Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

chính sách thương mại quốc tế của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.23 KB, 31 trang )

KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI: Hai xu hướng cơ bản trong chính sách thương mại quốc tế của các
quốc gia (tự do hóa thương mại và bảo hộ thương mại) được thể hiện như thế
nào? Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam đang được điều chỉnh theo
xu hướng nào và giải thích?
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
1. Bùi Tuấn Anh CQ520026
2. Nguyễn Văn Chính CQ520406
3. Nguyễn Văn Chương CQ520420
4. Đường Xuân Đức CQ527087
5. Vũ Văn Khởi (Nhóm Trưởng) CQ521875
6. Công Thị Thùy Linh (Thư Ký) CQ522010
7. Lê Hương Thảo CQ523297
M=C L=C
LỜI MỞ ĐẦU 4
Trang 1
I. NHỮNG XU HƯỚNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 4
1. Xu hướng tự do hóa thương mại 4
1.1 Lý thuyết về xu hướng tự do hóa thương mại 4
1.2 Biểu hiện của xu hướng tự do hóa thương mại 5
2. Xu hướng bảo hộ thương mại 7
2.1 Lý thuyết về xu hướng bảo hộ thương mại 7
2.2 Biểu hiện của xu hướng bảo hộ thương mại 9
3. Đánh giá về hai xu hướng 11
II. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY 12
1. Tư tưởng, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước khuyến khích, đẩy mạnh tự do hóa thương
mại 12
2. Tự do hóa thương mại và hành động của Việt Nam 13
2.1 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 13


2.2 Cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam đối với các đối tác kinh tế 14
2.2.1 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – CEPT/AFTA 14
2.2.2 Tổ chức thương mại thế giới WTO 16
2.2.3 Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) 17
2.2.4 Hiệp định ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) 19
2.2.5 Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP) 21
2.2.6 Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN - Australia - New Zealand 21
2.2.7 Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ (AITIG) 22
2.2.8 Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) 23
2.3. Chính sách thương mại của Việt Nam ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho
thương mại quốc tế phát triển 25
2.3.1 Giai đoạn 2001 - 2005 25
2.3.2 Giai đoạn 2006 - 2010 26
3. Tự do hóa thương mại và biến động của một số chỉ tiêu kinh tế 26
3.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ 26
3.2 Vốn đầu tư vào Việt Nam 28
3.3 Tốc độ tăng trưởng 30
Trang 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
Trang 3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới những thập kỷ gần đây, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng kể về mặt kinh tế - xã hội: kinh tế tăng trưởng ở mức cao, ổn định kinh
tế vĩ mô, phát triển thương mại, mở rộng đầu tư, góp phần xóa đói giảm nghèo hiệu
quả. Nói đến những thành tựu gần đây của Việt Nam không thể không nhắc đến phần
đóng góp quan trọng của việc cải thiện các chính sách thương mại tập trung vào tự do
hóa thương mại trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng.
Bài nghiên cứu này nhằm phân tích biểu hiện của hai xu hướng cơ bản trong chính
sách thương mại quốc tế của mỗi một quốc gia, đó là: xu hướng tự do hóa thương mại
và bảo hộ thương mại; từ đó để xem xét xu hướng hiện nay của chính sách thương mại

quốc tế ở Việt Nam.
I. NHỮNG XU HƯỚNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Xu hướng tự do hóa thương mại
1.1 Lý thuyết về xu hướng tự do hóa thương mại
Tự do hóa thương mại là sự nới lỏng can thiệp của nhà nước hay chính phủ vào
lĩnh vực trao đổi, buôn bán quốc tế. Tự do hóa thương mại vừa là nhu cầu hai chiều
của hầu hết các nền kinh tế thị trường, bao gồm: nhu cầu bán hàng hóa, đầu tư ra nước
ngoài và nhu cầu mua hàng hóa, nhận vốn đầu tư của nước ngoài.
Cơ sở khách quan của xu hướng này bắt nguồn từ quá trình quốc tế hóa đời
sống kinh tế thế giới với những cấp độ khác nhau là toàn cầu hóa và khu vực hóa, lực
lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới một quốc gia, sự phân công
lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu, vai trò của các công ty đa quốc
gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế
mở” với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế mỗi nước. Tự
do hóa thương mại đều đưa lại lợi ích cho mỗi quốc gia và tạo điều kiện cho từng quốc
gia có thể phát huy tối ưu các lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của mình so với các
quốc gia khác, dù trình độ phát triển có khác nhau và nói phù hợp với xu thế phát triển
chung của nên văn minh nhân loại.
Xu hướng tự do hóa thương mại ra đời nhằm phát triển hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hóa, cụ thể là phát triển khả năng xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác
đồng thời mở rộng hoạt động nhập khẩu hàng hóa không có điều kiện để sản xuất hoặc
sản xuất với hiệu quả thấp; tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế
nói chung giữa các nước trên thế giới mà trước hết là quan hệ hợp tác đầu tư; tăng khả
năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp bằng cách tạo ra môi trường cạnh tranh tốt như
tạo ra sự bình đẳng hơn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài –
là động lực quan trong để các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh
để tồn tại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tùy theo mức độ mở cửa thị trường, xu hướng tự do hóa thương mại gồm:
Trang 4

- Tự do hóa thương mại hoàn toàn: Nhà nước mở cửa hoàn toàn thị trường nội
địa, không sử dụng bất kỳ công cụ hay biện pháp nào can thiệp vào hoạt động
thương mại quốc tế và thị trường thực sự điều tiết hoàn toàn bởi các quy luật thị
trường.
- Tự do hóa thương mại có điều tiết: Nhà nước không mở cửa hoàn toàn thị
trường nội địa mà sử dụng các công cụ và biện pháp nhằm điều tiết hoạt động
thương mai quốc tế có lợi cho nền kinh tế quốc gia mà biểu hiện ở một số điểm
sau:
 Nhà nước thực hiện thương mại tự do mở cửa thị trường nội địa với một
số nước trong quan hệ song phương, đa phương.
 Nhà nước thực hiện tự do thương mại chỉ với một số mặt hàng.
 Nhà nước thực hiện các công cụ và biện pháp điều tiết thương mại quốc
tế.
1.2 Biểu hiện của xu hướng tự do hóa thương mại
Xu hướng tự do hóa thương mại thể hiện thông qua việc:
- Nhà nước tiến hành cắt giảm các công cụ biện pháp gây hạn chế cho hoạt động
thương mại quốc tế như thuế quan, hạn ngạch, các thủ tục hành chính nhằm tạo
điều kiện thuận lợi để mở rộng phát triển quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa
với nước khác.
- Hoạt động xuất nhập khẩu được tiến hành một cách tự do.
 Về mặt hàng, nhà nước đưa ra danh mục hàng hóa tự do là danh mục các
loại hàng hóa có thể nhập khẩu không phải nộp thuế Hải quan hoặc
những hàng hóa không thuộc đối tượng phải có giấy phép nhập khẩu.
 Về thị trường, nhà nước mở cửa thị trường nội địa, dành cho các nhà
kinh doanh nước ngoài những ưu đãi về tiếp cận thị trường, được tự do
kinh doanh trên thị trường nội địa
- Nguyên tắc điều chỉnh thương mại quốc tế: không phân biệt đối xử.
Từ thập kỷ 1990 đến nay tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế đã có
bước phát triển đột biến mạnh mẽ thể hiện trên các mặt: sự ra đời của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO); các khu thương mại tự do phát triển mạnh mẽ từ EU, NAFTA,

