Tiểu luận Triết học
Tiểu luận triết học
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI
LIÊN HỆ PHỐ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ
GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1
Tiểu luận Triết học
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề bức xúc của thời đại, mọi
quốc gia dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù muốn hay không cũng đều bị
cuốn hút hoặc chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận biết được xu thế đó của thời đại Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
phương hướng chủ động tham gia hội nhập vào kinh tế quốc tế và đang chuẩn
bị gia nhập vào tổ chức thương mại WTO. Tuy nhiên bên cạnh đó Đảng và
Nhà nước ta cũng nhận rõ được mặt tích cực và mặt tiêu cực của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và đưa ra biện pháp khắc phục mặt tiêu cực đó là phải kết
hợp giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trước vấn đề cập nhật của thời đại và nhận biết được phương hướng xây
dựng đổi mới của đất nước ta em quyết định chọn đề tài: "Phép biện chứng về
mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế" để tìm hiểu sự vận dụng
sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng đổi mới đất nước là
hồn tồn đúng đắn.
Em xin chân thành cảm ơn cơ giáo Nguyễn Thị Ngọc Anh, người đã giúp
đỡ em hoàn thành bài tiểu luận đầu tay này.
2
Tiểu luận Triết học
CHƯƠNG I
Trong những năm gần đây khi khoa học kỹ thuật nhân loại ngày càng
phát triển đã thúc đẩy nền kinh tế của một số nước phát triển như vũ bão.
Nhưng để đạt được sự phát triển đồng đều và kinh tế giữa các nước trên thế
giới thì khơng cịn con đường nào khác là con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế không thể tránh khỏi trên thế giới. Nó là
nền tảng cho các nước tăng cường hiểu biết lẫn nhau và hợp tác thông qua đối
thoại đồng thời cải thiện quan hệ chính trị giữa các quốc gia, thúc đẩy các nước
trên thế giới cùng nhau phát triển và mục đích cao hơn nữa đó là đem lại cuộc
sống đầy đủ, đồn kết hồ bình cho tất cả nhân loại.
Chính vì những lợi ích to lớn đó mà hội nhập kinh tế quốc tế đang trở
thành vấn đề cấp bách đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Với sự mở màn của
liên minh Châu Âu (EU) thông qua một thị trường chung một đồng tiền chung
và việc kết nạp thêm các nước thành viên mới. Ở Đơng Nam Á, tiến trình này
cũng đang diễn ra rất sôi động và đã thu hút được những kết quả khả quan. Mà
đỉnh cao của quá trình hội nhạp kinh tế được thể hiện ở sự ra đời của tổ chức
thương mại thế giới WTO, đây là tổ chức thương mại lớn nhất thế giới được
thành lập ngày 1.1.1985, ban đầu có 130 nước thành viên, đến nay tổng số
thành viên WTO đã lên 148 trong đó có 2/3 là các nước đang và kém phát
triển.Ngoài các thành viên chính thức, hiện nay cịn 25 nước đang trong q
trình hội nhập trong đó có Việt Nam. Thơng qua tổ chức WTO các nước có thể
tự do trao đổi mua bán trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi đồng thời giúp đỡ lẫn
nhau cùng phát triển, tiếp thu được những thành tựu khoa học kỹ thuật của thế
giới.
Tuy nhiên vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay đối với mỗi quốc gia trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là xây dựng nền kinh tế được lập tự chủ. Bởi
vì hội nhập kinh tế quốc tế vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có
3
Tiểu luận Triết học
hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng
vừa có những thách thức đối với các quốc gia nhất là đối với quốc gia đang ở
giai đoạn phát triển như nước ta. Do xu thế hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự
tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng nên các nước trên thế giới đều
rất coi trọng đến khả năng độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích
chính đáng của quốc gia, dân tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và
để xác lập một vị thế chính trị nhất định trên trường quốc tế.
