinh hoàn và bộ phận sinh dục đực. Tinh hoàn
phân nhiều nhánh xếp phía sau thân. Tử cung ở giữa phần thân trước tạo nên
một mạng lưới dày đặc. Buồng trứng phân nhánh nằm ở sau tử cung.
Trứng sán có hình thái, màu sắc tương tự trứng của loài F. gigantica, kích
thước 0,13 - 0,145 × 0,07 - 0,09 mm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008 [11]).
*

Đặc điểm vòng đời của sán lá Fasciola
Chu kỳ sinh học của sán lá Fasciola đã được Leukart (1882) nghiên
cứu ở Đức và Thomas (1882) nghiên cứu ở Anh.
4
5
Fasciola trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật của trâu, bò, dê Sau
khi thụ tinh, mỗi sán đẻ hàng chục vạn trứng. Những trứng này cùng dịch mật
vào ruột, sau đó theo phân ra ngoài gặp điều kiện thuận lợi: được nước mưa
cuốn trôi xuống các vũng nước, hồ, ao, suối, ruộng nước… nhiệt độ 15 -
30
o
C, pH = 5 - 7,7, có ánh sáng thích hợp… sau 10 - 25 ngày trứng nở thành
Miracidium bơi tự do trong nước. Nếu thiếu ánh sáng, Miracidium không có
khả năng thoát vỏ nhưng vẫn tồn tại đến 8 tháng trong vỏ, Miracidium có hình
tam giác, xung quanh thân có lông di chuyển được trong nước. Khi gặp vật
chủ trung gian thích hợp (ốc Lymnaea), Miracidium xâm nhập vào cơ thể ốc
và phát triển thành bào ấu (Sporocyst). Những Miracidium không gặp vật chủ
trung gian thì rụng lông, rữa dần và chết.
Bào ấu (Sporocyst) hình túi, màu sáng, được bao bọc bởi lớp màng
mỏng, các tế bào ngọn lửa hoạt động hình thành hầu, ống ruột và các đám
phôi. Trong một ốc có thể có 1 - 2 ấu trùng. Khoảng 3 - 7 ngày, bào ấu sinh
sản vô tính cho ra nhiều Redia (lôi ấu). Một bào ấu sinh ra từ 5 - 15 lôi ấu.
Redia hình suốt chỉ, ít hoạt động, có miệng, hầu, ruột, hình túi đơn
giản, Có hai hệ: Redia thế hệ I và Redia thế hệ II cùng phát triển trong ốc - vật
chủ trung gian. Ở nhiệt độ 16
o
C hoặc thấp hơn, lôi ấu chỉ sản sinh Redia I và
dừng phát triển. Ở nhiệt độ phù hợp (20 - 30
o
C), sau 29 - 35 ngày, lôi ấu biến

thành vĩ ấu (Cercaria). Một Redia có thể sinh ra 12 - 20 Cercaria.
Cercaria (vĩ ấu) là ấu trùng ở pha sống tự do của sán lá gan, có cấu tạo
thân hình tròn lệch, đuôi dài hơn thân, giúp vĩ ấu vận chuyển được dễ dàng
trong nước. Cấu tạo của vĩ ấu gồm giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản và
ruột phân thành hai nhánh.
Từ khi Miracidium chui vào ốc đến khi phát triển thành Cercaria cần
khoảng 50 - 80 ngày. Sau khi thành thục, Cercaria thoát khỏi ốc, ra môi
trường ngoài bơi tự do trong nước, có kích thước 0,28 - 0,30 mm chiều dài và
0,23 mm chiều rộng. Sau vài giờ bơi trong nước, Cercaria rụng đuôi, tiết chất
nhầy xung quanh thân, chất nhầy gặp không khí khô rất nhanh. Lúc này
Cercaria đã biến thành Adolescaria.
Adolescaria hình khối tròn, bên trong chứa phôi hoạt động. Phôi có
giác miệng, giác bụng, ruột phân nhánh và túi bài tiết, Adolescaria thường ở
5
6
trong nước hoặc bám vào cây cỏ thuỷ sinh. Nếu trâu, bò, dê nuốt phải
Adolescaria, vào đến dạ dày và ruột, lớp vỏ ngoài bị phân huỷ, ấu trùng được
giải phóng và di chuyển đến ống mật bằng ba con đường:
- Một số ấu trùng dùng tuyến xuyên chui qua niêm mạc ruột, vào tĩnh
mạch ruột, qua tĩnh mạch gan, xuyên qua nhu mô vào ống mật.
- Một số ấu trùng khác cũng dùng tuyến xuyên chui qua thành ruột vào
xoang bụng, đến cửa gan, xuyên qua vỏ gan vào ống mật.
- Một số ấu trùng từ tá tràng ngược dòng dịch mật để lên ống dẫn mật.
Sau khi vào ống dẫn mật, ấu trùng ký sinh ở đó và phát triển thành sán
lá gan trưởng thành. Theo Skerman (1996), thời gian sán lá gan hoàn thành
vòng đời là 92 - 117 ngày, Fasciola trưởng thành có thể ký sinh trong ống dẫn
mật của súc vật nhai lại từ 3 - 5 năm, có khi tới 11 năm.
Tóm tắt sơ đồ vòng đời của sán lá Fasciola
Fasciola
(ống dẫn mật)

Phân Trứng As, t
o
, pH
Mao ấu
Ốc
nước
ngọt
Trâu

nuốt
phải
nang
ấu
Môi trường nước
7 ngày
Bào ấu
8-21 ngày
Lôi ấu

Nang ấu
Rời KCTG sau
2giờ
20-28 ngày
Vĩ ấu
(lơ lửng trong nước hoặc bám vào
cây cỏ thuỷ sinh)
2.1.2. Đặc điểm của bệnh do sán lá Fasciola gây ra ở trâu, bò
Trâu, bò bị bệnh sán lá gan thể hiện những biến đổi cơ bản ở gan và
ống dẫn mật do tác động của Fasciola gây ra.
6