AFTA đến các khối kinh tế khác ở hầu khắp các châu lục; các Hiệp nghị thương mại
tự do song phương phát triển chưa từng có giữa các quốc gia với nhau như Mỹ -
Singapore, Mỹ - Thái Lan…đến các Hiệp nghị thương mại tự do giữa các khối thương
mại tự do với các quốc gia như ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Nhật Bản…
Hàng rào thuế quan giữa các nước phát triển với nhau đã giảm xuống còn 3%, mức
thuế quan quân bình của các nước đang phát triển cũng đã được hạ thấp xuống còn
khoảng 14%. Những cam kết giảm bỏ hàng rào bảo hộ đang là nội dung chủ yếu của
các cuộc đàm phán đa phương và song phương hiện nay.
Cụ thể:
Trang 5
a) Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
WTO là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát
các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương
mại. Từ 23 thành viên sáng lập ban đầu trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT - General Agreement of Tariffs and Trade) vào năm
1947và tính đến ngày 16/12/2011, WTO có 155 thành viên. WTO hoạt động dựa
trên các nguyên tắc sau:
- Không phân biệt đối xử:
 Đãi ngộ quốc gia: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước
ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó
kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nước.
 Đãi ngộ tối huệ quốc: Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành
cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành
viên trong WTO.
- Tự do thương mại hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán.
- Tính Dự đoán thông qua Liên kết và Minh bạch: các quy định và quy chế
thương mại phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định.
- Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển: giành những thuận lợi và ưu đãi hơn
cho các thành viên là các quốc gia đang phát triển trong khuôn khổ các chỉ định
của WTO.

- Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các nước thành
viên
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn
đề về thương mại quốc tế. Các nước muốn trở thành thành viên của WTO phải kí kết
và phê chuẩn hầu hết những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa thuận tự nguyện.
Mục tiêu hoạt động của WTO cho đến nay vẫn không đổi: xóa bỏ hoặc giảm thiểu
rào cản thương mại và thúc đẩy các dòng thương mại mới giữa các quốc gia, qua đó
phát huy lợi ích của tăng trưởng kinh tế và phát triển trên quy mô rộng lớn hơn.
b) Hiệp định thương mại tự do (FTA)
Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều
quốc gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ hàng
rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực
thương mại tự do. Theo thống kê của Tổ chức thương mại thế giới có hơn 200 Hiệp
định thương mại tự do có hiệu lực. Các Hiệp định thương mại tự do có thể được thực
hiện giữa hai nước riêng lẻ hoặc có thể đạt được giữa một khối thương mại và một
quốc gia như Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Chi Lê, hoặc Hiệp định
thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc.
Một hiệp định thương mại tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó là Hiệp
Trang 6
hội Thương mại Tự do Châu Âu. Sau những bế tác của đàm phán tự do hóa thương
mại đa phương trong khuôn khổ GATT, các hiệp định thương mại tự do song phương
(giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa thập niên 1990. Và
trong số những quốc gia hăng hái nhất trong việc ký kết các hiệp định thương mại tự
do song phương phải kể đến Mexico, Singapore. Những khu vực thương mại tự do nổi
tiếng mới thành lập từ thập niên 1990 điển hình là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc
Mỹ (thành lập năm 1994), Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (hiệp định được ký
kết vào năm 1992). Ngoài ra, còn có những hiệp định thương mại tự do giữa một nước
với cả một khối, như Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế ASEAN-Trung Quốc (ký
kết vào năm 2002).
Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên việc đàm

phán để thành lập một hiệp định thương mại tự do rất mất thời gian và qua nhiều vòng
thương thảo. Những nước hăng hái với tự do hóa thương mại có thể thỏa thuận tiến
hành chương trình giảm thuế quan sớm (còn gọi là chương trình thu hoạch sớm) đối
với một số dòng thuế trước khi đàm phán kết thúc và hiệp định được thành lập.
FTA trong tương lai: Hiệp định tự do thương mại Mỹ - Liên minh châu Âu
Vào ngày 13/02/2013, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã đồng ý là hai bên sẽ nhanh
chóng mở các cuộc đàm phán về một hiệp định tự do thương mại song phương. Thời
điểm khởi sự các vòng thương thuyết sẽ là trong nửa đầu năm 2013 này, tức là từ nay
đến tháng Sáu. Hiệp định tự do thương mại Mỹ-Liên minh châu Âu sẽ là một sự kiện
mang tính lịch sử, vì chi phối khoảng một nửa sản lượng của thế giới.
Hiệp định tự do thương mại Mỹ-Liên minh châu Âu có thể cho phép châu Âu cộng
thêm khoảng 0,5% vào mức tăng trưởng của mình từ đây đến năm 2027, trong lúc Hoa
Kỳ cũng được thêm 0,4%. Tính về thu nhập hàng năm, Liên minh châu Âu sẽ có thêm
86 tỷ euro và Hoa Kỳ 65 tỷ.
2. Xu hướng bảo hộ thương mại
2.1 Lý thuyết về xu hướng bảo hộ thương mại
Bảo hộ thương mại là sự gia tăng can thiệp của nhà nước hay chính phủ vào lĩnh
vực buôn bán quốc tế; nhưng sự gia tăng này theo hướng có “chọn lọc”, có địa chỉ rõ
ràng và có thời gian, khắc phục triệt để sự can thiệp phi lý của Nhà nước trái với thông
lệ quốc tế, luật pháp quốc tế và cam kết quốc tế.
Cơ sở khách quan của xu hướng này bắt nguồn từ sự phát triển không đều và sự
khác biệt trong điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia, do sự chênh lệch về khả năng
cạnh tranh giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài, cũng như do các
nguyên nhân lịch sử để lại. Ở buổi đầu hình thành nền thương mại quốc tế, người ta
thường quan tâm đến việc đẩy mạnh xuất khẩu để thu về kim khí quí, trong khi đó lại
chủ trương hạn chế nhập khẩu để giảm bớt khả năng di chuyển của kim khí quí ra
nước ngoài. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, các lý do về chính trị và xã hội
cũng đưa đến yêu cầu phải bảo hộ thương mại.
Xu hướng bảo hộ thương mại ra đời nhằm:
Trang 7