Đối với đất nước ta là đất nước xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN và đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc
tế nên Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ mối quan hệ giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế để Việt Nam có thể vững
bước hồ nhập vào nền kinh tế của thế giới mà như Đại hội IX khẳng
định:"Nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa mọi lực nâng cao hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
xây dựng định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc giữ vững an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường"
(Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc
gia Hà Nội, sản xuất 2001, tr: 119 - 200)
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc
tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Dựa vào nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến chúng ta sẽ phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế.
4
Tiểu luận Triết học
CHƯƠNG II
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
1.1. Nội dung của nguyên lý
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều nằm trong mối liên hệ phổ biến
khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chúng tác động lẫn
nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá lẫn nhau, các mối liên hệ quy định
trong mỗi tổng thê của nó quy định sự biến đổi của sự vật, khi các mối liên hệ
thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến thay đổi sự vật .
Quan điểm biện chứng duy vật còn khẳng định tính khách quan và đa
dạng hố của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là khách
quan, là thống nhất vật chất của thế giới. Tính đa dạng của mối liên hệ trực tiếp
và gián tiếp; có mối liên hệ chung bao qt tồn bộ thế giới, có mối liên hệ
bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó, có mối
liên hệ bản chất và khơng bản chất, có mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên…. các
loại liên hệ khác nhau có vai trị khác nhau đối với sự vận động và phát triển
của sự vật về mối liên hệ cũng đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự
phân loại của các mối liên hệ.
1.2. Ý nghĩa của nguyên lý
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, đòi hỏi trong quá
trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn chúng ta cần thực hiện nguyên
tắc toàn diện và lịch sử cụ thể.
Theo ngun tắc về quan điểm tồn diện thì trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn con người cần xem xét sự vật trong tính tồn vẹn của nhiều mối
liên hệ nhiều mặt, nhiều yếu tố vốn có của nó kể cả các q trình, các giai đoạn
phát triển của sự vật, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, có như vậy mới
nắm bắt được thực chất của sự vật khi tuân thủ nguyên tắc con người sẽ tránh
5
Tiểu luận Triết học
được sai lầm cực đoan, phiến diện một chiều, không đồng nhất và san bằng các
mối liên hệ, các mặt của sự vật phải phản ánh đúng vai trò của từng mối liên hệ
phải rút ra được mối liên hệ bản chất chủ yếu của sự vật. Khi tuân thủ nguyên
tắc này con người sẽ tránh được mối quan hệ thứ yếu và chiết trung.
Theo quan điểm lịch sử cụ thể thì khi nghiên cứu xem xét sự vật phải đặt
nó trong điều kiện hồn cảnh cụ thể trong khơng gian và thời gian xác định mà
nó đang tồn tại phát triển, đồng thời phải phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều
kiện hoàn cảnh đối với sự tồn tại của sự vật, với tính chất của sự vật và với xu
hướng vận động phát triển của nó. Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong
thực tiễn cần tính đến điều kiện cụ thể của nơi vận dụng, tránh bệnh giáo điều
dập khuân máy móc.
2. Vận dụng nguyên lý mối liên hệ phổ biến để phân tích mối quan
hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế .
2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình "mở cửa" nền kinh tế, đưa các
doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh quốc tế, sự tham gia
vào phân công lao động quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng không gian và môi
trường để chiếm lĩnh những vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh
tế quốc tế. Đó cũng là q trình chúng ta tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài
chính khu vực và thế giới, qua đó mà thiết lập mối quan hệ kinh tế, thương
mại, đầu tư, khoa học và công nghệ với các nước trên thế giới. (Tạp chí nghiên
cứu - trao đổi - Vương Thị Bích Thuỷ)
2.2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của đất
nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường duy nhất để đưa một quốc gia
không ngừng phát triển nền kinh tế và nâng cao trìn độ khoa học kỹ thuật của
nứoc mình.