7
2.1.2.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá Fasciola ở trâu, bò
Bệnh sán lá gan phổ biến khắp các châu lục và nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, bệnh thấy ở khắp các tỉnh thành trong cả nước.
Houmeder (1938) đã điều tra và thấy, trâu, bò, dê, cừu, thỏ ở miền Bắc
Việt Nam đều nhiễm sán lá F. gigantica theo tỷ lệ thứ tự là 64,7 %; 23,5 %;
37 %; 52,94 %; 14,28 %.
Đoàn Văn Phúc và cs (1980) [21] đã kiểm tra phân của 64 bò tại trại
bò sữa Hà Nội, thấy tỷ lệ nhiễm sán Fasciola là 73,43%. Tác giả còn cho
biết, bệnh sán lá gan đã ảnh hưởng rõ rệt đến sức khoẻ và sản lượng sữa
của đàn bò.
Đoàn Văn Phúc và cs (1995) [22] cho biết, trâu bò thuộc khu vực Hà
Nội nhiễm sán lá gan với tỷ lệ 53,41 %.
Kết quả điều tra trâu, bò ở một số địa phương xung quanh Hà Nội, Bắc
Giang, Thái Nguyên, Hoà Bình, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 44,53 %. Trong đó,
trâu nhiễm 33,92 %, bò nhiễm 54,21 % (Lương Tố Thu và Bùi Khánh Linh,
1996 [29]).
Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò phụ thuộc vào những yếu
tố sau:
- Yếu tố thời tiết, khí hậu và mùa vụ
Thời tiết, khí hậu của một vùng, một khu vực có liên quan trực tiếp đến
sự tồn tại và phát triển của ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan. Điều kiện
ẩm ướt, mưa nhiều, tạo môi trường thuận lợi giúp ốc nước ngọt sống và sinh
sản thuận lợi.
Trịnh Văn Thịnh (1963) [26], Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [27], Phạm
Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5], Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9]…
đều cho biết, trâu, bò nhiễm sán lá gan thường tăng lên vào mùa vật chủ trung
gian phát triển. Những năm mưa nhiều, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng lên so với
những năm nắng ráo khô hạn. Mùa vụ gắn liền với sự thay đổi thời tiết khí
hậu. Mùa hè thu, số gia súc bị nhiễm sán lá gan tăng cao hơn các mùa khác

trong năm. Cuối mùa thu và mùa đông bệnh thường phát ra.
- Yếu tố vùng và địa hình
Vùng và địa hình là hai khái niệm khác nhau, song có liên quan chặt
chẽ với nhau. Các vùng khác nhau có địa hình không giống nhau. Địa hình là
yếu tố quan trọng quyết định sự khác nhau giữa các vùng.
7
8
Các vùng khác nhau trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều
có bốn loại địa hình: ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi.
Hầu hết các nhà ký sinh trùng học thống nhất rằng, gia súc nhai lại ở
vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan nhiều nhất, tỷ lệ và cường độ nhiễm giảm
dần đối với đàn gia súc ở vùng ven biển, vùng trung du và vùng núi. Nguyên
nhân dẫn đến quy luật này, các tác giả Trịnh Văn Thịnh, 1963 [25]; Phạm
Văn Khuê và cs, 1996 [5]; Soulsby, 1982 [39]; Kaufmann, 1996 [38] đều cho
rằng: vùng đồng bằng có nhiều hồ, ao, kênh rạch, tạo điều kiện thuận lợi cho
ốc - vật chủ trung gian sống và sinh sản. Các kiểu địa hình khác thì vấn đề
này hạn chế hơn so với đồng bằng.
- Yếu tố loài và tuổi vật chủ cuối cùng
Súc vật nhai lại đã được thuần hoá như trâu, bò, dê, cừu đều nhiễm sán
lá gan Fasciola. Ngoài ra, súc vật hoang dã cũng nhiễm sán lá này (hươu, nai,
hoẵng…). Cũng có những trường hợp thỏ, ngựa, lợn nhiễm Fasciola, ngay cả
người cũng có thể nhiễm sán.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [27], Phạm Văn Khuê và cs (1996)
[5], loài súc vật nhiễm sán nhiều nhất là trâu (79,6%), bò ít hơn (36%), dê ít
nhất (20%). Sở dĩ trâu nhiễm sán lá gan nhiều nhất là do đặc tính ưa nước của
chúng (thích ăn gần chỗ có nước, đằm tắm trong nước và uống nước ở vũng,
ao, kênh rạch), trong khi đặc điểm của bò và dê ít ưa nước hơn.
Về mối liên quan giữa tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan với tuổi vật
chủ, các tác giả đều thống nhất rằng, tuổi súc vật càng cao thì tỷ lệ và cường
độ nhiễm càng tăng lên. Súc vật tuổi càng tăng lên (thời gian sống càng dài)

thì sự tiếp xúc với môi trường ngoại cảnh càng nhiều, cơ hội gặp và nuốt phải
nang ấu (Adolescaria) càng cao. Mặt khác, sán Fasciola trưởng thành có thời
gian ký sinh ở súc vật nhai lại tương đối dài (3 - 5 năm, thậm chí tới 11 năm).
Đó chính là cơ sở khoa học giải thích cho quy luật nhiễm theo tuổi vật chủ
của sán lá Fasciola spp.
Phan Địch Lân (1994) [13] ; (2004) [14], cho biết: Ở trâu dưới 3 tuổi tỷ
lệ nhiễm sán nhiễm sán lá gan từ 17,20 - 22,00%; trâu 3 - 5 tuổi nhiễm từ
31,20 - 40,20%, trâu 5 - 8 tuổi nhiễm từ 42,40% - 57,50%, trâu trên 8 tuổi
nhiễm từ 56,80 - 66,30%, trâu ở độ tuổi phế thải (loại thải), khi mổ khám thấy
8
9
tỷ lệ cao tới 84,60% (những trâu này bị bệnh rất nặng, gan phải huỷ bỏ toàn
bộ do có quá nhiều sán ký sinh).
Nguồn reo rắc bệnh chủ yếu là súc vật nuôi (trâu, bò, dê, cừu…) và
những dã thú mang Fasciola. Trứng sán lá gan theo phân của súc vật ra ngoài
tự nhiên. Hàng năm, mỗi sán lá gan ký sinh đẻ khoảng 6000 trứng. Vì vậy,
mỗi súc vật mang sán hàng năm thải khối lượng trứng khá lớn ra đồng cỏ và
các bãi chăn thả. Những đồng cỏ ẩm thấp, lầy lội là những nơi cần thiết để
mầm bệnh phát triển và xâm nhập vào súc vật, đồng thời thuận lợi cho trứng
nở thành Miracidium và thuận lợi cho vật chủ trung gian của Fasciola tồn tại
và phát triển.
- Vật chủ trung gian
Sự phân bố các loài ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan phụ thuộc
vào các vùng địa lý khác nhau. Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5],
Kaufmann (1996) [38], vật chủ trung gian của sán lá gan là các loài ốc nước
ngọt họ Lymnaea: L. auricularia, L. swinhoei, L. siridis, Galba truncatula,
Radix ovata…
Theo Jorgen Hansen và cs (1994) [37], nhiệt độ thích hợp nhất cho sự
phát triển của ốc là 15 - 26
0