- Bảo vệ nền công nghiệp non trẻ: Chính phủ cần bảo vệ những ngành công
nghiệp mới có tiềm năng của đất nước để giúp chúng lớn mạnh và trưởng thành
có được khả năng sáng tạo mới và sức cạnh tranh cao.
- Tạo nên nguồn tài chính công cộng: Việc đánh thuế với hàng hóa nhập khẩu
sẽ giúp chính phủ có một khoản thu lớn phục vụ cho tài chính công cộng.
- Khắc phục một phần tình trạng thất nghiệp: Thông qua việc thực hiện thuế
quan bảo hộ, việc có những hàng rào bảo hộ sẽ giúp cho sản phẩm nước ngoài
giá cao hơn. Nhờ vậy mà hàng trong nước phần nào có lợi thế hơn về giá so với
hàng xuất khẩu. Chính vì vậy, sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước qua
đó khắc phục một phần tình trạng thất nghiệp.
- Thực hiện phân phối lại thu nhập: Phân phối lại thu nhập xã hội là sự can
thiệp của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật, các chính sách để
vận động, thuyết phục những người có thu nhập cao đóng góp để cùng nhà
nước giúp đỡ cộng đồng và những người có thu nhập thấp.
- Bảo vệ việc làm và ngành công nghiệp: Khi thương mại tự do phát triển thì sẽ
ngày càng có nhiều hàng hóa đi vào thị trường nội địa của các quốc giá đó.
Điều này đã làm ảnh hưởng cho các nhà sản xuất trong nước, làm cho hàng hóa
trong nước phải cạnh tranh mạnh hơn với các hàng hóa nước ngoài. Nếu hàng
hóa trong nước không đủ sức cạnh tranh và bị thất bại dẫn đến sản xuất giảm
sút dẫn đến người lao động trong nước mất việc làm dẫn đến tình trạng thất
nghiệp cao. Việc có hàng rào bảo hộ sẽ giúp tăng lợi thế sản phẩm nội địa, qua
đó bảo vệ được ngành công nghiệp trong nước, việc làm cũng được bảo vệ.
- Bảo vệ an ninh quốc gia: Một số ngành công nghiệp đóng vai trò thiết yếu đối
với quốc gia chúng ta cũng phải ra sức bảo hộ. Để bảo vệ những công nhân, các
chính phủ đã ban hành luật hạn chế các công ty có thể làm trong việc theo đuổi
lợi nhuận ví dụ như pháp luật liên quan đến: lao động trẻ em, thương lượng tập
thể, cạnh tranh (chống độc quyền), bảo vệ môi trường, cơ hội bình đẳng, sở hữu
trí tuệ, lương tối thiểu, an toàn lao động và sức khỏe…
- Trả đũa: Để trả đũa dằn mặt hàng hóa các quốc gia cũng áp dụng các chính
sách bảo vệ thương mại các hàng hóa của mình. Đó là khi thực hiện thương mại

tự do không công bằng. Khi một nước cho nước khác được tự do vào nước
mình nhưng trong khi đó nước đó lại thực hiện chính sách bảo hộ hàng hóa của
họ không cho hàng hóa của mình vào nước họ thì dẫn đến nước đó cũng sẽ thực
hiện chính sách bảo hộ nhằm bảo vệ ngành của họ.
- Văn hóa: Các quốc gia hạn chế buôn bán hàng hóa và dịch vụ nhằm đạt được
các mục tiêu về văn hóa nhất là mục tiêu bảo về bản sắc văn hóa và truyền
thống dân tộc. Văn hóa và tự do hóa thương mại đan quyện và tác động qua lại
với nhau. Văn hóa mỗi quốc gia đều dần dần có sự thay đổi do có sự hiện diện
của con người và sản phẩm từ các nền văn hóa khác. Những tác động ngoài
mong muốn của văn hóa buộc chính phủ phải ngăn cản việc nhập khẩu những
sản phẩm được coi là có hại.
Trang 8
Tùy thuộc vào mức độ bảo hộ của nền sản xuất trong nước, xu hướng bảo hộ
thương mại bao gồm:
- Xu hướng bảo hộ thương mại hoàn toàn: nhà nước đóng cửa hoàn toàn thị
trường nội địa, cấm hẳn không cho phép cá nhà sản xuất – kinh doanh kinh
doanh nước ngoài và kinh doanh trên thị trường nội địa.
- Xu hướng bảo hộ thương mại có giới hạn:
 Nhà nước chỉ bảo hộ thương mại đối với một số mặt hàng, trên một số
thị trường khu vực.
 Nhà nước thực hiện các công cụ và biện pháp can thiệp vào hoạt động
thương mại quốc tế, gây khó khăn cho các nhà kinh doanh nước ngoài.
2.2 Biểu hiện của xu hướng bảo hộ thương mại
Xu hướng bảo hộ thương mại được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Nhà nước sử dụng các công cụ và biện pháp can thiệp vào quá trình nhập khẩu,
giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa. Nhà
nước thực hiện các biện pháp nâng đỡ các nhà kinh doanh trong nước có khả
năng cạnh tranh được với các nhà kinh doanh nước ngoài và mở rộng xuất khẩu
ra thị trường nước ngoài.
 Biện pháp để thực hiện bảo hộ thương mại là sử dụng các công cụ thuế