6
Tiểu luận Triết học
Theo quan điểm biện chứng về mối quan liên hệ phổ biến của các nhà
triết học đã khẳng định ở trên :"Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều nằm
trong mối liên hệ phổ biến không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách
biệt lập mà chúng tác động lẫn nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá lẫn
nhau". Khi áp dụng quan điểm này vào thực tế là hoàn toàn đúng khi một quốc
gia tự mình tách ra khỏi mối quan hệ với các quốc gia khác thì nó khơng thể
tồn tại và phát triển được. Bởi vì trước hết một quốc gia khơng thể tự mình
cung cấp những nhu cầu cho quốc gia mình, do mỗi quốc gia trên thế giới đều
có một thế mạnh riêng như Nhật Bảnh mặc dù là một quốc gia phát triển mạnh
về khoa học kỹ thuật nhưng lại là một nước nghèo tài nguyên khoáng sản, thị
trường tiêu thụ hàng hoá trong nước nhỏ bé. Nếu như Nhật Bản không hội
nhập kinh tế giao lưu với các quốc gia khác về trao đổi hàng hoá và mua
ngun vật liệu thì Nhật Bản sẽ khơng thể tồn tại và phát triển như ngày nay.
Và cả Mỹ mặc dù là một quốc gia phát triển bậc nhất thế giới hiện nay, là trung
tâm khoa học kỹ thuật của thế giới nhưng để có sự phát triển như vậy là do Mỹ
có chính sách đúng đắn mở cửa hội nhập kinh tế và thu hút nhân tài khắp thế
giới cũng như mua được những nguyên vật liệu với giá rẻ và có thị trường rộng
lớn trên tồn thế giới. Đó là những quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất
thế giới phát triển được nền kinh tế như ngày nay là do sự phối hợp kinh tế
quốc tế. Còn các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển thì sao? Ta có thể
khẳng định rằng dù quốc gia giàu hay nghèo cũng phải tham gia vào hội nhập
kinh tế quốc tế. Sở dĩ như vậy bởi vì các quốc gia nghèo có nền kinh tế kém
phát triển là do trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, trình độ hiểu biết thấp. Nên
các nước này càng cần tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế để tiếp thu thêm
được những thành tựu khoa học kỹ thuật của các nước phát triển, các nước đi
trước, đồng thời trao đổi mua bán với các nước phát triển như xuất khảu nhân
công dư thừa, xuất khẩu nguyên nhân vật liệu và mua các thiết bị kỹ thuật máy
móc hiện đại nhằm nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật trong nước, phát triển
cơng nghiệp góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
7
Tiểu luận Triết học
Cần phải khẳng định rằng trước xu thế tồn cầu hố khơng một quốc gia
nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Sự xã hội hoá mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất, sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ
hiện đại đã làm nảy sinh yêu cầu hợp tác đa dạng nhiều chiều, ổn định và bền
vững trên phạm vi toàn cầu. Mỗi nước trở thành một bộ phận hữu của thế giới,
nền kinh tế của mỗi dân tộc được đặt trong sự phụ thuộc vào mối quan hệ qua
lại với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề,
những điều kiện cho một trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội
thu hút vốn, khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế
từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Với một nền kinh
tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hội do tồn cầu hố mang lại
dù là tồn cầu hố đang do CNTB chi phối thì chúng ta khơng thể xây dựng
CNXH được. Chỉ riêng vấn đề "học hỏi" CNTB đã là một đề tài khách quan,
một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng CNXH ở các nước chậm phát
triển. Như Lênin đã nói:"Chúng ta khơng hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội
nào khác hơn là CNXH dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của
CNTB đã thu được"
(Theo tạp chí nghiên cứu - trao đổi, bài viết "bản chất của tồn cầu hố
và khả năng hội nhập của Việt Nam" ThS Vương Thị Bích Thuỷ)
2.3. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề
nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Thế giới đang chứng kiến sự phát triển
như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
và sinh học. Làm tăng nhanh lực lượng sản xuất và tạo ra sự thay đổi sâu sắc
cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dùng thúc đẩy quá trình quốc tê hoá, xã hội
hoá nền kinh tế, cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công
8
Tiểu luận Triết học
lao động và hợp tác quốc tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thế
giới hiện nay các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế
đã được hình thành để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tạo lập
hành lang pháp luật chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải
quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà khơng một quốc gia nào có thể
thực hiện một cách đơn lẻ. Đặc điểm cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế trên
thế giới hiện nay thể hiện qua một số xu hướng chính như sau:
- Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương.