C, khi ở nhiệt độ này chúng đẻ số lượng rất lớn.
Trứng nở trong vòng 2 tuần và sau 1 tháng thành ốc trưởng thành. Một con ốc
trong vòng 10 - 12 tuần có thể sinh sản ra hàng ngàn con ốc. Dưới 10
0
C, ốc
không phát triển và ngừng hoạt động. Tuy nhiên, ốc có thể chui vào bùn và
sống trong điều kiện bất lợi nhiều tháng.
Nguyễn Trọng Kim (1997) [7] đã khảo sát đặc điểm sinh học của ốc -
vật chủ trung gian của F. gigantica ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả cho biết,
vật chủ trung gian của sán lá Fasciola là hai loài ốc nước ngọt thuộc giống
Lymnaea với tên gọi là ốc vành tai (L. swinhoei) và ốc chanh (L. viridis). Loài
L. swinhoei có vỏ mỏng, dễ vỡ, không có nắp miệng, kích thước 20 mm, vòng
xoắn cuối cùng rất lớn, chiếm gần hết phần thân, vỏ loe ra như vành tai. Loài
L. viridis cũng có vỏ mỏng, không có nắp miệng, kích thước 10 mm, vỏ dễ
vỡ, có 4 - 5 vòng xoắn, vòng xoắn cuối cùng lớn.
9
10
Ốc L. viridis thường sống ở những nơi nước xâm xấp, đẻ 7 - 10 trứng,
sau 7 ngày nở thành ốc con. Ốc L. swinhoei thường sống trôi nổi ở cống rãnh,
ao, hồ, đẻ trứng quanh năm và quanh năm có ốc con được nở ra.
Phan Địch Lân (1994, 2004), ([13], [14]) cho biết: Ốc L. swinhoei phân
bố nhiều nơi ở vùng đồng bằng, trong khi ốc L. viridis phân bố nhiều ở vùng
núi, trung du và ven biển. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả thì hai loài ốc
này đều xuất hiện trong cả 12 tháng của năm, nhưng mật độ (tính trên 1m
2
)
khác nhau theo vùng: Vùng đồng bằng, mật độ ốc L. swinhoei cao hơn và
phân bố đều trong năm, còn ốc L. viridis thì xuất hiện với mật độ cao hơn ở
các vùng núi, trung du, ven biển. Từ đó, tác giả nhận xét rằng, L. swinhoei
chịu nước hơn, còn L.viridis chịu cạn hơn.

Sự tồn tại và phát triển quanh năm, ở tất cả các vùng của ốc - vật chủ
trung gian là điều kiện quan trọng nhất làm cho tỷ lệ nhiễm sán lá gan của súc
vật nhai lại ở nước ta cao và phổ biến ở tất cả các vùng.
- Sức đề kháng của trứng và ấu trùng sán lá gan
Trứng sán lá gan được thải theo phân súc vật nhai lại ra môi trường
ngoại cảnh. Trứng sán rất nhạy cảm với điều kiện khô hạn và tác động trực
tiếp của ánh sáng mặt trời. Ở trong phân khô, phôi ngừng phát triển, trứng bị
chết sau 8 - 9 ngày.
Trong điều kiện khô hạn, vỏ trứng bị nhăn nheo, biến đổi hình dạng.
Miracidium bị chết trong vỏ trứng sau 1 - 1,5 ngày. Ở môi trường ẩm ướt,
trứng có khả năng sống khá lâu (trong phân hơi ẩm, trứng tồn tại đến 8
tháng). Dưới ánh nắng chiếu trực tiếp, trứng chết nhanh. Phôi bị chết sau 2
ngày ở nhiệt độ thấp (- 5
0
C → - 15
0
C). Nhiệt độ 10 - 20
0
C trứng ngừng phát
triển. Nhiệt độ 40 - 50
0
C, phôi chết sau vài phút (Phạm Văn Khuê và cs, 1996
[5]).
Khi phát triển đến giai đoạn nang ấu (Adolescaria), sức đề kháng của
chúng tăng lên rõ rệt, Adolescaria có khả năng tồn tại ở nhiệt độ - 4
0
C → -
6
0
C. Ở điều kiện nhiệt độ bình thường, những Adolescaria có trong cỏ khô bị

ẩm và trong môi trường nước có thể tồn tại đến trên 5 tháng.
2.1.2.2. Cơ chế sinh bệnh của bệnh sán lá Fasciola
10
11
Theo các nhà ký sinh trùng học, sán lá gan gây bệnh ở vật chủ bằng các
tác động cơ học, tác động của độc tố, sự chiếm đoạt chất dinh dưỡng và tác
động mang trùng. Khi súc vật mới bị bệnh, sán non di hành trong cơ thể làm
tổn thương ở ruột, thành mạch máu, nhu mô gan. Một số ấu trùng có thể theo
máu di chuyển “lạc chỗ” đến phổi, lách, cơ hoành, tuyến tuỵ… gây tổn
thương và xuất huyết (nặng hoặc nhẹ). Sán non xuyên qua các nhu mô gan,
làm tổ chức gan bị phá hoại, tạo ra những đường di hành đầy máu và mảnh tổ
chức gan bị phá huỷ. Gan bị viêm từ nhẹ đến nặng tùy theo số lượng ấu trùng
nhiễm vào cơ thể. Súc vật bị thiếu máu do xuất huyết, có thể chết do mất máu.
Tác động cơ giới của sán còn tiếp tục khi sán đã vào ống dẫn mật, sán
tiếp tục tăng lên về kích thước và phát triển thành sán trưởng thành. Sán
trưởng thành thường xuyên kích thích lên niêm mạc ống dẫn mật bằng các gai
cutin trên cơ thể, gây viêm ống dẫn mật. Số lượng sán nhiều có thể làm tắc
ống dẫn mật, dịc mật ứ lại không xuống ruột được sẽ tràn vào máu, gây hiện
tượng hoàng đản.
Trong quá trình ký sinh, sán thường tiết độc tố, độc tố tác động vào
thành ống dẫn mật và nhu mô gan, gây biến đổi đại thể và vi thể, làm tăng quá
trình viêm. Đồng thời, độc tố của sán còn hấp thu vào máu, gây hiện tượng
trúng độc toàn thân, gây huỷ hoại máu, làm biến chất protein trong máu, làm
giảm Albumin, và tăng globulin. Độc tố của sán còn làm tăng nhiệt độ cơ thể,
tăng bạch cầu (đặc biệt là bạch cầu ái toan), tác động vào thần kinh, làm cho
con vật có triệu chứng thần kinh (run rẩy, đi xiêu vẹo…). Độc tố của sán lá
gan tác động vào thành mạch máu, làm tăng tính thấm của thành mạch, gây
hiện tượng thủy thũng, làm cho máu đặc lại. Cũng do tác động của độc tố nên
giữa những tiểu thuỳ gan có hiện tượng thấm nhiễm huyết thanh và tế bào,
hình thành nên các mô liên kết mới dọc theo các vách ngăn của tiểu thuỳ gan

