Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài thu hoạch, môn cnxh khoa học, nền dân chủ xhcn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.81 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người.
Ngay từ xã hội cơng xã ngun thủy, để duy trì sự tồn tại của mình, con người
đã biết tự tổ chức ra những hoạt động có tính cộng đồng, các thành viên cơng
xã đều bình đẳng tham gia vào mọi cơng việc của xã hội.
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930) để lãnh đạo cách mạng; trong cương lĩnh
chính trị đầu tiên đã nhất quán chủ trương, đường lối trong giai đoạn cách
mạng giải phóng dân tộc phải xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân
mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng” và thực
hiện quyền phổ thông đầu phiếu trong lĩnh vực chính trị. Khi chuyển sang giai
đoạn cách mạng XHCN dựa trên cơ sở kế thừa nền dân chủ nhân dân đã có,
phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN mà mục
tiêu xuyên suốt là:”Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã
khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ...”.Trong văn kiện Đại hội XII, sự nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của
việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện ở chỗ, Đảng ta
bổ sung thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của Đảng.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là động lực của sự phát triển đất nước, là
nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân
dân đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ và thực
sự phát huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh to lớn cho sự phát
triển đất nước.


NỘI DUNG
I. NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


a) Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người.
Ngay từ xã hội công xã nguyên thủy, để duy trì sự tồn tại của mình, con người
đã biết tự tổ chức ra những hoạt động có tính cộng đồng, các thành viên cơng
xã đều bình đẳng tham gia vào mọi công việc của xã hội. Việc cử ra những
người đứng đầu các cộng đồng và phế bỏ những người đứng đầu nếu không
thực thi đúng những quy định chung được giao do mọi thành viên công xã
quyết định thông qua đại hội nhân dân. Đây được coi là hình thức dân chủ sở
khai, chất phác của những tổ chức cộng đồng tự quản trong xã hội chưa có
giai cấp.
Trong ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại, khái niệm "dân chủ" được hiểu là: việc
"cử ra và phế bỏ người đứng đầu" đó là "quyền và sức lực của nhân dân".
Như vậy, ngay từ buổi sơ khai của lịch sử nhân loại, dân chủ được hiểu với tư
cách là quyền lực của nhân dân.
Khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra đời, giai cấp và bất
bình đẳng xuất hiện, các hình thức tự quản của xã hội trước đây đã khơng cịn
thích hợp, xã hội cần đến những tổ chức chính trị với những cơng cụ bạo lực,
cưỡng bức để điều chỉnh hoạt động của xã hội, giai cấp và công dân. Trong
điều kiện như vậy, một tổ chức đặc biệt đã ra đời, đó là nhà nước. Trong xã
hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập ra cơ quan quyền lực nhằm trước
hết bảo vệ lợi ích của mình và sau nữa nhằm đáp ứng nhu cầu ổn định trật tự
xã hội. Cơ quan quyền lực đó chính là nhà nước dân chủ đối với chủ nô, thực
hiện sự thống trị của thiểu số đối với đại đa số những người lao động, tức
những người nơ lệ. Khi đó người ta đã ghép hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ là
"Demos" có nghĩa là "dân", "dân chúng" và "Kratos" có nghĩa là "quyền lực",
"sức mạnh" để diễn đạt nội dung của dân chủ. Nhà nước chủ nơ chính thức sử
1


dụng thuật ngữ “dân chủ” với nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nơ có "quyền

lực của dân". Nhưng cũng từ đây, nhà nước do giai cấp chủ nô nắm giữ đã
quy định dân bao gồm chủ nô, quý tộc, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và
người tự do, cịn tuyệt đại đa số nơ lệ thì khơng được coi là dân.
Như vậy, về thực chất, ngay từ thế kỷ VIII trước Công nguyên, với nhà
nước đầu tiên trong lịch sử, giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột (giai cấp chủ nô)
đã dùng pháp luật và bộ máy thống trị của mình để chiếm mất quyền lực của
đông đảo quần chúng nhân dân lao động là những người nô lệ.
Sau hàng ngàn năm lịch sử, các giai cấp chúa đất phong kiến và giai cấp
tư sản đã bằng mọi cách tiếp tục chiếm đoạt quyền lực của nhân dân lao động.
Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một
thời đại mới: lần đầu tiên trong lịch sử loài người, nhân dân lao động đã giành
lại được quyền lực thực sự của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp
cơng nhân lãnh đạo thơng qua chính đảng của nó đã trở thành nhà nước đầu
tiên thực hiện quyền lực của nhân dân.
Từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác Lênin đã nêu ra những quan niệm cơ bản về dân chủ như sau:
Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách
quan của con người. Với tư cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự
phản ánh những giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của
nhân dân chống lại áp bức, bóc lột, bất cơng.
Thứ hai, dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu
nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ khơng có "dân chủ phi giai cấp”,
"dân chủ chung chung".
Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn
người này là đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi
chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị.