- Xu hướng tự do hoá và khu vực hoá
- Thương mại dịch vụ đóng vai trị quan trọng trong thương mại thế giới.
- Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại
(trích bài viết của Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự đăng trên tạp chí
Thương mại số ra tháng 3/2004).
2.4. Khái niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh tồn cầu hố có thể được
hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình
hình quốc tế và trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì
các hành động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đó là nền kinh tế phải có cơ cấu kinh tế
hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết, có tốc độ phát triển bền vững
và năng lực cạnh tranh cao, cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối, cơ cấu mặt
hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng cơng nghệ và có giá trị gia
tăng lớn chiếm ưu thế, cơ cấu thị trường quốc tế; đối tác cũng đa dạng và tránh
chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu; đảm bảo nền tài chính lành
mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán cân thanh tốn và có nguồn dự
trữ quốc gia mạnh.
(Nguồn: báo đầu tư chứng khoán).
9
Tiểu luận Triết học
Như vậy nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ
thuộc vào các nước khác, người khác hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về
đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh
tế, tài chính, thương mại, viện trợ để áp đặt khống chế, làm tổn hại chủ quyền
quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị
trường, trước sự khủng hoảng của nền kinh tế tài chính bên ngồi, nó vẫn có
khả năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển trước sự bao vây, cô lập và
chống phá của các thế lực thù địch, nên vẫn có khả năng đứng vững khơng bị
sụp đổ, không bị rối loạn.
(Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng, NXB CTQG, Hà Nội
2001, tr 109).
Trong thời đại ngày nay, độc lập tự chủ về kinh tế khơng cịn được hiểu
đó là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà được đặt trong mối quan hệ
biện chứng với mở cửa, hội nhập, chủ dộng tham gia sự giao lưu, hợp tác và
cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và lợi thế so sánh của
quốc gia. Điều này có nghĩa là độc lập tự chủ về kinh tế cũng đồng thời hội
nhập được vào nền kinh tế quốc tế.
2.5. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế
Nếu như chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế mà khơng có xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ thì quốc gia đó có phát triển bền vững được không? Câu trả
lời ở đây là không. Qua những bài học kinh nghiệm sâu sắc mà một số nước
châu Á rút ra sau khi bị rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nặng nề
năm 1997-1998, là sự phụ thuộc của nền kinh tế về vốn, cơng nghệ, thị trường
nước ngồi và sự đầu cơ trục lợi của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị
trường chứng khoán và các luồng vốn ngắn hạn. Các nền kinh tế này vượt qua
được giai đoạn khó khăn, nhanh chóng phục hồi một phần rất quan trọng, theo
10
Tiểu luận Triết học
đánh giá của các nhà phân tích kinh tế nước ngoài là do nền kinh tế Mỹ mấy
năm qua có sự tăng trưởng khá. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế Mỹ đang
ngập trong trong khó khăn, nhất là sau sự kiện 11-9-2001 vừa qua người ta lại
dự đoán rằng nền kinh tế một số nước châu Á khó bề vươn dậy vì đã dựa q
nhiều vào xuất khẩu, không tranh thủ thời cơ tiến hành những cải cách trong
nước nhằm đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế của mình. Rồi nữa, nợ nần và
những hậu quả nghiêm trọng bất ổn chính trị, lật đổ, đảo chính, chiến tranh
giữa các phe phăi, đặc biệt nạn đói ln đe doạ mạng sống hàng triệu người...
là minh chứng cho thấy chỉ biết sống dựa vào bên ngồi, phụ thuộc hẳn vào
bên ngồi thì sẽ chẳng bao giờ phát triển được nền kinh tế đất nước.