và quanh ống mật, vì vậy những ống mật này cũng dày lên. Quá tình viêm kéo
dài làm cho các tế bào tổ chức tăng sinh, thay thế những tế bào nhu mô gan,
gây hiện tượng xơ gan và teo gan. Khi súc vật nhiễm sán lá gan nặng, hiện
tượng xơ gan chiếm diện tích lớn của gan, làm cho chức năng của gan bị phá
hủy. Từ đó dẫn đến hàng loạt rối loạn khác như: rối loạn cơ năng dạ dày -
ruột, thiếu máu, suy nhược, gầy dần, cổ chướng, xoang phúc mạc tích nước.
11
12
Một tác động quan trọng của Fasciola khi ký sinh ở vật chủ là chiếm
đoạt dinh dưỡng. Dinh dưỡng của sán lá gan là máu của súc vật mà nó ký
sinh. Bằng phương pháp phóng xạ người ta đã thấy mỗi sán ký sinh ở ống dẫn
mật lấy 0,2 ml máu mỗi ngày. Như vậy, nếu súc vật nhiễm ít sán thì vai trò
chiếm đoạt chất dinh dưỡng không rõ, nhưng nếu súc vật có hàng trăm, hàng
nghìn sán ký sinh thì lượng máu mất đi rất nhiều.
Ngoài các tác động gây bệnh trên, trong khi di hành, sán non còn mang
theo các loại vi trùng từ bên ngoài vào máu, gan và những cơ quan khác, gây
những bọc mủ hoặc gây bệnh truyền nhiễm khác.
Tất cả những tác động trên của sán lá Fasciola làm cho sức đề kháng
của cơ thể trâu, bò giảm sút nghiêm trọng, dễ mắc các bệnh khác, hoặc làm
cho các bệnh đang có trong cơ thể súc vật nặng thêm.
2.1.2.3. Triệu chứng bệnh sán lá Fasciola ở trâu, bò
Triệu chứng lâm sàng là biểu hiện ra bên ngoài bởi các tác động gây
bệnh của sán Fasciola. Triệu chứng ở trâu, bò biểu hiện nặng hay nhẹ còn phụ
thuộc vào cường độ nhiễm sán, tình trạng sức khoẻ và tuổi của súc vật, tình
trạng chăm sóc quản lý…
- Thể cấp tính thường gặp ở trâu, bò 1,5 - 2 năm tuổi (Phạm Văn Khuê
và cs, 1996 [5]), trong giai đoạn sán non di hành hoặc khi nuôi dưỡng chăm
sóc kém.
Trâu, bò biểu hiện: Ăn uống kém, suy nhược, chướng bụng, ỉa chảy,
miệng hôi, sốt, gan sưng to và đau, thiếu máu, vàng da, đôi khi có triệu chứng

thần kinh (lảo đảo, xiêu vẹo). Súc vật có thể chết do xuất huyết nặng, trúng
độc và suy nhược cơ thể.
- Thể mãn tính thấy phổ biến ở trâu, bò trưởng thành, khi trâu, bò được
nuôi dưỡng tốt và sán đã ở giai đoạn trưởng thành, ký sinh trong ống dẫn mật
với số lượng ít.
Trâu, bò biểu hiện: Ăn uống kém, suy nhược, niêm mạc nhợt nhạt, lông
xù và dễ rụng (nhất là lông ở vùng dọc hai bên sườn và dọc xương ức). Xuất
hiện thủy thũng ở mí mắt, yếm, ngực, bộ phận sinh dục. Con vật nhai lại yếu,
khát nước, ỉa chảy xen kẽ táo bón, gầy yếu dần. Giai đoạn sau đi tháo nhiều
hơn và gầy rất nhanh. Kiểm tra lâm sàng thấy gan sưng to và đau. Có thể thấy
hiện tượng sảy thai ở bò cái bị bệnh, lượng sữa có thể giảm 30 - 50%. Triệu
12
13
chứng thần kinh cũng có thể gặp song rất hiếm. Bệnh kéo dài nhiều tháng,
con vật có thể chết do suy nhược toàn thân.
Nhìn chung, khi súc vật bị bệnh sán lá gan kéo dài, cơ thể suy nhược
nặng, nếu không được điều trị kịp thời thì xúc vật thường chết.
2.1.2.4. Bệnh tích của trâu, bò mắc bệnh sán lá Fasciola
Đối với trâu, bò nhiễm nặng, bệnh tích thấy rõ là viên gan cấp tính, gan
sưng to, màu vàng sẫm, xung huyết. Trên mặt gan có thể thấy những đường di
hành của sán non tạo thành những vệt đỏ thẫm, dài 2 - 4 mm, trong đó sán
non với số lượng nhiều. Lớp thanh mạc xuất huyết nhẹ, đôi khi có tơ huyết.
Khi nhiễm nặng thấy viêm phúc mạc, gan xuất huyết nhiều, niêm mạc mắt
nhợt nhạt.
Ở những trâu, bò nhiễm sán lá gan đã lâu, gan viêm mãn tính, những
chỗ nhu mô gan bị phá hủy có sẹo mầu vàng xám. Gan xơ cứng, niêm mạc
ống dẫn mật dày, có hiện tượng canxi hoá mặt trong thành ống. Lòng ống dẫn
mật dãn rộng, chứa đầy dịch mật màu nâu và sán Fasciola. Khi ống dẫn mật
bị canxi hoá nhiều, sán ở chỗ đó thường bị chết hoặc chuyển đến chỗ ít biến
đổi hơn.

Ngoài gan và ống mật, đôi khi còn thấy sán ở phổi trâu, bò. Trường hợp
này sán lá ở trong những bọc bằng quả trứng gà hoặc nhỏ hơn, trong chứa
dịch màu nâu (Vũ Đức Hạnh, 2009 [1]).
Quan sát biến đổi vi thể do sán F. gigantica ở dê được Nguyễn Thị
Kim Lan (2000) [10] mô tả như sau:
Sán lá gan ký sinh ở ống dẫn mật với số lượng nhiều làm tắc ống mật,
làm cho dịch mật ứ lại xung quanh các huyết quản, gây ra huyết khối trong
các mạch quản gian thùy.
Sán lá gan ký sinh ở ống dẫn mật làm cho dịch mật ứ lại, kích thích tế
bào biểu mô ống dẫn mật tăng sinh, hình thành các ống dẫn mật phụ.
Thành ống dẫn mật bị sơ hoá, dày và xù xì. Tế bào biểu mô của ống
mật bị đứt nát do tác động của sán Fasciola.
Do ống dẫn mật bị tắc, dịch mật ứ lại ở quãng cửa, quan sát thấy rõ
màu vàng của dịch mật.
13
14
Tác động cơ học và độc tố của sán Fasiola kích thích, là tăng sinh các
tế bào viêm và các tế bào xơ xung quanh ống mật, đặc biệt là tăng sinh nhiều
bạch cầu ái toan.
Thành ống dẫn mật cũng có những biến đổi rõ rệt. Đó là sự tăng sinh
các tế bào xơ và tế bào viêm ở thành ống mật. Sự có mặt của rất nhiều bạch
cầu ái toan ở thành ống mật rất đặc trưng cho phản ứng của cơ thể đối với tác
động của giun sán.
Theo Nguyễn Hữu Hưng (2011) [4], bệnh tích vi thể của gan nhiễm sán
qua phương pháp làm tiêu bản vi thể tại phòng thí nghiệm cho thấy: Sán non
cư trú trong nhu mô gan và ăn tổ chức, số lượng ống dẫn mật tăng sinh. Nhu
mô gan xuất huyết, ứ huyết. Gan vàng, một số vùng trên nhu mô gan bị hoại
tử. Xuất hiện các nốt mủ trong nhu mô gan, các hạt mỡ to nhỏ chứa đầy trong
tế bào gan. Trong nhu mô gan xuất hiện các tổ chức xơ.
Nghiên cứu bệnh sán lá gan ở trâu, bò, Phan Địch Lân (1994, 2004),