2


Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh

trình độ phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã
hội, chống áp bức, bóc lột và nơ dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Theo
V.I.Lênin, dân chủ là bình đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản
để giành quyền bình đẳng có một ý nghĩa rất lớn, nghĩa là phải hiểu bình đẳng
cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể
chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp,
dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới - hình thức nhà nước với tên gọi
là "chính thể dân chủ" hay "nền dân chủ".
Buớc chuyền từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu nô lệ
đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của dân chủ. Dân chủ là quyền lực của
nhân dân được thực hiện bởi những tổ chức tự quản một cách tự nguvện, theo
truyền thống đã chuyển sang một hình thức mới gắn với nhà nước. Từ đây
dân chủ được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, bằng pháp luật của giai cấp
thống trị chủ nô và được thực hiện chủ yếu bằng cưỡng chế. Nên dân chủ hay
chế độ dân chủ đầu tiên trong lịch sử của xã hội có giai cấp xuất hiện.
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất,
tính chất của nhà nước; là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch
sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được
thể chế hóa bằng pháp luật.
V.I.Lênin cho rằng: "Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một
trong những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ
dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người
ta"1. Do đó, nền dân chủ ln gắn với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân
chủ và mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị.
b)  Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

3



Phân tích thực tiễn q trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của các nền
dân chủ trong lịch sử, đặc biệt là những quy luật của nền dân chủ chủ nô, dân
chủ tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: đấu
tranh cho dân chủ là một q trình lâu dài và khơng thể dừng lại ở dân chủ tư
sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cùng là sự
tất yếu ra đời của một nên dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Q trình
đó gắn liền với q trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Sự hình thành dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về
chất của dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử, đã hình thành chế độ dân chủ
cho tuyệt đại đa số nhân dân.
Tuy nhiên, sự hình thành và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là một quá trình lâu dài. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra những điều kiện
cần thiết để giải phóng quần chúng nhân dân lao động, để mở rộng dân chủ và
trên cơ sở đó cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng lôi cuốn nhân dân lao động
vào công cuộc cải tạo xã hội, xây dựng nền dân chủ mới.
Chính vì vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ được hình thành,
phát triển dần dần, từng bước phù hợp với q trình phát triển của kinh tế,
chính trị và văn hóa, xã hội.
Trong q trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có
những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ
nghĩa bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp cơng nhân lãnh đạo
thơng qua chính đảng của nó. Nhà nước bảo đảm thỏa mãn ngày càng cao các
nhu cầu và lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Đây chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều
4



đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng nhân,
vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu
về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù hợp
với q trình xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu
không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân
lao động. Đây là đặc trưng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc
trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình
hình thành và hoàn thiện của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là q trình cải
tạo và xây dựng lâu dài kể từ khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội cho đến khi chủ nghĩa xã hội thực sự trưởng thành.
Ba là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và
lợi ích của tồn xã hội (do nhà nước của giai cấp công nhân đại diện), nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính
tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội, các đồn thể và
mọi công dân đều được tham gia vào công việc của nhà nước (bằng thảo luận,
góp ý  kiến xây dựng chính sách, hiến pháp, pháp luật...). Mọi cơng nhân đều
được bầu cử, ứng cử và đề cử vào các cơ quan nhà nước các cấp.
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có và phải có những điều kiện
tồn tại với tư cách là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là
nền dân chủ mang tính giai cấp. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo
quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp thiểu số
những thế lực phản động chống phá chủ nghĩa xã hội. Trong nền dân chủ đó,
chun chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động,
bổ sung cho nhau. Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo lối
mới trong lịch sử.