Theo tổng kết của UNĐP (tổ chức hỗ trợ phát triển của liên hiệp quốc)
cho rằng “từ khi diễn ra quá trình tồn cầu hố đến nay trên thế giới có 10
nước giàu lên, nhưng có 180 nước nghèo đi, trong đó có 60 nước GDP bình
qn đầu người thấp hợ trước khi tham gia tồn cầu hố. Tổng kết những nước
vay nợ để phát triển cho thấy chưa đến 10% số nước có khả năng trả được bợ,
số cịn lại trở thành con nợ lưu cữu”.
(Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng, nxb: CTQG Hà Nội
2001 tr25).
Qua những số liệu tổng kết ở trên chúng ta thấy rằng nếu một quốc gia
khơng tự mình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ mà chỉ phụ thuộc vào các
phe phái mạnh hơn hoặc phụ thuộc vào một nước lớn hơn sẽ dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng làm cho nền kinh tế của quốc gia đó ln chịu sự ảnh hưởng đối
với từng biến động của nền kinh tế quốc gia khác và sẽ khơng tự mình đứng
dậy được khi có sự biến kinh tế xảy ra. Như vậy nền kinh tế của quốc gia đó sẽ
ln lạc hậu và chậm tiến. Đó chính là lý do vì sao trong quá trình hội nhập
kinh tế phải gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
có mối quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ và tác động lẫn nhau cùng đi đến
11
Tiểu luận Triết học
mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển nền kinh tế của quốc gia đó. Đồng
thời giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế còn
là mối quan hệ bên trong và bên ngoài. Mối quan hệ bên trong là xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và mối quan hệ bên ngoài là hội nhập kinh tế quốc tế. Và
cả hai mối quan hệ này đều tác động trực tiếp đến sự phát triển đất nước trong
đó xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là yếu tố quyết định đến vận mệnh của
đất nước còn hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố thúc đẩy, tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Bởi chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc
lập tự chủ chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập
đúng hướng và hiệu quả kinh tế quốc tế và ngược lại, chỉ có chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ xung sức mạnh nội lực còn
khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm khơng ngừng tự
hồn thiện mình để giữ vững hơn nữa độc lập tự chủ. Hơn nữa, muốn chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế một cách đúng đắn và mạnh mẽ không thể không bắt
đầu từ nền tảng sức mạnh tổng thể của một nền kinh tế độc lập tự chủ. Nếu vấn
đề thứ nhất là tiền đề là điều kiện đảm bảo cho vấn đề thứ hai thì đến lượt nó,
vấn đề thứ hai lại là hệ quả, là động lực, là môi trường phát triển mới của vấn
đề thứ nhất. Đó là một quá trình biện chứng.
Vấn đề dặt ra ở đây là phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế
nào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở đây xây dựng “độc lập, tự chủ” khơng có nghĩa là tự biệt lập hoặc cơ
lập mình mà phải chủ động hội nhập quốc tế và khu vực “mở cửa” khơng có
nghĩa là “ngó cửa”, “hội nhập” khơng phải là “hoà tan”. Phải nắm bắt được khả
năng nội lực của quốc gia để linh hoạt trong hợp tác đối ngoại kinh tế.
Như đã nói ở trên xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thànhmột xu
thế lớn của kinh tế thế giớivà quan hệ kinh tế quốc tế từ vài thập niên trở lại
đây .Xu hướng này lôi cuốn nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh. Do vậy, để hội
12
Tiểu luận Triết học
nhập mà khơng hồ tan rất cần sự tỉnh táo nhìn nhận trong thực tế tự do hoá
thương mại một số nước giàu lên trong khi một số nước khác nghèo hẳn đi.