([13], [14]), cho biết: khi mổ khám trâu, bò bị bệnh sán lá gan thấy có bệnh tích
đặc biệt là gan to hơn nhiều so với bình thường (gấp 2 - 3 lần). Gan màu đỏ
sẫm, biểu hiện sung huyết, dưới vỏ gan thấy ứ nước, trên mặt gan còn giữ lại
những đường ngoằn nghèo do sán di hành. Tổ chức liên kết phát triển tạo nên
những sẹo đặc biệt. Trong gan còn thấy những sán non không đến được ống
dẫn mật, đóng kén to bằng hạt đậu và chết trong kén. Cắt tổ chức gan thấy lạo
xạo do biến chất thoái hoá. Do tăng sinh tổ chức liên kết nên gan cứng và xơ
gan. Trường hợp viêm phúc mạc bụng chứa nhiều nước (cổ chướng).
2.1.2.5. Chẩn đoán bệnh sán lá Fasciola ở trâu, bò
Việc chẩn đoán có thể được tiến hành trên súc vật còn sống hoặc đã
chết. Tùy điều kiện thực tế mà áp dụng biện pháp phù hợp.
- Đối với súc vật còn sống:
Để chẩn đoán bệnh do Fasciola gây ra, thường áp dụng các biện pháp
như: chẩn đoán lâm sàng, kết hợp đặc điểm dịch tễ, xét nghiệm phân con vật
nghi bệnh và chẩn đoán miễn dịch học.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh sán lá gan thường dễ thấy nhất là: Kiệt
sức, suy nhược, rụng lông, phù thũng ở ngực, ức… Tuy nhiên, các biểu hiện
14
15
trên không chỉ thấy ở bệnh do Fasciola gây nên. Vì vậy, triệu chứng lâm sàng
không phải là căn cứ duy nhất để kết luận bệnh.
Những dẫn liệu dịch tễ học của bệnh cần xem xét là: yếu tố mùa vụ,
vùng và tuổi súc vật bệnh. Song, những dẫn liệu này chỉ là những thông tin
cần xem xét trong chẩn đoán chứ không phải là sở cứ quan trọng nhất trong
chẩn đoán.
Việc xét nghiệm phân tìm trứng Fasciola là biện pháp có tính quyết
định trong chẩn đoán. Thường dùng phương pháp gạn rửa nhiều lần. Theo
Phạm Văn Khuê và cs (1996) [5], phương pháp này phổ biến nhưng chưa phát
hiện được tất cả mọi gia súc nhiễm sán Fasciola, nhất là ở những trâu, bò
nhiễm ít hoặc ở giai đoạn sán còn non. Khi xét nghiệm phân, cần phân biệt

trứng Fasciola với trứng Paramphistomum ký sinh ở dạ cỏ (phân biệt về màu
sắc, hình dạng, tế bào noãn hoàng và kích thước).
Đặc điểm hình thái Trứng Fasiola Trứng Paramphistomum
Màu sắc
Hình dạng
Tế bào noãn hoàng
Kích thước
Màu vàng nâu
Hình bầu dục, phình rộng ở
giữa và hai đầu thon nhỏ gần
đều nhau.
To đều và xếp kín trong vỏ
trứng, ranh giới giữa các
phôi bào rõ ràng
0,13 - 0,16 × 0,06 - 0,10 mm
Màu tro nhạt
Hình trứng, phình rộng ở giữa,
thon về hai đầu không đều
nhau, đầu nhỏ có nắp trứng.
Phôi bào trong trứng xếp không
đều nhau, có khi dồn lại thành
đám lớn,
0,13 - 0,15 × 0,16 - 0,08 mm
Phương pháp miễn dịch học để phát hiện súc vật nhiễm Fasciola đã
được sử dụng là: dùng kháng nguyên tiêm nội bì, căn cứ vào phản ứng nơi
tiêm để kết luận. Các phương pháp như: phương pháp miễn dịch men ELISA,
phương pháp miễn dịch huỳnh quang… Tuy nhiên, do khó khăn về phương
tiện và việc chế kháng nguyên chuẩn nên các phương pháp này còn ít được
dùng trong bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh sán lá gan nói riêng.
Phương pháp kiểm tra phân có một số hạn chế là không pháp hiện được

sán non, ấu trùng của sán và độ đặc hiệu không cao. Hiện nay các nhà khoa
15
16
học đang nghiên cứu ứng dụng phương pháp sinh học phân tử sử dụng chỉ thị
di truyền là AND hệ gen của nhân tế bào hoặc là hệ gen ty thể cho kết quả có
độ tin cậy cao, rất phù hợp để xác định chính xác loài Fasciola kí sinh tại gia
súc ở nước ta.
- Đối với trâu, bò chết:
Khi trâu, bò chết, mổ khám tìm sán Fasciola ở giai đoạn ấu trùng và
trưởng thành trong ống dẫn mật, gan, xoang bụng… Phương pháp này chính
xác hơn cả, vì tìm thấy cả sán non ở giai đoạn di hành.
2.1.2.6. Phòng và tri bệnh sán lá Fasciola cho trâu, bò
*
Điều trị bệnh
Hiện nay, có thể tẩy sán lá gan cho trâu bò bằng một trong các loại
thuốc sau:
- Thuốc Dertil: Dertil là thuốc có tác dụng đặc hiệu với sán lá gan
Fasciola, tên gọi khác: Menichlofolan, Bayer ME 3625, Bayer 9015A,
Bilevon M. Dertil được bào chế thành viên to, màu xanh lá cây đậm. Viên
Dertil “O” có chứa 100 mg hoạt chất, viên Dertil ”B” chứa 300 mg hoạt chất.
Dertil có tác dụng diệt sán lá gan trưởng thành ở trâu bò, với liều cao
còn diệt được cả sán non đang di hành trong nhu mô gan. Thuốc chỉ cần dùng
một lần, không cần điều trị lặp lại. Được chỉ định điều trị bệnh sán lá gan cấp
tính và mãn tính cho trâu, bò.
Liều lượng:
Bò: 5 - 6 mg/kg TT; Trâu: 8 - 9 mg/kg TT.
Cho từng cá thể uống thuốc, hoặc gói thuốc vào lá chuối non, đưa sâu
vào miệng cho con vật nuốt.
- Thuốc Fasiolid (tên khác: Fasciolidum)
Thuốc được bào chế dưới dạng dung dịch màu vàng nâu, chứa 25%