quan, phi thuế quan và đặt biệt là các “rào cản thương mại” để hạn chế
những tác động xấu từ bên ngoài.
 Về mặt hàng, giới hạn số lượng hàng xuất nhập khẩu, đưa ra danh mục
hàng hóa không cho phép xuất nhập khẩu nhằm ngăn cản sự cạnh tranh
của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa.
 Về thị trường, nhà nước cho phép hoặc hạn chế các nhà doanh nghiệp
nước ngoài kinh doanh trên thị trường nội địa.
- Nguyên tắc điều chỉnh thương mại quốc tế: là nguyên tắc có sự phân biệt đối xử
giữa các nhà kinh doanh nước ngoài với nhà kinh doanh trong nước, gây khó
khăn cho các nhà kinh doanh nước ngoài.
Cụ thể
a) Trên thế giới
Hiện nay, hầu hết nền kinh tế các nước đều gặp phải nhiều khó khăn. Ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế vẫn còn ám ảnh ở nhiều quốc qia, thêm vào đó khủng
hoảng nợ công ở một số nước càng làm mậu dịch thế giới trở lên u ám và giảm sút.
Báo cáo mới nhất về tình hình buôn bán thế giới do Tổ chức mậu dịch thế giới (WTO)
công bố cuối tháng 12/2011 cho biết mức tăng trưởng mậu dịch thế giới năm 2011 chỉ
đạt 5,8% thấp hơn so với mức dự kiến ban đầu 6,5%. Đây là mức tăng thấp nhất 18
năm qua, trong đó các nước phát triển chỉ tăng 3,7%, nước đang phát triển tăng 8,5%.
Năm 2010, mức tăng trưởng mậu dịch thế giới đạt 14,5% cho dù vẫn bị tác động tiêu
Trang 9
cực của năm 2009 để lại. Đầu Quý 1/2011, mậu dịch thế giới có bước khởi sắc đáng
mừng với mức tăng tới 22%, nhưng sau đó cứ lùi dần và cả năm chỉ tăng được 5,8%.
Thương mại thế giới bắt đầu xu hướng đi xuống vào giữa năm 2008, khi nền kinh tế
toàn cầu bắt đầu suy thoái.
Trước áp lực phục hồi kinh tế, các quốc gia đã buộc phải áp dụng một loạt chính
sách mang tính bảo hộ (như thuế quan, trợ giá và bảo lãnh tài chính) nhằm bảo vệ sản
xuất trong nước. Vấn đề bảo hộ thương mại đang ngày càng nóng lên sau khi các nước
đưa ra các gói kích thích kinh tế lớn và khuyến khích dùng hàng nội để giảm bớt khó
khăn cho các nhà sản xuất. Ngoài việc che chắn, bảo vệ cho nền sản xuất trong nước

trước sức tấn công của hàng hóa nhập khẩu, nhiều nước đang ra sức nâng đỡ các
ngành công nghiệp yếu kém trong nước.
Tiêu biểu cho xu hướng bảo hộ thương mại là nước Mỹ với chương trình “Buy
American”, làm dấy lên lo ngại rằng các nước khác như Trung Quốc, cũng có thể
hành động tương tự - điều sẽ gây tổn hại thêm đối với thương mại toàn cầu trong giai
đoạn khủng hoảng hiện tại. Bên cạnh đó, quyết định tài trợ 17,4 tỷ USD của Mỹ cho
ngành xe hơi cũng đang bị giới phân tích đánh giá là một hành động trợ cấp không
công bằng, đặt các đối thủ cạnh tranh vào vị trí bất lợi. Nước Mỹ cũng gặp phải nhiều
chỉ trích gay gắt từ các thành viên của WTO khi Mỹ tái ban hành những biện pháp trợ
giá xuất khẩu đối với các sản phẩm sữa của nước này, bởi cảnh báo rằng nó có thể là
một tiền lệ nguy hiểm khiến thế giới quay lại chủ nghĩa bảo hộ, đặc biệt có nguy cơ
bùng nổ thành những cuộc chiến thương mại.
Trung Quốc cũng tuyên bố phương châm “Buy Chinese” của mình chỉ một vài
tháng sau chương trình “Buy American”. Sau nhiều chỉ trích với các kế hoạch bảo hộ
thương mại của Mỹ, đến lượt mình, Trung Quốc bị lên án đã đi ngược lại tinh thần
chống chủ nghĩa bảo hộ khi yêu cầu các cơ quan chính phủ mua hàng hóa sản xuất
trong nước nếu có thể cho các dự án sử dụng ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo
khoản tiền 585 tỷ USD trong gói kích thích kinh tế có lợi cho các doanh nghiệp trong
nước.
Ấn Độ đã tăng thuế suất nhập khẩu dầu đậu nành thêm 20% để bảo hộ nông dân
trong nước khi giá dầu ăn trên thị trường thế giới giảm mạnh trong khi Indonesia bắt
đầu hạn chế nhập khẩu ít nhất 500 mặt hàng với nhiều biện pháp hạn chế khác như yêu
cầu doanh nghiệp nhập khẩu phải có giấy phép đặc biệt và phải nộp một khoản lệ phí
mới. Nga sử dụng biện pháp tăng thuế suất nhập khẩu xe hơi thêm 35%, đồng thời
thuế thịt heo và thịt gia cầm cũng được điều chỉnh tăng. Argentina và Brazil cũng đang
tìm cách nâng thuế suất nhiều mặt hàng nhập khẩu, từ rượu vang đến hàng dệt may,
hàng da giày và trái cây vào các nước này.
Đối mặt với khủng hoảng tài chính và dòng sản phẩm giá rẻ từ bên ngoài, chính phủ
các quốc gia Nam Mỹ ngày càng không che giấu ý đồ ngăn chặn hàng nhập khẩu. Ví
dụ điển hình là việc các nước thuộc Khối thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) đã

quyết định tăng thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu tại cuộc họp cuối năm 2011.
Tháng 2/2012 vừa rồi, Chính phủ Argentina quyết định hạn chế hàng nhập khẩu từ
Liên hiệp Anh, chỉ vài tháng sau quyết định tăng thuế đối với một số sản phẩm nhập
khẩu từ Trung Quốc. Trong khi đó, Pháp và EU cũng không thiếu kinh nghiệm trong
việc bảo hộ thị trường của mình. Hàn Quốc tăng thuế hải quan từ 1% tới 3% đối với
xăng dầu nhập khẩu và Indonesia đã giảm nhập cảng đối với các sản phẩm điện tử với
cái cớ chống buôn lậu.
Trang 10
b) Tình hình Việt Nam
Về trợ cấp, nhằm góp phần thúc đẩy xuất khẩu, Việt Nam đã áp dụng trợ cấp theo
các hình thức khác nhau cho những mặt hàng còn gặp khó khăn chưa tự đứng vững
trên thị trường trong nước cùng như thị trường quốc tế.
Về rào cản kỹ thuật, Việt Nam cho tới nay chưa áp dụng được biện pháp này trong
bảo hộ thương mại của mình bởi thực tế nhiều chỉ tiêu kỹ thuật của Việt Nam vẫn còn
thấp hơn nhiều so với mức chuẩn quốc tế nên hàng hóa nhập khẩu dễ dàng đáp ứng
được các tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam để ra do được sản xuất với trình độ công nghệ
cao đặc biệt là hàng hóa có xuất xứ từ những nước phát triển như: Mỹ, Nhật Rào
cản kỹ thuật của Việt Nam chủ yếu dùng để ngăn chặn những hàng hóa đã gây nguv
hiểm và bị phát hiện từ nước ngoài như: sữa nhiễm chất melamine gây nguy hiểm cho
thận hay rau quả của Nhật có nhiễm phóng xạ do động đất vừa qua…
3. Đánh giá về hai xu hướng
Xu hướng tự do thương mại và bảo hộ thương mại đều có những ưu nhược điểm
nhất định. Điều đó đòi hỏi khi áp dụng cần phải cân nhắc, tính toán một cách thận
trọng, có luận cứ khoa học, không áp đặt chủ quan, không can thiệp phi lý.
Những ưu điểm và nhược điểm chủ yếu:
Tự do hóa thương mại Bảo hộ thương mại
Ưu
điểm
 Mọi trở ngại trong TMQT
được loại bỏ, tạo điều kiện thúc