Ngay trong từng nước sự tự do thương mại cũng có lợi cho tầng lớp này,
nhưng lại có hại cho tầng lớp khác. Cụ thể như Mỹ và Liên minh châu Âu
(EU), tuy tự do hố thương mại nhưng vẫn duy trì chính sách bảo hộ hàng
nông sản - thế mạnh chủ lực của các nước kém phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng . Hoặc như vụ kiện cá ba sa của Việt Nam vừa qua, về thực chất
chính là để bảo vệ những ngành kinh tế khơng cịn đủ sức cạnh tranh. Điều này
liệu có cơng bằng : trên thực tế chính phủ các nước, dưới áp lực của cử tri bỏ
phiếu cho mình khơng thể nào đồng ý những điều khoản thương mại có thể gây
hại cho một bộ phận, một ngành kinh tế của họ.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế hiện nay, các nước giàu đã
thành công trong việc thiết lâp “cuộc chơi” tự do hoá thương mại với những
luật chơi do họ đặt ra. Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã thành công trong việc buộc
các nước khác gỡ bỏ những rào cản để hàng công nghiệp và dịch vụ của mình
tràn vào các nước này. Ngược lại họ cũng lại thành cơng trong việc duy trì mức
thuế cao đánh vào hàng nông sản nhập khẩu đơn giản là vì luật chơi trong tay
kẻ mạnh
Nói như vậy, khơng có nghĩa là sân chơi khơng “đẹp” thì khơng chơi mà
việc tham dự một cách tích cực vào sân chơi này là chuyện tất yếu và không
thể phủ nhận, vì bên cạnh những mặt chưa được vẫn cịn rất nhiều mặt được và
vấn đề là tận dụng các cơ hội này như thế nào? Về thực chất hội nhập kinh tế
quốc tế là sự kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại nhằm bảo vệ lợi ích của dân tộc, phát triển kinh tế đất
nước.
13
Tiểu luận Triết học
3. Sự vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến một cách sáng tạo
của đảng và Nhà nước ta việc kết hợp quá trình xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1 Những thách thức đối với nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề
nổi bật của kinh tế thế giới , tạo ra sức ép buộc chúng ta phải chấp nhận “cuộc
chơi” nếu không cố gắng đi cùng nhịp với các nước trong khu vực thì Việt
Nam có nguy cơ bị tụt hậu và chịu thua thiệt của người đi sau Hội nhập kinh tế
hiện luon có hai mặt, trước hết hội nhập kinh tế khiến các nước phải mở cửa thị
trường về thương mại hàng hoá, làm giảm những khác biệt thông qua việc tiến
tới bãi bỏ hàng rào và biện pháp phi thuế quan mở cửa thị trường dịch vụ và
đầu tư.
Với việc tham gia vào q trình này chúng ta sẽ có cơ hội mở rộng thị
trường xuất nhập khẩu, thu hút được một nguồn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, nhất là tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày
càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. tiếp thu khoa học công nghệ
tiên tiến, kỹ năng quản lý, đào tạo được một đội ngũ cán bộ năng lực để tham
gia hội nhập. Nhưng quan trọng hơn cả là thực hiện được chủ trương chuyển
toàn bộ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, đặt tất cả doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh, lấy hiệu quả là mục
tiêu của doanh nghiệp , xố bỏ tư tưởng bao cấp trơng chờ vào sự trợ giúp và
bảo hộ của Nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn
hơn, nhất là từ phía Trung Quốc, ấn Độ, và phần lớn là các nước ASEAN, vốn
là những nước sản xuất mang tính cạnh tranh với nước ta và có nhiều ưu thế
hơn ta, thậm chí ngay cả trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của ta hiện
14
Tiểu luận Triết học
nay như nông sản, thuỷ sản, may mặc, giày dép, . Trong thu hút FDI chúng ta
cũng vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt hơn và nguy cơ sẽ giảm FDI nước ta nếu
chúng ta khơng có những chính sách và biện pháp cải thiện mơi trường đầu tư
mạnh mẽ làm tăng tính hấp dẫn hơn hẳn so với các nước trong khu vực.