hoạt chất là Nitroxynil, Fasiolid có tác dụng tẩy sán lá gan Fasciola dạng
trưởng thành và các giun tròn đường tiêu hoá loài nhai lại, được chỉ định tẩy
sán lá gan cho trâu, bò.
16
17
Liều lượng: 0,04 ml/ kg TT (1 ml /25 kg TT, tương đương 1mg hoạt
chất/kg TT. Tiêm dưới da. Để tẩy sán lá gan, nên dùng thuốc 2 - 3 lần, cách
nhau 25 - 30 ngày.
- Thuốc Tolzan - F (chế phẩm của Oxyclozanid), được bào chế dưới
dạng dung dịch hoặc viên nén, dùng với liều 10 - 11 mg / kg TT. Thuốc có tác
dụng đặc hiệu với sán Fasciola trưởng thành và sán non ở trâu, bò, dê, cừu.
- Thuốc Fasinex (chế phẩm của Trilabendazole): Thuốc có tác dụng
diệt cả sán non và sán trưởng thành ký sinh ở ống dẫn mật hoặc đang di hành
trong các nhu mô gan.
Fasinex được chỉ định dùng điều trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò.
Liều lượng: 10 - 12 mg / kg TT. Cho uống một lần duy nhất. Thuốc có
hiệu lực cao và an toàn cho gia súc dùng thuốc.
Ngoài các thuốc trên, Albendazole, Bithionol, Closantel cũng có tác
dụng tẩy sán lá Fasciola ở trâu, bò.
Lương Tố Thu và cs, 1997 [30] đã nhận định về các thuốc trị sán lá
gan và kết quả thử nghiệm ở trâu, bò Việt Nam. Các tác giả khuyến cáo
rằng, trên thị trường Việt Nam hiện nay nên sử dụng Fasinex - 900 dạng
viên (1 viên/75 - 100 kg TT) hoặc Fasinex - 900 dạng sữa (10 ml / 100 kg
TT), cho hiệu lực cao.
* Phòng bệnh
Cơ sở khoa học đề ra quy trình phòng ngừa tổng hợp bệnh sán lá gan
cho trâu, bò là: Phải nắm được cụ thể chu kỳ sinh học của sán lá Fasciola,
sinh học của ốc - vật chủ trung gian và tình hình dịch tễ của bệnh.
Biện pháp phòng ngừa tổng hợp gồm:
- Định kỳ tẩy sán lá gan cho trâu, bò để ngăn chặn mầm bệnh phát tán

rộng rãi, đồng thời phòng ngừa cho súc vật không bị tái nhiễm.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [5], hàng năm nên tẩy sán cho toàn
đàn ít nhất hai lần, lần đầu vào mùa xuân (trước mùa vật chủ trung gian phát
triển), lần thứ hai vào cuối mùa thu nhằm diệt những sán đã nhiễm trong vụ
Xuân - Hè, ngăn ngừa bệnh phát ra ở mùa đông.
17
18
- Ủ phân theo phương pháp sinh học, lợi dụng quá trình lên men sinh
nhiệt các chất hữu cơ trong phân của hệ vi sinh vật để tiêu diệt trứng sán lá
gan trong phân trâu, bò. Biện pháp này có hiệu quả và đơn giản nhất để phòng
bệnh do sán Fasciola gây ra.
- Xử lý các cơ quan có sán ký sinh: Nếu gan nhiễm nhiều sán phải huỷ
bỏ (chôn, rắc vôi bột, đốt) hoặc không huỷ bỏ mà để lại chế biến chín làm
thức ăn gia súc.
- Diệt vật chủ trung gian của sán lá Fasciola: Tháo cạn nước, làm khô
những đồng cỏ, bãi chăn lầy lội, ẩm ướt. Dùng một số chất hoá học có khả
năng diệt ốc (vôi bột, sulfas đồng…), đẩy mạnh chăn nuôi thuỷ cầm (vịt,
ngan, ngỗng) và cá trắm đen.
- Tăng cường vệ sinh thức ăn, nước uống. Không chăn thả trâu, bò ở
những bãi chăn lầy lội, ẩm thấp, Nếu khó khăn về bãi chăn thả thì chỉ chăn
thả ở bãi chăn lầy lội, ẩm ướt 1,5 - 2 tháng, rồi phải chuyển sang chăn ở bãi
khác. Nếu lấy cỏ ở những chỗ ẩm ướt thì phải cắt cao hơn mặt nước để tránh
Adolescaria, sau đó phơi khô, bảo quản trong 6 tháng rồi cho gia súc ăn.
Nguồn nước uống phải sạch, không có vật chủ trung gian và Adolescaria.
- Không nhập trâu, bò từ vùng có bệnh, khi chưa kiểm tra và điều trị
triệt để.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo kết quả của Nguyễn Đức Tân và cs (2010) [23] ở các tỉnh Nam
trung bộ cho thấy tỷ lệ trâu, bò nhiễm sán lá gan là: Ở bò, bê là 47,16 %; ở

trâu là 37,74 % và tỷ lệ ốc Lymnaea viridis nhiễm ấu trùng sán là 1,03 %, tỷ
lệ nhiễm ấu trùng sán ở ốc Lymnaea swinhoei là 0,59 %.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1962) thì tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu bò là 50 -
70% và kích thước trứng sán là 1,62 - 1,73 mm x 86 - 93 mm.
Trịnh Văn Thịnh (1978) [27] cho biết, trâu trưởng thành mắc bệnh sán
lá gan do F.gigantica, tỷ lệ nhiễm tới 50 - 70%. Theo Phan Địch Lân (1980)
mổ khám 1043 trâu ở Thái Nguyên, số trâu nhiễm sán lá gan là 57%, trong đó
18
19
có nhiều gan phải huỷ bỏ do số lượng sán quá nhiều. Kết quả điều tra ở huyện
Bình Lục - Nam Hà, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu là 51,2 - 57,5%.
Phan Địch Lân (1994) [13] đã điều tra 7359 trâu, bò ở một số tỉnh
miền Bắc Việt Nam, kết quả thấy: Trâu, bò ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá
gan cao nhất, sau đó đến vùng trung du, ven biển và miền núi (bình quân tỷ lệ
nhiễm sán ở các vùng điều tra như sau: Vùng đồng bằng từ 19,6% đến 61,3%,
vùng trung du từ 16,4% đến 50,2%, vùng ven biển từ 13,7% đến 39,6%, vùng
núi từ 14,7% đến 44,0%).
Phan Địch Lân (1994) [13]; (2004) [14], đã tổng hợp và cho biết
nước ta được xếp vào một trong 5 nước ở châu Á trồng lúa nước có đàn
trâu, bò nhiễm bệnh sán lá gan với tỷ lệ cao nhất. Kết quả điều tra ở một số
vùng cho thấy:
Ở 11 tỉnh miền núi, tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò là 39%
Ở 4 tỉnh trung du, tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò là 42,2%
Ở 5 tỉnh thuộc vùng đồng bằng, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 57,5%
Ở 6 tỉnh thuộc vùng ven biển, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 36,7%
Kết quả điều tra trong nhiều năm của Nguyễn Thị Kim Thành và cs
(1996) [25] ở Cổ Nhuế, Hà Nội cũng cho kết quả tương tự, tỷ lệ nhiễm ấu
trùng sán lá gan ở 2 loài ốc từ 0,7 - 3,0%.
Nghiên cứu của Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997) [15] cho biết ở
nước ta sán lá gan phát hiện khắp mọi nơi từ Bắc vào Nam. Tỉ lệ nhiễm sán lá