đẩy tự do lưu thông hàng hóa giữa
các nước.
 Làm cho thị trường nội địa
phong phú hàng hóa hơn, người
tiêu dùng có thể thỏa mãn nhu cầu
của mình một cách tốt nhất.
 Tạo điều kiện cho các nhà
sản xuất trong nước vươn ra nước
ngoài.
 Làm suy yếu hoặc xóa bỏ
chính sách bảo hộ thương mại của
các nước khác, tạo cơ sở cho các
nhà kinh doanh nội địa dễ dàng
thâm nhập và phát triển thị trường
mới.
 Giảm sức cạnh
tranh của hàng hóa nhập
khẩu.
 Bảo hộ các nhà sản
xuất kinh doanh trong
nước giúp họ tăng cường
sức mạnh trên thị trường
nội địa.
 Giúp các nhà xuất
khẩu tăng sức cạnh tranh
thâm nhập thị trường
nước ngoài.
 Sử dụng hợp lý
nguồn ngoại tệ, tạo sự cân
bằng cán cân thanh toán

quốc tế của quốc gia.
Nh
ược
điểm
 Thị trường trong nước điều
tiết chủ yếu bởi quy luật tự do cạnh
tranh nên nền kinh tế dễ rơi vào
tình trạng khủng hoảng, phát triển
không ổn định.
 Các nhà sản xuất kinh
doanh trong nước phát triển không
 Kinh tế của đất
nước bị cô lập, đi ngược
lại với xu thế của thời đại
ngày nay là toàn cầu hóa
kinh tế thế giới.
 Bảo hộ thương mại
dẫn tới sự trì trệ và bảo
Trang 11
đủ mạnh thì dễ dàng bị phá sản
trước sự tấn công của hàng hóa
nước ngoài.
thủ của các nhà kinh
doanh nội địa, thiếu động
lực thú đẩy phát triển và
hoàn thiện kinh tế trong
nước.
 Bảo hộ thương mại
làm thiệt thòi cho người
tiêu dùng trong nước.

Về mặt nguyên tắc, hai xu hướng trên đối nghịch nhau và chúng gây nên tác động
ngược chiều nhau đến hoạt động thương mại quốc tế. Nhưng, chúng không bài trừ
nhau mà trái lại thống nhất với nhau. Trong thực tế, hai xu hướng cơ bản này song
song tồn tại và chúng được các quốc gia sử dụng và khéo léo kết hợp ở những mức độ
khác nhau tùy theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước.
II. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY
Xu hướng thương mại quốc tế của Việt Nam hiện nay là “Đẩy mạnh tự do hóa
thương mại”. Theo đó nhà nước tăng cường áp dụng các biện pháp cần thiết để từng
bước giảm thiểu các trở ngại trong hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan trong
quan hệ mậu dịch quốc tế, nhằm tạo điều kiện càng thuận lợi hơn cho các hoạt động
thương mại quốc tế phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Các biện pháp đó là việc điều
chỉnh theo chiều hướng nới lỏng dần và theo bước đi phù hợp trên cơ sở các thỏa
thuận song phương và đa phương đối với các công cụ bảo hộ mậu dịch đã và đang tồn
tại trong quan hệ thương mại quốc tế. Cụ thể, đó là việc thực hiện các biện pháp cắt
giảm thuế quan và nới lỏng hoặc rỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, các
tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về chất lượng môi trường, về nhãn mác hàng hóa…
1. Tư tưởng, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước khuyến khích, đẩy
mạnh tự do hóa thương mại
Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 6, nhận thấy xu thế hội nhập quốc tế
ngày càng phát triển mạnh mẽ, có ảnh hưởng lớn đổi với tình hình chính trị và kinh tế
thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng, Đảng ta nhận định: “ Xu thế mở rộng
phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác
nhau, cũng là những điều kiện quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nước ta” từ đó, Đảng chủ trương đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh
tế với các nước ngoài hệ thống xã hộ chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã nêu rõ: “Trong
hoàn cảnh mới, chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hóa và
đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu”,… “Điều chỉnh cơ

cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập quốc tế, xử lý đúng đắn lợi ích
giữa ta và các đối tác, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn
Trang 12
đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp”.
Tại Đại hội khóa 9 (năm 2001), Đảng ta đã nêu quan điểm: “Trong quá trình chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu
quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao
hiệu quả hợp tác với bên ngoài; tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với
kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) Đảng ta nêu quan điểm: Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Đồng thời
đề ra chủ trương: “ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù
hợp”.
Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996),
đến Đại hội X (năm 2006) được bổ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển.
2. Tự do hóa thương mại và hành động của Việt Nam
2.1 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Dấu mốc quan trọng mở đầu tiến trình hội nhập kinh tế sâu rộng của Việt Nam bắt
đầu từ năm 1995 với ba sự kiện chính. Thứ nhất, nước ta đã gia nhập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và tham gia hiệp định mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) và tiếp đó là hiệp định mậu dịch tự do với các đối tác (ASEAN+). Thứ hai,
chúng ta đã đàm phán và ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ
vào năm 2000. Tác dụng nổi bật của hiệp định này, một mặt đây là bước tập dượt
quan trọng để Việt Nam tham gia sau rộng hơn vào tiến trình hội nhập khu vực
(tham gia các FTA) và toàn cầu (gia nhập WTO). Mặt khác, hiệp định này cho phép
chúng ta tiếp cận thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới mà không bị phân biệt đối

