Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Kinh tế brunei

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.15 KB, 30 trang )

Mục lục
I. Giới thiệu chung………………………………………………………………2
1. Các thông tin cơ bản……………………………………………………….2
2. Dân số…………………………………………………………………… 3
3. Thể chế chính trị………………………………………………………… 3
4. Lịch sử phát triển………………………………………………………… 4
5. Đặc điểm xã hội……………………………………………………………4
6. Văn hóa…………………………………………………………………….4
7. Du lịch…………………………………………………………………… 5
II. Tổng quát nền kinh tế Brunei…………………………………………………10
III. Các chính sách phát triển của Brunei…………………………………………12
1. Chính sách đối ngoại…………………………………………………… 12
2. Chính sách thương mại quốc tế………………………………………… 12
A – Xuất khẩu…………………………………………………………… 14
B – Nhập khẩu…………………………………………………………….17
C – Brunei trong QHTM với 1 số nước trong khu vực và trên TG……….18
D – Brunei trong QHTM với Việt Nam………………………………… 18
3. Chính sách đầu tư…………………………………………………………19
A – Thu hút FDI………………………………………………………… 20
B – Đầu tư trong nước…………………………………………………….21
C – Đầu tư ra nước ngoài………………………………………………….22
D – Quan hệ Brunei – Việt Nam………………………………………….22
4. Chính sách tỷ giá, lãi suất…………………………………………………23
A – Tỷ giá…………………………………………………………………23
B – Lãi suất……………………………………………………………….25
5. Chính sách khoa học – giáo dục – công nghệ…………………………… 25
A – Khoa học, giáo dục………………………………………………… 25
B – Công nghệ, kỹ thuật………………………………………………… 26
IV. Xu hướng phát triển quan hệ giữa Việt Nam – Brunei……………………….27
V. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam………………………………………… 28
VI. Văn hóa kinh doanh ở Brunei…………………………………………………29


VII. Kết luận……………………………………………………………………….30
1

Kinh tế Brunei
I. Giới thiệu chung:
1. Các thông tin cơ bản:
- Tên nước: Brunei Darussalam (Theo ngôn ngữ Malay, “Brunei Darussalam” có
nghĩa là Xứ sở hoà bình: The Abode of Peace).
- Ngày quốc khánh: 23/2/1984.
- Thủ đô: Ban-đa Xê-ri Bê-ga-oan (Bandar Seri Begawan).
- Vị trí địa lý: Phía Bắc trông ra Biển Đông; ba mặt còn lại có chung biên giới
với phía Đông Malaysia. Nằm trên bờ biển Tây Bắc của quần đảo Kalimantan
hoặc Borneo thuộc vùng Đông Nam châu Á, giữa kinh độ 1140, 23’ vĩ độ 40 –
50 5’, thuộc phía Nam biển Đông, cắt đôi đoạn đường biển từ Malaysia đến
Philippines.

Brunei bị chia cắt làm đôi bởi một dải đất toàn rừng già thuộc chủ quyền
của Malaysia. Phần phía Đông chỉ có duy nhất một quận: Temburong (nằm lọt
trong bang Sarawak của Malaysia); trong khi phía Tây bao gồm các
quận: Muara, Tutong, Belait và thủ đô Bandar Seri Begawan.
- Diện tích đất liền: 5.765 km2, trong đó 70% là rừng, bờ biển dài 161 km, diện
tích đất liền là 5.264 km2.
- Khí hậu : Nhiệt đới, nóng, ẩm, chỉ có hai mùa mưa và khô. Nhiệt độ trung bình
từ 24 – 32 độ C, độ ẩm không khí cao, dao động từ 70-100%. Mùa mưa ở
2
Brunei kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1, mùa khô từ tháng 2đến tháng 8. Lượng
mưa trung bình hàng năm là khoảng 2500mm ở khu vực ven biển và 4000mm
trên các ngọn đồi bao phủ bởi rừng rậm. Brunei là quốc gia không phải hứng
chịu các thiên tai nghiêm trọng như bão, động đất, lụt lội…
- Tài nguyên (cũng là lợi thế về kinh tế): dầu mỏ, khí tự nhiên. Trữ lượng

dầu của Brunei đã được chứng minh vàokhoảng 1.1 tỉ thùng vào năm 2009.
Bên cạnh đó, tài nguyên rừng cũng là một thế mạnh của Brunei. Đất nước
Brunei có những thảm xanh trải đều khắp, là lá phổi xanh che chắn làm cho đất
nước nhiệt đới này tuy nóng nhưng không ngột ngạt vàoi bức vì bụi và
ô nhiễm. Ở Brunei có những khu rừng nguyên sinh chưa hề bị bàntay con
người tác động tới như rừng quốc gia Ulu Temburong.
2. Dân số:
- Số dân: 408,786 người. (tháng 1/2013)
- Tuổi trung bình: 28,4 tuổi.
- Thành phần: người Malai chiếm 66,3%, người Hoa 11,2%, các dân tộc khác
chiếm 22,5%.
- Ngôn ngữ chính là tiếng Malay (chính thức), tiếng Anh và tiếng Trung Quốc
được sử dụng rộng rãi.
- Tôn giáo: Đạo hồi 67%, Phật giáo 13%,