gan trâu bò ở miền núi là 30-35%, vùng đồng bằng trung du nhiễm 40 - 70%.
Kết quả nghiên cứu của Lê Hữu Khương và cs (2001) [6] cho thấy tỷ lệ
nhiễm sán lá gan trung bình trên cả nước ở trâu là 46,23%, dao động từ 8,74 -
61,09%, ở bò là 30,64%, tỷ lệ này tăng dần từ Nam ra Bắc.
Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo (2002) [16] cho biết tại các cơ sở chăn
nuôi bò sữa, tỉ lệ nhiễm sán của bò sữa từ 28-30%.
Theo Vũ Đức Hạnh, Nguyễn Thị Kim Lan (2009) [2] tỉ lệ nhiễm sán lá
gan tại 9 xã thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang là 51,6%.
Hoàng Văn Hiền và cs (2011) [3] cho biết tình hình nhiễm sán lá gan
trâu bò ở Việt Nam là 35%.
19
20
Phan Lục và cs (1996) [18] cho biết khi sử dụng Fasinex liều 12 mg/kg
TT tẩy sán lá gan cho trâu, thuốc có hiệu lực và hiệu lực tẩy sạch sán đều đạt
100%.
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [32] cho biết có hai loài sán lá gan ký
sinh ở đường tiêu hoá gia súc nhai lại Việt Nam, đó là Fasciola gigantica và
Fasciola hepatica.
Theo Đỗ Đức Ngái và cs (2006) [30], tỷ lệ nhiễm ấu trùng Fasiola của
ốc L. swinhoei ở ĐắkLắk là 0,45%.
2.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Bệnh sán lá gan là bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Ở các
nước chăn nuôi trâu bò phát triển thì việc kiểm tra tình hình nhiễm sán lá gan
được coi là công việc thường xuyên.
Qua các tài liệu điều tra cho thấy tỉ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò ở các
nước phụ thuộc các yếu tố: Điều kiện khí hậu, tập quán chăn thả, trình độ dân
trí đặc biệt phụ thuộc vào khả năng thực hiện các biện pháp phong trừ tổng
hợp bệnh sán lá gan ở vật nuôi.
Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [27], đã tổng hợp công
trình nghiên cứu ký sinh trùng cho biết sán lá gan Fasciola hepatica đã được

Johanbe Bric miêu tả từ năm 1397. Năm 1752, Swammerrdam phát hiện
những vĩ ấu (Cercaria) của loài sán này ở một con ốc Gastoropoda. Nhưng
130 năm sau (1882) Thomas và Leuckart gần như cùng một lúc người xác
định được vòng đời phát triển của sán lá gan.
Theo dẫn liệu của Phan Địch Lân (1980), sán lá gan F. hepatica đã
được Yohade Bric mô tả từ năm 1379.
Theo Nguyễn Kim Thành và cs (1996) [25] cho biết: Stephenson
(1947) và Urquahart (1950) kh™ng định tác hại của sán lá gan đối với trâu bò
là gây thiếu máu và dị ứng khi nhiễm nặng. Ở Nhật Bản Ono (1958) đã dùng
nhiều biện pháp để diệt trứng sán và kí chủ trung gian như: sử dụng chất hóa
học Natri 0,5 - 0,8 %, Đồng Sunphat 0,5 - 1,0%, Penta Chlorophenol 0,1 %
trộn với đất khô để rắc.
20
21
Về vật chủ chính, F. hepatica và F. gigantica có chung nhiều loài vật
chủ ăn cỏ và ăn tạp (Mas-Coma S., 1995 [35]). Tính mẫn cảm và đặc điểm
bệnh lý do sán lá gan gây ra khác nhau đáng kể ở các vật chủ khác nhau
(Chen và cs, 2000; Roberts và cs, 1997; Yadav và cs, 1999; Zhang và cs,
2004). Nghiên cứu về Enzyme cho thấy, F. hepatica và F. gigantica khác
nhau (Irving và cs, 2003). Sự khác biệt giữa 2 loài chỉ có 5 vị khác khác nhau
ở ITS-1 và 5 vị trí khác nhau ở ITS-2. (Mas-Coma và Bargues, 2008;
Remigio và Blair, 1997). Có nhiều bằng chứng cho thấy, F. hepatica có liên
quan với nhóm Galba nguồn gốc từ Bắc cực, Trung và Nam Mỹ với G.
truncatula là vật chủ trung gian. Ngược lại, F. gigantica dường như liên quan
đến nhóm ốc Radix, chủ yếu là loài R. natalensis ở châu Phi và loài R.
auricularia ở Palaearctic (Bargues và cs, 2001; 2005; 2007). Sự chuyên biệt
về ốc vật chủ trung gian này giải thích sự phân bố địa lý của 2 loài sán lá gan.
Trái lại, F. hepatica có thể lan rộng từ châu Âu đến tất cả 5 lục địa, F.
gigantica chỉ giới hạn ở châu Phi và châu Á (kể cả Hawaii). Yêu cầu sinh thái
của ốc cũng giải thích tại sao F. hepatica lại phổ biến ở vùng ôn đới và như

vậy phổ biến ở châu Âu, Mỹ và châu Đại dương, trong khi F. gigantica thích
nghi ở vùng nhiệt đới và ẩm ở châu Phi và châu Á.
Mas-Coma và cs (2005) [36] cho biết: Trâu, bò bị nhiễm sán lá gan có
triệu chứng gầy yếu, tăng trọng chậm, sản lượng thịt sữa thấp, rất nhiều buồng
gan không sử dụng được do sán làm viêm, xơ cứng.
Sự phát triển của ấu trùng F. gigantica trong ốc L. auricularia được mô
tả bởi Dinnik J. A., Dinnik N. N. (1964) [33]: Ở 26°C 1 Miracidium phát triển
thành 1 Sporocyst sau 6 - 8 ngày. Sporocyst chứa tới 6 túi phôi, sản sinh thế
hệ Rediae đầu tiên, từ mỗi Rediae này lại sản sinh Rediae thế hệ thứ 2 sau 20-
22 ngày. Cercariae phát triển sau 26 ngày sau khi nhiễm. Sự phát triển ấu
trùng trong ốc sẽ chậm hơn khi nhiệt độ giảm và cuối cùng là ngừng phát
triển. Ở nhiệt độ dưới 16°C, chỉ 1 thế hệ Redia con được sản sinh, nhưng
chúng sẽ sản sinh Cercariae khi nhiệt độ tăng lên đến 20°C.
21
22
Mặc dù là động vật thủy sinh, nhưng ốc - vật chủ của sán lá gan
F.gigantica có thể sống qua một giai đoạn khô, vì thế Mahato S. N. và cs
(1995) [34] kết luận rằng, sự ngủ hè có thể đóng vai trò quan trọng trong dịch
tễ của bệnh sán lá gan ở Nepal. Họ quan sát thấy ốc L. Viridis sống ở bùn khô
ít nhất 1 tháng. Tuy nhiên, những loài ốc này thường không vùi mình xuống
bùn khi nước khô, mà vẫn nằm trên bề mặt. Vì vậy, chúng dễ bị khô nhiều
hơn và bị vật ăn mồi ăn nhiều hơn so với khi chúng vùi mình xuống đất. Tuy
nhiên, khi không tiếp xúc với mặt trời, chúng vẫn sống và sản sinh trứng
trong một số tuần sau khi môi trường của chúng bị khô.
Ở đồng lúa, mật độ ốc không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dòng nước,
nhưng bị ảnh hưởng bởi mức nước tưới tiêu và mùa vụ. Ốc và trứng của
chúng sống từ mùa trước có thể phát triển ở mùa vụ mới hoặc chúng có thể
được đưa vào cùng với nước. Sau đó, số lượng của chúng tăng lên qua vài
tháng tiếp theo, sau đó giảm xuống vài tuần trước khi thu hoạch (Widjajanti
S., 1989) [42]).