xử. Thứ ba, Việt Nam đã đàm phán gia nhập WTO và trở thành thành viên của tổ
chức này tháng 1 năm 2007. Cùng với các FTA khu vực, Việt Nam cũng đã ký hiệp
định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản (EPA) mà thực chất là một FTA song
phương.
Trang 13
2.2 Cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam đối với các đối tác kinh tế
2.2.1 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – CEPT/AFTA
Ngày 15/12/1995, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định về Chương trình ưu
đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (AFTA). CEPT có nghĩa là thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung, và là mức
thuế có hiệu lực, được thỏa thuận ưu đãi cho ASEAN, được các nước ASEAN ký kết
năm 1992 và được áp dụng cho tất cả hàng hóa có xuất xứ từ các quốc gia thành viên
ASEAN. Tất cả các sản phẩm nông sản chế biến được đưa vào Chương trình cắt giảm
Trang 14
thuế quan theo quy định của Hiệp định AFTA. Đối với những sản phẩm thuộc diện
PTA (thỏa thuận thương mại ưu đãi ASEAN) sẽ được áp dụng chương trình cắt giảm
thuế quan có xem xét tới thuế quan sau khi đã áp dụng mức ưu đãi thuế quan thấp nhất
(MOP) kể từ ngày 31-12-1992. Xét đến mục đích thiết lập, CEPT là một thỏa thuận
chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN
xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào
phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993. Tuy nhiên vấn đề giảm thuế
quan xuống còn 0-5% còn tùy thuộc theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các
nước mới, nhưng thời hạn tối đa để cắt giảm thuế quan là trong vòng 10 năm. Đồng
thời tiến hành việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN là vấn đề loại bỏ hàng rào phi
quan thuế (NTB): hạn ngạch, cấp giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ
thuật: kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ. Cùng với việc tiến hành việc hài hoà các thủ tục Hải
quan.
Vào năm 2010, các nước ASEAN thực hiện Hiệp định thương mại hàng hóa
ASEAN (ATIGA) thay thế Hiệp định CEPT. Thực hiện đúng yêu cầu của CEPT, ta đã
đưa ra các Danh mục cắt giảm thuế:

Danh mục cắt giảm thuế quan (IL): là danh mục các sản phẩm mà các nước thành
viên đã sẵn sàng cắt giảm thuế. Hàng năm, Chính phủ ban hành Nghị định thư công bố
thực hiện CEPT/AFTA cho năm đó. Gần đây nhất, ngày 12/6/2008, Bộ Tài chính đã
ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện CEPT giai
đoạn 2008-2013:
Thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt - Ngày 12/6/2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban
hành Quyết định số ban hành Danh mục hàng hóa và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định CEPT/AFTA giai đoạn 2008 -
2013.Theo đó, xe thiết kế đặc biệt nhập khẩu nguyên chiếc (xe để đi trên tuyết, xe
hạng golf, kể cả xe chở người có khoang chứa hành lý và ôtô đua…) từ các nước thuộc
khối ASEAN sẽ được hưởng thuế suất 5%, thay cho mức 10% cũ. Dòng xe du lịch loại
dưới 9 chỗ ngồi sẽ có mức thuế 60-70% trong những năm tiếp từ 2011 đến 2013, thay
cho mức 83% hiện hành. Các dòng xe du lịch loại dưới 9 chỗ ngồi có dung tích xi-lanh
từ 1,0 trở lên vẫn áp dụng thuế suất cũ 83% như đối với các nước nằm ngoài khối
ASEAN. Thuế suất này được giữ nguyên trong 3 năm 2008, 2009 và 2010. Đến năm
2011-2012 thuế được giảm xuống còn 70% và đến năm 2013 chỉ còn 60%. Đối với các
loại linh kiện phụ tùng ôtô nhập khẩu từ các nước ASEAN, mức thuế mới áp dụng
chung cho giai đoạn từ 2008 đến 2013 là 5% và thấp hơn khoảng 5-10% so với các
nước nằm ngoài khối. Các loại xe máy phân khối lớn tạm thời vẫn giữ thuế suất 90%
hiện hành. Mức thuế này sẽ được giảm xuống 75% vào 2012 và còn 60% vào năm
2013. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 42 vừa qua, ta đã thống nhất với
các nước ASEAN Lộ trình cắt giảm thuế quan đối với mặt hàng xăng dầu. Ta cũng đã
thỏa thuận sẽ đưa mặt hàng thuốc lá ra khỏi Danh mục GEL (Danh mục loại trừ hoàn
toàn) để cắt giảm thuế quan trước năm 2015.
Đến thời điểm này, danh mục IL của Việt Nam gồm 10.455 dòng thuế. Lộ trình cắt
giảm thuế quan theo CEPT/AFTA trong giai đoạn 2005-2013 như sau (bảng 2).
Theo Quy định trong Hiệp định ATIGA, tới năm 2015 các nước ASEAN sẽ đưa
thuế suất xuống 0% đối với tất cả các mặt hàng, trừ những mặt hàng nằm trong danh
Trang 15

mục GEL hoặc những mặt hàng trước đây nằm trong Danh mục GEL, sau đó được đưa
ra để thực hiện cắt giảm thuế quan theo Lộ trình riêng.
2.2.2 Tổ chức thương mại thế giới WTO
a) Các cam kết về thuế quan
Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết ràng buộc toàn bộ biểu thuế đối với toàn
bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành, gồm khoảng 10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết
cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức bình quân hiện hành (thuế suất
MFN năm 2005) của biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau
5-7 năm. Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ thực hiện cắt giảm thuế đối với
khoảng 3.800 dòng thuế, ràng buộc ở mức thuế suất hiện hành với khoảng 3.700 dòng
thuế, ràng buộc theo mức thuế trần-cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng
thuế, chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hóa chất, phương tiện
vận tải. Một số mặt hàng đang có thuế suất cao (trên 30%) sẽ được cắt giảm thuế ngay
khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất gồm: dệt
may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện-điện tử.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập
và 21% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. Trong lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình
quân vào thời điểm gia nhập là 16,1% và mức cắt giảm cuối cùng là 12,6%.
Bảng 3: Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng chính
Trang 16
b) Các cam kết dịch vụ
Trong WTO, ta cam kết đủ 11 lĩnh vực dịch vụ với 110 phân ngành/155 phân ngành
theo hệ thống phân loại dịch vụ của WTO. Theo phân loại của WTO, dịch vụ phân
phối bao gồm các dịch vụ sau:
- Dịch vụ đại lý hoa hồng
- Dịch vụ bán buôn
- Dịch vụ bán lẻ
- Dịch vụ nhượng quyền thương mại
c) Cam kết về quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu)
Khi gia nhập WTO, ta đã cam kết cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được