(Nguồn : Thời báo tài chính - bài viết của Bộ trưởng Trương Đình
Tuyển)
3.2 Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam
Những thành tựu cơ bản mà đất nước ta đã đạt được trong những năm
qua khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn lao. Đất nước ta thốt ra
khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập, tạo dựng được môi trường quốc tế,
khu vực thuận lợi cho công việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế
nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Cho đến nay Việt Nam đã
ký 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế 2 lần với các nước và vùng lãnh
thổ, có quan hệ thương mại với trên 160 nước và nền kinh tế; thiết lập quan hệ
với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế là thành viên của ASEAN, ASEM ,
APEC... Thực hiện thành công chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
(1991 - 2000) ; GDP tăng trưởng bình quân 8,2%/năm, trong giai đoạn 1991 2000, khoảng 7% trong hai năm 2001 và 2002 , năm 2003 tăng 7,2% và là
nước có tốc độ tăng GDP thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc. Hạ tầng
cơ sở được cải thiện rõ rêt. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế một cách
tích cực theo định hướng tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm
dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu thu nhập quốc dân. Cơ cấu vùng
kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành các vùng trong điểm , các
khu xuất nhập khẩu tập trung , các khu chế xuất, chuyển toàn bộ nền kinh tế
sang mơi trường cạnh tranh lấy mục đích và hiệu quả kinh tế xã hội làm cơ sở,
15
Tiểu luận Triết học
thay đổi thói quen trơng chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước của các doanh
nghiệp.
Mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước
phát triển tạo thêm việc làm , tăng thu ngân sách. Năm 1990 kim ngạch xuất
khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001 kim
ngạch xuất khẩu đã đạt 15 tỷ USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD),
tăng mỗi năm trung bình trên 20%, có năm tăng 30% (gấp 7 lần năm 1990).
Năm 2003 xuất khẩu đạt 20,176 tỷ USD. Xuất khẩu bình quân đầu người đạt
200 USD, đây là mức được thế giới công nhận là quốc gia có nền xuất khẩu
bình thường. Bên cạnh đó nước ta còn thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài (FDI). Đến nay ta đã thu hút được trên 41,538 tỷ USD vốn
đầu tư từ 64 quốc gia và vùng lãnh thổ với trên 4.370 dự án trong đó đã thực
hiện trên 24,654 tỷ USD. Nguồn đầu tư nước ngồi có vai trị quan trọng trong
nền kinh tế nước ta, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất
công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động
và hàng chục vạn lao động gián tiếp . Tranh thủ được kỹ thuật tiên tiến và khoa
học quản lý mới. Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Các nhà tài trợ đã cam
kết giành cho nước ta 20 tỷ USD , chủ yếu là cho vay ưu đãi và một phần là
viện trợ khơng hồn lại.
Tuy nhiên bên cạnh đó nước ta cịn tồn tại khơng ít khó khăn hạn chế đó
là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung cịn yếu, chính sách vĩ
mơ chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh. Doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều có quy mơ nhỏ, ít vốn. Đa
phần các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động trong tình
trạng kém hiệu quả kinh tế và có tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà
nước . Hệ thống chính sách , cơ chế quản lý của Nhà nước chưa tạo ra môi
trường cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
16
Tiểu luận Triết học
Mơi trường kinh doanh vẫn cịn một số bất cập về khuôn khô rpháp lý và thể
chế, cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Thể chế kinh tế thị trường chưa
hoàn thiện thể hiện ở sự thiếu đồng bộ của các yếu tố như thị trường tiền tệ, thị
trường đất đai, bất động sản, thị trường lao động, khoa học công nghệ... các cơ
sở pháp lý đảm bảo cạnh tranh chậm được ban hành và sửa đổi. Bên cạnh đó
việc thực thi pháp luật cịn rất hạn chế. Những chủ trương chính sách đúng đắn
của đảng và chính phủ ban hành chưa được thực hiện triệt để. Bộ máy điều
hành ở một số bộ và địa phương còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của
doanh nghiệp.