5



Năm là, nếu dân chủ xã hội chủ nghĩa không ngừng được mở rộng cùng
với sự phát triển kinh tế, xã hội; hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế hoạt
động và trình độ dân trí.
c)  Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin đã có những luận điểm khái quát về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ
xã hội chủ nghĩa và tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, động lực của quá
trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ.
Dân chủ phải được mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của
nhân dân, để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý và
phát triển xã hội. "Với việc phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ. nghĩa
là với việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng
và thực sự rộng rãi vào mọi cơng việc quản lý nhà nước"
II. DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta
Kế thừa và phát triển những tư tưởng về dân chủ của chủ nghĩa Mác Lê-nin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm đặc sắc về dân chủ bằng diễn đạt
rất ngắn gọn: “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, “Dân là gốc”, “Nước ta là nước
dân chủ”, “Dân chủ là cái chìa khóa vạn năng”. Khẳng định vai trị làm chủ xã
hội của nhân dân, Hồ Chí Minh nói: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
và quan trọng hơn Hồ Chí Minh cịn khẳng định phải làm cho dân được
hưởng quyền làm chủ xã hội trên thực tế. Từ “dân là chủ” tiến lên thành “dân
làm chủ” là một bước tiến về chất của dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, phải làm
sao cho người dân có quyền làm chủ, có điều kiện làm chủ, biết hưởng quyền
6



làm chủ, đồng thời biết dùng quyền làm chủ. Muốn vậy nhân dân phải có
năng lực làm chủ. Năng lực đó khơng phải bỗng dưng mà có, khơng phải từ
trên trời rơi xuống, không phải do “ban phát” mà, một mặt, Đảng, Nhà nước
phải tạo ra cơ chế, chính sách, luật pháp thích hợp; mặt khác, người dân phải
phấn đấu, rèn luyện, phải học dân chủ, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân
chủ, phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Có như
vậy, nhân dân mới có quyền dân chủ thực sự, tránh tình trạng dân chủ chung
chung, dân chủ hình thức.
Theo Hồ Chí Minh, để các quyền dân chủ được thực hiện trong cuộc
sống, các quyền đó phải được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và được
thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của Nhà nước. Ở đây, dân chủ và
pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ, phủ định nhau, trái lại, chúng
nằm trong sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề phát triển của nhau.
Thực tế cho thấy, cả vơ chính phủ lẫn độc đốn chun quyền đều trái với bản
chất của nền dân chủ xã hợi chủ nghĩa. Khơng thể có dân chủ mà thiếu pháp
luật, kỷ luật, kỷ cương.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải
được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra
những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.
Theo tinh thần nội dung Hiến pháp năm 2013, liên quan đến dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: Thể chế
hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện. Hồn thiện hệ thống pháp luật, tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm
2013. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến

7


quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong
phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 06-4-2007 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Thể chế hóa và thực
hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát".
Đồng thời với phát huy dân chủ là yêu cầu tăng cường pháp chế, đề cao
trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội.
Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý
nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an
tồn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của
nhân dân.
2. Thực trạng dân chủ nền Dân chủ XHCN ở nước nước ta hiện nay
Đất nước đang trong thời kỳ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
nên dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng đang từng bước được hình thành, đang
được xây dựng, nó chưa đạt tới độ chín muồi. Song sau hơn 30 năm đổi mới,
dân chủ trong xã hội đã có những bước tiến căn bản.
Về thành tựu thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa: Đại hội
XII của Đảng nhận định: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm
2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định
rõ các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”. Minh
chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là những nguyên tắc hiến định
về thực hành, phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013,

như: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
8


quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân...” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện” cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
Việc thực hành dân chủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước nói chung, của các cấp chính
quyền nói riêng; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời
quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước; đóng góp
tích cực vào việc cải cách hành chính; góp phần xây dựng bộ máy chính
quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân; đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã
hội chung của đất nước. Đại hội XII của Đảng đánh giá: Quyền làm chủ của
nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh
tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối
thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau.
* Khái quát một số thành tựu trong các lĩnh vực sau:
1- Dân chủ trong kinh tế: Dân chủ trong kinh tế là cơ sở cho dân chủ
trong các lĩnh vực khác. Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền

kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Thể chế hóa chủ trương đó, Nhà nước đã ban hành Hiến
9