Theo kết quả của Vareille M. C. và cs (1994) [41], tìm thấy
Adolescaria trong môi trường nước với tỷ lệ dưới 10%.
Theo thông báo của Ripert C. và cs (1987) [40] cho biết, bệnh sán lá
gan lớn thường phát triển theo mùa. Vào mùa mưa tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn
ở gia súc cao hơn nhiều so với mùa khô. Vì trong vòng đời của sán lá gan có
vai trò của thực vật thủy sinh, nên sự nhiễm bệnh còn phụ thuộc vào mùa phát
triển của chúng.
22
23
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Trâu, bò các lứa tuổi nuôi tại nông hộ ở một số xã của huyện Yên
Sơn, tỉnh Tuyên Quang
- Bệnh sán lá gan ở trâu, bò.
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm thu thập mẫu: Các nông hộ chăn nuôi trâu, bò tại các xã:
Kim Phú, Chân Sơn, Thắng Quân, Lang Quán thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang
- Địa điểm xét nghiệm mẫu: Bộ môn Bệnh Động vật và phòng Chẩn
đoán bệnh - Khoa Chăn nuôi thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
3.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ 26/12/2011 đến 11/06/2012
3.2. Vật liệu nghiên cứu
3.2.1. Mẫu nghiên cứu
- Mẫu phân tươi của trâu, bò, bê, nghé.
- Mẫu đất (cặn) nền chuồng và mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng
trâu, bò.

- Mẫu đất bề mặt và mẫu nước đọng trên bãi chăn trâu, bò.
- Mẫu ốc nước ngọt thu thập ở các ao, ruộng vũng nước đọng.
- Mẫu cỏ thủy sinh thu thập ở khu vực chăn thả trâu, bò.
3.2.2. Dụng cụ và hoá chất
- Kính hiển vi quang học, buồng đếm trứng giun sán Mc.Master.
- Dụng cụ xét nghiệm mẫu: cốc thuỷ tinh, lam kính, la men, lưới lọc
phân và các dụng cụ thí nghiệm khác.
- Thuốc Han-Dertil B, Fasciolid-25%, Bio-Alben.
23
24
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.1.1. Điều tra về công tác phòng chống bệnh ký sinh trùng cho trâu, bò ở
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
3.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh sán lá gan trâu, bò
3.3.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò ở các xã thuộc huyệnYên
Sơn, tỉnh Tuyên Quang
3.3.2.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan theo tuổi trâu, bò
3.3.2.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan theo mùa
3.3.3. Nghiên cứu sự ô nhiễm trứng và ấu trùng sán lá gan ở ngoại cảnh và
trong ký chủ trung gian
3.3.3.1. Sự ô nhiễm trứng sán lá gan ở chuồng và khu vực xung quanh
chuồng nuôi trâu, bò
3.3.3.2. Sự ô nhiễm trứng sán lá gan ở bãi chăn thả trâu, bò (ở đất bề mặt, ở
vũng nước trên bãi chăn)
3.3.3.3. Xác định loài và sự phân bố của ốc nước ngọt, ký chủ trung gian của
sán lá gan
3.3.3.4. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan của ốc nước ngọt
3.3.3.5. Tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm Adolescaria
3.3.4. Nghiên cứu biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan trâu, bò ở
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang

- Xác định lại hiệu lực tẩy sán lá gan trâu, bò của thuốc Han - Dertil B,
Fasciolid-25%.
- Thử nghiệm hiệu lực và độ an toàn của thuốc Bio - Alben tẩy sán lá
gan cho trâu.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò ở
một số xã thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
3.4.1.1. Quy định một số yếu tố cần xác định liên quan đến tình hình nhiễm
sán lá gan trâu, bò
* Tuổi trâu, bò: Kết hợp xem răng và hỏi chủ gia súc để xác định tuổi
trâu, bò.
Tuổi trâu, bò nghiên cứu ở huyện được phân ra theo 4 lứa tuổi.
24
25
- ≤ 2 năm tuổi
- > 2 - 5 năm tuổi
- > 5 - 8 năm tuổi
- > 8 năm
Trâu, bò từ 6 tháng đến 2 năm tuổi : đủ 8 răng sữa
Trâu, bò 2 năm tuổi : 2 răng khôn
Trâu, bò 3 năm tuổi : 4 răng khôn
Trâu, bò 4 năm tuổi : 6 răng khôn
Trâu, bò 5 năm tuổi : 8 răng khôn
Trâu, bò 6 năm tuổi : mòn 2 răng
Trâu, bò 7 năm tuổi : mòn 4 răng
Trâu, bò 8 năm tuổi : mòn 6 răng
Trâu, bò trên 8 năm : mòn cả hàm
* Mùa: Mùa trong năm được theo dõi gồm:
- Mùa Đông (từ tháng 12/2011 đến tháng 1/2012)
- Mùa Xuân (từtháng 2/2012 đến tháng 4/2012)

- Mùa Hè (từ tháng 5/2012 đến 11/6/2012)
3.4.1.2. Thu nhập mẫu phân trâu, bò
Lấy mẫu theo phương pháp lấy mẫu chùm nhiều bậc, lấy mẫu ở 4 xã.
Để riêng mỗi mẫu vào một túi nilon nhỏ, mỗi túi đều có nhãn ghi: loại gia súc
(trâu, bò), địa điểm lấy mẫu, tuổi trâu, bò, trạng thái phân, thời gian lấy mẫu
và các biểu hiện lâm sàng của trâu, bò. Ngoài ra căn cứ vào những yếu tố cần
xác định có liên quan đến đặc điểm dịch tễ để lấy mẫu cho tương đối đồng
đều về các yếu tố khác.
3.4.1.3. Phương pháp xét nghiệm mẫu
Xét nghiệm bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943)
Nguyên lý: Tỷ trọng của trứng sán lá gan nặng hơn tỷ trọng của nước
lã, nên trứng sẽ bị lắng xuống có thể tách trứng sán lá gan ra khỏi nước.
Cách tiến hành: Lấy một lượng phân khoảng 5 - 10g cho vào cốc thủy
tinh, cho khoảng 100 - 150ml nước lã vào, dùng đũa thủy tinh khuấy đều rồi
dùng lưới lọc lọc cặn bã trong phân đi, để cho lắng xuống. Gạn nước ở trên
đi, tiếp tục cho nước vào, để yên 20-30 phút cho lắng xuống, rồi lại gạn nước
25

×