3.3 Đường lối đổi mới và chủ trương của Đảng và chính phủ
Trước những biến đổi của tình hình thế giới, xu thế tất yếu của quốc tế
hội nhập quốc tế , Đảng ta đã kịp thời đề ra chủ trương, quan điểm, nguyên tắc
về chính sách đối ngoại của đất nước, nhằm có thêm bạn bè, tạo thêm thế
mạnh, tranh thủ thêm vốn, công nghệ cho sự phát triển kinh tế, tranh được tình
thế rất khó khăn sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Với nhận thức
như vậy tại đại hội đảng lần thứ VII, đảng ta đã đưa ra quan điểm : thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá , đa phương hoá các quan hệ
quốc tế, mở rộng hợp tác, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tơn trọng độc
lập chủ quyền của mỗi quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau. Đại hội VII đã đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng “Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì độc lập hồ bình và phát
triển”
(Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII, nxb sự thât, Hà Nội
1991, tr147)
Đây là bước mở đầu cho quốc tế hội nhập, quyết định sáng suốt có tính
bước ngoặt về chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
Để phát triển kinh tế , đảng ta chỉ rõ phải tận dụng tối đa ngoại lực, trên
cơ sở dựa vào sức mình là chính. Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng
17
Tiểu luận Triết học
hợp tác quốc tế, đa dạng hoá , đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào sức
mình là chính , đi đơi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài xây dựng một
nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới hướng mạnh vào xuất khẩu (Văn
kiện đại hội đại biểu VIII, nxb Quốc gia Hà Nội , 1996 tr84-85)
Cũng trong văn kiện đại hội VIII, đảng ta nêu rõ “Điều chỉnh cơ cấu thị
trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập tồn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích
giữa ta và đối tác, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn
đàn , các tổ chức , các định chế quốc tế, một cách chọn lọc, bước đi thích
hợp.”
Đến đại hội IX, chính sách đối ngoại của đảng từng bước được bổ xung
hoàn thiện hơn. Đảng ta tiếp tục khẳng định “chủ động hội nhập kinh tế tranh
thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định
hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc, bình đẳng cùng
có lợi, vừa có hợp tác, vừa đấu tranh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ
kinh tế đối ngoại, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực
thù địch”.
(Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nxb : CTQG, Hà Nội
2001, tr167)
18
Tiểu luận Triết học
CHƯƠNG III
Phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có thể khẳng định một lần nữa giữa xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ
biện chứng. Chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới
có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng hướng và có hiệu
quả. Và ngược lại , chỉ có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới
nhanh chóng bổ sung sức mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hút, rút
ngắn con đường phát triển nhằm khơng ngừng tự hồn thiện mình để giữ vững
nền độc lập dân tộc.
Do đó, việc vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích
chủ trương , đường lối của đảng về kinh tế là việc làm hết sức đúng đắn, giúp
chúng ta không những hiểu rõ chủ trương, đường lối kinh tế đó mà cịn giúp
cho chúng ta có sự tự tin, ý chí quyết tâm thực hiện chủ trương, đường lối đó.
Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong hội nhập kinh tế quốc tế
thông qua phân tích mối liên hệ bên trong bên ngồi làm sáng tỏ quan điểm
đúng đắn của đảng ta trong việc lãnh đạo xây dựng kinh tế đất nước.
Theo các dự báo trong năm 2004, nền kinh tế thế giới sẽ đạt được tốc độ
tăng trưởng tiềm năng. Bởi vậy, xuất khẩu của Việt Nam sẽ có những điều kiện
thuận lợi hơn do thương mại toàn cầu. Mặc dù vậy, khi nền kinh tế của nhiều
nước đang có khả năng tăng trưởng đi lên, động cơ thúc đẩy họ tự do hố để
tăng cường hội nhập sẽ giảm. Đây có thể là khó khăn đối với Việt Nam trong
q trình chuẩn bị gia nhập WTO. Hơn nữa với những diễn biến phức tạp trên
các thị trường tài chính hiện nay và dự báo trong tương lai, Việt Nam cần phải
chuẩn bị để đối phó, ngăn ngừa những bất ổn định về tài chính có thể xảy ra ,
điều đó có nghĩa là Việt Nam phải xây dựng cho mình một nền kinh tế độc lập
19
Tiểu luận Triết học
tự chủ để có thể ứng phó trước mọi khó khăn trong quốc tế hội nhập kinh tế
quốc tế.
20