pháp và nhiều đạo luật về kinh tế để tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành
của nền kinh tế và cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, như Luật Đầu tư, Luật
Đấu thầu, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Phá sản...
Nhờ đó người dân đã có quyền được tự do kinh doanh, quyền làm chủ trong
lao động sản xuất, quyền sở hữu tài sản, quyền được làm những gì mà pháp
luật khơng cấm. Người lao động có quyền được hưởng thụ một cách bình
đẳng những thành quả kinh tế của đất nước. Tinh thần dân chủ, công khai,
minh bạch trong hoạt động kinh tế ngày càng thể hiện rõ. Tính chủ động, sáng
tạo trong sản xuất, kinh doanh của người dân ngày càng được phát huy. Nhà
nước chăm lo cho người dân có công ăn việc làm, quan tâm đến vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn để nâng cao chất lượng cuộc sống, xóa đói, giảm
nghèo.
2- Dân chủ trong chính trị: Trong những năm đổi mới, dân chủ trong
chính trị có bước tiến nổi bật. Chúng ta đã tiến hành đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, qua đó dân chủ xã hợi chủ
nghĩa ngày càng được phát huy. Đã và đang tiến hành đổi mới, chỉnh đốn
Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nhờ đó dân chủ trong Đảng
ngày một nâng cao. Thực hiện bầu cử có số dư, ban hành Quy chế chất vấn
trong Đảng. Việc quy chế hóa hoạt động của cơ quan lãnh đạo các cấp đã đưa
sự lãnh đạo của Đảng ngày càng vào nền nếp, dân chủ tốt hơn. Sự tham gia
của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên vào việc hoạch định, triển khai
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ngày càng rộng rãi và có hiệu
quả. Sinh hoạt dân chủ trong nội bộ Đảng có bước tiến rõ rệt. Những bước
tiến đó đã có tác động mạnh mẽ đến việc phát huy dân chủ trong xã hội.
3- Dân chủ trong văn hóa - xã hội: Nhà nước bảo đảm cho nhân dân

các quyền cơ bản, như quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tự do tín ngưỡng, tự do sáng tạo, quyền đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền, quyền thảo luận và biểu quyết những vấn đề quan trọng
10


trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Nhân dân có quyền thảo luận
và giám sát các dự án về an sinh xã hội, về xóa đói, giảm nghèo, về hỗ trợ do
thiên tai... Để tạo hành lang pháp lý cho phát huy dân chủ trong lĩnh vực văn
hóa - xã hội, Nhà nước đã ban hành các đạo luật, như Luật Báo chí, Luật Xuất
bản, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Pháp lệnh
Ưu đãi người có cơng... Nhờ đó đã phát huy được quyền làm chủ của nhân
dân trong sinh hoạt văn hóa tinh thần, trong hoạt động xã hội, tạo điều kiện
cho nhân dân được hưởng thụ những thành quả của văn hóa dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tóm lại, qua 30 năm đổi mới, những thành tựu về xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta rất quan trọng, góp phần tạo động lực thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới, thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng như
Văn kiện Đại hội XI đã nhận định: “Dân chủ xã hợi chủ nghĩa có tiến bộ”;
“Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao;
quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi
trọng”
* Về hạn chế: Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, Đại hội XII
của Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thực hành,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm qua:
- Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
còn hạn chế.
- Một số người đồng nhất hoàn toàn dân chủ hiện nay với dân chủ xã hợi
chủ nghĩa theo nghĩa đầy đủ của nó. Một số lại có ảo tưởng muốn đạt ngay

một trình độ phát triển cao của dân chủ trong khi nhiều tiền đề khách quan và
chủ quan chưa chín muồi.

11


- Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp
luật còn tồn tại ở nhiều nơi. “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều
lĩnh vực còn bị vi phạm.
- Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính cịn gây
phiền hà cho tổ chức và cơng dân. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành
chính làm cho yêu cầu quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân chưa nhanh nhạy và có hiệu quả cao.
- Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ cịn hạn chế hoặc mang tính hình
thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây
rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
* Nguyên nhân: Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu
trên là do:
- Dân chủ với tư cách là một vấn đề chính trị do trình độ phát triển kinh
tế quy định. Trình độ thấp kém của kinh tế hiện nay ở nước ta với thể chế
kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa hoàn thiện sẽ hạn chế rất nhiều sự phát
triển của dân chủ trong xã hội.
- Dân chủ gắn liền với dân trí, nhưng mặt bằng dân trí, trình độ dân trí
chung của nhân dân cịn thấp. Người dân thiếu hiểu biết về các quyền dân
chủ, cơ chế thực hiện dân chủ nên chưa chủ động, tích cực tham gia quá trình
này.
- Ở một số nơi, các cấp ủy, chính quyền còn xem nhẹ vai trò của việc
thực hành dân chủ nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo cịn mang
tính hình thức, đối phó;
- Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức chưa nhận thức đầy đủ vai trị,

trách nhiệm của mình trong việc triển khai các biện pháp thực hiện dân chủ
nên chưa tận lực, tận tâm;
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do
nhiều nguyên nhân: Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều
12


kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân cịn thiếu và chưa đồng
bộ. Khơng ít cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm
gương về phát huy dân chủ trong xã hội.
III. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XHCN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Một là, xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng. Mặc dù đã có Điều lệ
Đảng nhưng Điều lệ Đảng không bao quát hết được nội dung dân chủ trong
Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh tự đổi mới, tự chỉnh đốn trong Đảng, Đảng phải là
tấm gương về dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mình. Xây dựng và
hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội, như cơ
chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với Đảng; thể chế hóa quyền và trách
nhiệm của Đảng trong xã hội; thể chế hóa quan hệ giữa Đảng và các thiết chế
chính trị - xã hội.
Hai là, đẩy mạnh hơn nữa việc dân chủ hóa trong cơng tác cán bộ; cải
tiến cơng tác bầu cử.
Hoàn thiện cơ chế dân chủ trong các cuộc bầu cử. Bầu cử cấp ủy, ban
thường vụ, bí thư, phó bí thư và bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng
nhân dân cần có số dư.
Khuyến khích những người có đức, có tài ra ứng cử; tổ chức đảng cần
khắc phục bệnh hẹp hòi. Cần hướng đến việc bầu cử nên qua tranh cử. Cơ cấu
đại biểu trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước phải lấy tiêu
chuẩn làm đầu.
Mở rộng quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, áp dụng hình thức toàn

dân bầu trực tiếp chủ tịch ủy ban nhân dân ở cấp xã (phường), thôn, bản, ấp.
Ủy ban kiểm tra do đại hội đảng cùng cấp bầu thay cho cấp ủy bầu như hiện
nay, tiến tới bí thư và thường vụ cấp ủy cũng do đại hội cùng cấp bầu.
Thực hiện dân chủ trong việc nhận xét, đánh giá cán bộ. Xây dựng quy
trình nhận xét, đánh giá cán bộ một cách dân chủ.
13


Ba là, xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân giám sát, kiểm tra Đảng,
kiểm tra Nhà nước. Chẳng hạn, nhân dân được giám sát những nội dung gì,
phản ánh cho ai, bằng hình thức nào, cơ chế phản hồi như thế nào? Thực hiện
tốt cơ chế “dân kiểm tra” đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục xây dựng và thực thi
các cơ chế, chính sách phù hợp để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám
sát đối với các mặt hoạt động của chính quyền cấp xã ở tất cả các địa phương,
của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo quy định của pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cấp xã; chất vấn những cán bộ, cơng chức có thẩm quyền về
những vấn đề người dân quan tâm và quyền nghe trả lời những chất vấn đó,
đặc biệt là những vấn đề về đất đai, xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị,
nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây
dựng kết cấu hạ tầng.
Bốn là, tiếp tục nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ
(dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện).
Năm là, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Sáu là, nghiên cứu, xây dựng và ban hành các luật về trưng cầu ý dân,
luật biểu tình, luật về hội, luật về tiếp cận thông tin để tạo cơ sở pháp lý giải
quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân trong xã hội.
Bảy là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đi liền với việc đề
cao trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội,
không được tách rời, đối lập giữa thực hành dân chủ và kỷ cương, pháp luật.

Nhân dân không nên tụ tập đông người, khiếu kiện vượt cấp, gây mất an ninh,
trật tự và chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được
xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với
tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan,
14


dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân
chủ và quyền làm chủ của nhân dân”. Điều đó khẳng định bản chất dân chủ
thực sự của Nhà nước ta.
Tám là, thực hiện tốt Quy định của Bộ Chính trị khóa XI, ngày 25-42015, “Về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng,
nhà nước” nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân được tự
do sáng tạo, độc lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận
dụng, sử dụng kết quả nghiên cứu trong các hoạt động nghiên cứu lý luận
chính trị, phù hợp với pháp luật hiện hành.

15


KẾT LUẬN
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình thành và
tự hồn thiện của hệ thống chun chính vơ sản, hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và
thực hành dân chủ; là quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện
thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; là quá trình đưa các giá trị,

chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành một cuộc cách
mạng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng thực
hiện chuyển giao quyền lực thực sự về cho nhân dân với mục đích lơi cuốn
nhân dân vào q trình sáng tạo xã hội mới.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm
xây dựng, phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Trước hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ
của nhân dân; là điều kiện cần thiết, tất yếu để mỗi công dân được sống trong
bầu khơng khí thực sự dân chủ.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là q trình thực
hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
thông qua chính đảng của nó, đảng cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng
chống lại những biểu hiện của dân chủ cực đoan, vơ chính phủ, ngăn ngừa
mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia

2.

V. I. Lê-nin: Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, t. 33, tr. 206

3.


V. I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 27, tr. 327

4.

V. I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 32, tr. 164, 597 - 598

5.

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị

quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 91 - 147
6.

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng

Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 270, 38, 170
7.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị

quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 166 - 167
8.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 168,

9.

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 170


169
10. Tạp chí Cộng sản số 29/2/2016, 11/3/2016 - Mục nghiên cứu –
trao đổi

17



×