quyền xuất khẩu đối với hầu hết các loại hàng hóa. Về quyền nhập khẩu, cho tới nay ta
đã cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được quyền nhập khẩu và bán lại cho
người mua trong nước hầu hết các loại hàng hóa, kể cả dược phẩm, phim ảnh, tem bưu
chính, bưu thiếp, lịch, ấn phẩm, máy in, máy truyền dữ liệu điện tín, máy phát sóng
radio (những mặt hàng ta cho phép doanh nghiệp có vốn ĐTNN nhập khẩu từ năm
2009).
2.2.3 Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc (ACFTA)
Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN – Trung Quốc đề ra các quy định đối với
hầu hết tất cả các khía cạnh liên quan đến thương mại hàng hoá giữa các nước ASEAN
và Trung Quốc, từ lịch trình cắt giảm thuế, các quy tắc cho hưởng ưu đãi, các biện
pháp phi thuế, các quy tắc đối với việc áp dụng các biện pháp quản lý thương mại
Trang 17
hàng hoá như chống bán phá giá và tự vệ, đến các quy định về cơ cấu thể chế. Hiệp
định hàng hóa ASEAN-Trung Quốc đưa ra Lộ trình cắt giảm thuế quan theo ACFTA
gồm 4 nhóm khác nhau:
(a) Chương trình “Thu hoạch sớm” (EHP)
(b) Danh mục giảm thuế thông thường (NT)
(c) Danh mục nhạy cảm (SL)
(d) Danh mục nhạy cảm cao (HSL)
Do sự khác biệt về trình độ phát triển, các lộ trình giảm thuế của Việt Nam chậm và
linh hoạt hơn lộ trình giảm thuế của Trung Quốc và các nước ASEAN 6. Lộ trình cắt
giảm thuế cụ thể như sau:
a) Chương trình Thu hoạch sớm (EHP)
Chương trình (Danh mục) Thu hoạch sớm (EHP) là một cơ chế ưu đãi thuế quan
hẹp, được thực hiện từ năm 2004, ngay sau khi Hiệp định khung về Hợp tác Kinh
tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc được ký kết. Phạm vi của EHP gồm các mặt hàng
nông sản chưa chế biến (gồm các chương từ 1 đến 8 trong biểu thuế nhập khẩu) với
lộ trình loại bỏ thuế quan trong 3 năm đối với các nước ASEAN-6 và Trung Quốc và
5 năm đối với Việt Nam bắt đầu từ năm 2004. Theo đó, từ ngày 1/1/2006, Trung Quốc
và ASEAN sẽ áp dụng thuế 0% cho tất cả mặt hàng trong EHP. Việt Nam bắt đầu áp

dụng mức thuế 0% từ 1/1/2008.
b) Danh mục giảm thuế thông thường
Danh mục giảm thuế thông thường (NT) bao gồm 90% tổng số dòng thuế với lộ
trình giảm thuế xuống 0% vào năm 2010 đối với ASEAN-6 và Trung Quốc; Việt Nam
có lộ trình dài hơn 5 năm, tức là đến năm 2015, ta mới phải hoàn thành nghĩa vụ này.
Cụ thể:
Bảng 4: Lộ trình giảm thuế theo NT của Việt Nam
c) Nội dung cam kết giảm thuế của Việt Nam trong ACFTA
Lộ trình cam kết giảm thuế của ta trong ACFTA tương đối nhất quán về phạm vi
Trang 18
và nguyên tắc cam kết trong các FTA khác mà Việt Nam tham gia. Ta cam kết loại bỏ
thuế quan có lộ trình đối với khoảng 90% số lượng dòng thuế. 10% số lượng dòng
thuế còn lại có lộ trình cam kết giảm thuế dài, thậm chí không có cam kết giảm thuế
xuống 0% (Bảng 5).
Bảng 5: Thuế suất trung bình (%) của Việt nam trong hiệp định ACFTA
2.2.4 Hiệp định ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA)
Về cắt giảm thuế quan, Hiệp định đề ra các lộ trình như sau:
- Lộ trình NT: (bao gồm 90% số dòng thuế và 90% kim ngạch thương mại -
riêng Việt Nam là 75% kim ngạch thương mại) Hàn Quốc hoàn thành vào
1/1/2010; ASEAN-6 hoàn thành vào 1/1/2012; Việt Nam hoàn thành vào
1/1/2018; Campuchia, Lào và Myanmar hoàn thành vào 1/1/2020.
Trang 19
- Lộ trình SL: ASEAN-6 và Hàn Quốc: xuống 0-5% vào 1/1/2016; Việt Nam:
xuống 0-5% vào 1/1/2021; Campuchia, Lào, Myanmar: xuống 0-5% vào
1/1/2024.
- Lộ trình HSL: ASEAN 6 và Hàn Quốc: bao gồm 200 dòng thuế ở cấp 6 chữ
số hoặc 3% tổng số dòng thuế ở cấp chữ số HS do từng quốc gia lựa chọn và
3% kim ngạch thương mại. CLMV: 200 dòng thuế ở cấp 6 chữ số hoặc 3% tổng
số dòng thuế ở cấp chữ số HS do từng quốc gia lựa chọn. Gồm 5 nhóm, cụ thể:
 Nhóm A: ASEAN 6 và Hàn Quốc: giảm xuống 50% vào 1/1/2016; Việt

Nam: giảm xuống 50% vào 1/1/2021; Campuchia, Lào, Myanmar: giảm
xuống 50% vào 1/1/2024.
 Nhóm B: ASEAN 6 và Hàn Quốc: cắt giảm 20% mức thuế suất (thuế suất
MFN tại thời điểm 1/1/2005) vào 1/1/2016; Việt Nam: cắt giảm 20% mức
thuế suất vào 1/1/2021; Campuchia, Lào, Myanmar: cắt giảm 20% mức thuế
suất vào 1/1/2024.
 Nhóm C: ASEAN 6 và Hàn Quốc: cắt giảm 50% mức thuế suất (thuế suất
MFN tại thời điểm 1/1/2005) vào 1/1/2016; Việt Nam: cắt giảm 50% mức
thuế suất vào 1/1/2021; Campuchia, Lào, Myanmar: cắt giảm 50% mức thuế
suất vào 1/1/2024.
 Nhóm D: Hạn ngạch thuế quan được thoả thuận song phương.
 Nhóm E: Loại trừ 40 dòng thuế HS 6 số không thực hiện cắt giảm và loại bỏ
thuế quan.
Bảng 6: Thuế suất trung bình (%) của Việt Nam trong hiệp định AKFTA
Trang 20
2.2.5 Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP)
ASEAN và Nhật Bản đã đàm phán và ký kết Hiệp định AJCEP vào ngày 1/4/2008,
hiệp định chính thức có hiệu lực từ ngày 1/12/2008. Về Lộ trình cắt giảm thuế quan cụ
thể, Hiệp định quy định:
- Danh mục NT: Nhật Bản: Gồm 92% số dòng thuế và giá trị thương mại, trong
đó 88% số dòng thuế đạt 0% vào năm 2007 và 90% số dòng thuế đạt 0% vào
2013. ASEAN-6: 90% số dòng thuế đạt 0% vào 2013, căn cứ vào cam
kết EPA song phương. Việt Nam: 90% số dòng thuế đạt 0% trong 15 năm
(2023).
- Danh mục SL: Thuế cuối cùng 5% vào 2018 (xác định theo các cam kết EPA
song phương).
- Danh mục HSL: Thuế cuối cùng 50% (xác định theo các cam kết EPA
song phương).
2.2.6 Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN - Australia - New Zealand
Nội dung chính của Hiệp định AANZFTA về cắt giảm thuế quan theo Hiệp định

này là:
Trang 21
- Về phía Việt Nam: 90% thuế quan xóa bỏ vào 2018-2020 theo Lộ trình NT; 7%
tổng số dòng thuế theo lộ trình nhạy cảm, trong đó thuế suất theo Danh
mục SL giảm xuống 5% vào 2022, và theo danh mục HSL giảm xuống 7-50%
vào 2022. Danh mục loại trừ bao gồm 3% tổng số dòng thuế.
- Về phía Australia, New Zealand và ASEAN-6: 90% số dòng thuế về 0% vào
năm 2015, linh hoạt đến 2020.
Bảng 7: Cam kết thuế nhập khẩu (%) của Việt Nam đối với các mặt hàng nhập
khẩu chính
2.2.7 Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ (AITIG)
Bảng 18: Thuế suất trung bình (%) của Việt Nam trong hiệp định AITIG
Trang 22
Danh mục NT của Việt Nam gồm 80% số dòng thuế sẽ giảm xuống 0% ngày
31/12/2017. Trong đó, 9% tổng số dòng thuế sẽ được linh hoạt giảm xuống 0% từ
31/12/2020 (NT2).
2.2.8 Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA)
Là hiệp định mậu dịch tự do song phương đầu tiên mà Việt Nam ký kết, VJEPA là
hiệp định toàn diện bao gồm các quy định về thương mại hàng hoá, thương mại dịch
vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ và các lĩnh vực hợp tác kinh
tế khác, được ký tháng 12/2008, có hiệu lực từ ngày 1/10/2009. Về mức cam kết
chung, ta đồng ý tự do hóa đối với 87,66% kim ngạch thương mại trong vòng 10
năm. Theo đó, ta đưa vào lộ trình cắt giảm đối với 8.873 dòng trong tổng số 9.390
dòng thuế của Biểu cam kết (trừ 57 dòng CKD ô tô và 428 dòng không cắt giảm). Cụ
thể, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, ta cam kết xóa bỏ thuế quan đối với 2.586 dòng
Trang 23
thuế (28% Biểu cam kết 9.390 dòng), chủ yếu là các mặt hàng hoá chất dược
phẩm, máy móc điện tử. Sau 10 năm thực hiện Hiệp định (năm 2019), có thêm
3.717 mặt hàng được xoá bỏ thuế quan, nâng tổng số mặt hàng của cả Biểu được xoá
bỏ thuế quan lên 6.303 chiếm 67% số dòng thuế của Biểu cam kết.

Bảng 11: Thuế suất trung bình (%) của Việt Nam trong hiệp định VJEPA
Trang 24
Hình 1: Tốc độ cắt giảm thuế của Việt Nam trong một số FTA tiêu biểu
2.3. Chính sách thương mại của Việt Nam ngày càng tạo điều kiện thuận
lợi cho thương mại quốc tế phát triển
2.3.1 Giai đoạn 2001 - 2005
Trong giai đoạn 2001-2005, hoạt động xuất nhập khẩu được quản lý theo quy định
tại Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-
2005.
Về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu:
Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đã dần dần được mở rộng.
Nghị định số 44/2001/NĐ-CP năm 2001 cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế được quyền xuất khẩu tất cả hàng hóa, không phụ thuộc ngành nghề, ngành
hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa thuộc danh mục
cấm xuất khẩu. Đây là một bước tiến mới so với Nghị định số 57/1998 trước đó.
Về chính sách thuế quan:
Trong giai đoạn 2001-2005, đối với các nước có hiệp định thương mại với nước ta,
hàng hóa nhập khẩu từ các nước này đều được hưởng mức thuế suất nhập khẩu MFN.
Mức thuế suất này được điều chỉnh liên tục. Tuy nhiên, khác với các dòng thuế được
ban hành nhằm thực thi các cam kết CEPT-AFTA, ACFTA và AKFTA, mức thuế này
thay đổi theo những chiều hướng khác nhau. Mức thuế suất MFN trung bình của tất cả
các dòng thuế đã tăng dần từ 16,25% năm 2001 lên gần 16,5% năm 2002 và lên trên
18,5% năm 2003. Diễn biến tăng này chủ yếu là do nước ta đã thuế quan hóa nhiều
công cụ phi thuế quan khác (tức là áp dụng các rào cản thuế quan để thay thế các rào
cản phi thuế quan đối với nhập khẩu của một số mặt hàng). Thêm vào đó, nhiều dòng
thuế cũng được ban hành mới, điều chỉnh tăng để hạn chế thương mại và/hoặc tạo dư
địa cho đàm phán cắt giảm thuế quan. Trong các năm tiếp theo đó, thuế suất MFN
trung bình đã giảm liên tục xuống còn gần 17,6% năm 2006. Tuy nhiên, không phải
mức thuế trung bình của mọi nhóm hàng phân theo HS đều tăng và giảm như trên.
Trên thực tế, thuế suất nhập khẩu đối với nhiều nhóm hàng phân theo hệ thống HS

thậm chí còn giảm liên tục.
Trang 25

×