Thiên chúa 10% và các đạo khác
10%.
3. Thể chế chính trị:
- Chính thể Quân chủ Hồi giáo lập hiến. Mọi quyền hành đều nằm trong tay
Quốc vương và gia đình hoàng tộc, có quyền tuyên bố tình trạng khẩn cấp và
sửa đổi luật pháp, kể cả hiến pháp. Quốc vương vừa là nguyên thủ quốc gia
đồng thời ông cũng kiêm luôn chức Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ
Tài chính và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang.
- Hiến pháp Ban hành ngày 19-9-1959, được sửa đổi năm 1984.
- Khu vực hành chính 4 quận: Belait; Brunei và Muara; Temburong; Tutong.
Mỗi khu của một quận được gọi là Mukim.
- Bộ máy giúp Quốc vương cai quản đất nưước có 5 Hội đồng do Quốc vưương
chỉ định:
+ Hội đồng Bộ trưởng (nội các) có 11 Bộ trưởng và 7 Thứ trưởng, trong đó, Bộ
trưởng Ngoại giao là em trai Quốc vưương.

+ Hội đồng xét xử
+ Hội đồng Lập pháp
+ Hội đồng truyền ngôi quyết định về việc kế vị ngôi vua.
+ Hội đồng tôn giáo
3
- Các đảng phái chính trị: Ở Brunei chỉ có một Đảng quốc gia thống nhất -
National Development Party – NDP.
4. Lịch sử phát triển:
- Vào thế kỷ VI, Brunei là một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á. Từ năm
1888, Brunei chịu sự bảo hộ của Anh. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai,
Brunei bị Nhật chiếm đóng (1941-1945).
- Năm 1946, Anh quay lại chiếm Brunei. Trước áp lực của phong trào giải phóng
dân tộc, Anh buộc phải để cho Brunei có Hiến pháp riêng vào năm 1959.
- Ngày 1-1-1984, Brunei chính thức tuyên bố là quốc gia độc lập nằm trong khối
Liên hiệp Anh. Hiện Hoàng tộc Brunei đã ngự trị ở nước này hơn 6 thế kỉ.
5. Đặc điểm xã hội:
- Tiền tệ: Bruneian dollar (BND).
- Chế độ vợ chồng: Vì là Vương quốc Hồi giáo nên luật pháp Brunei cho phép
tồn tại chế độ đa thê tức đàn ông có thể có tới 4 vợ.
- Giáo dục: Nền giáo dục Brunei được chính phủ trợ cấp từ cấp học thấp nhất
đến cao nhất, cả trong và ngoài nước. Giáo dục tiểu học và trung học được dạy
bằng ba thứ tiếng: Mã lai, Hoa và Anh. Trường đại học Brunei ở thủ đô
Bandar Sen Begawan là trường có hệ thống giáo dục tiên tiến. Mặc dù cả nước
chỉ có 2 trường đại học (trong đó có một đại học Hồi giáo) và 2 viện nghiên
cứu sau đại học nhưng chỉ số HDI của Brunei ở thứ hạng khá cao là 33 (2011).
- Chính phủ Bru-nây đã thực hiện một số phúc lợi xã hội như công dân không
phải đóng thuế thu nhập; giáo dục, chữa bệnh, ma chay không mất tiền; cấp
học bổng cho học sinh giỏi được đi học ở nước ngoài; cho nhân dân vay tiền
với lãi suất thấp để kinh doanh, sản xuất hay mua nhà ở với giá rẻ.
6. Văn hóa:

- Những đất nước mà văn hóa Brunei có ảnh hưởng lớn là Malaysia và
Indonesia. Hai đất nước này gần gũi với Brunei về địa lý cũng như về lịch sử
hình thành. Cho nên việc Brunei chịu ảnh hưởng khá nhiều về văn hóa hai đất
nước này cũng là điều dễ hiểu.
- Cuộc sống sinh hoạt từ ngàn xưa cho đến nay của Brunei chịu ảnh hưởng của
văn hóa tôn giáo Hồi giáo và Ấn Độ giáo. Do Hồi giáo là quốc giáo nên hàng
năm tại Brunei vẫn diễn ra nhiều lễ hội mang đậm màu sắc Hồi giáo như tháng
chay Ramadhan, lễ hội Hari Raya Aidilfitri…, nhiều công trình kiến trúc mang
đậm nét văn hóa Hồi giáo như những ngôi thánh đường có kiến trúc đặc trưng
với màu trắng cẩm thạch và mái hình chóp dát vàng lộng lẫy.
7. Du lịch:
4
- Brunei đã thu hút 209,000 khách du lịch tới đất nước vào năm 2011. Trong
đó khách du lịch từ các quốc gia thành viên ASEAN chiếm hơn 50%;
khách Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản chiếm 17,2%.
- Brunei đặt mục tiêu tăng 15% lượng khách du lịch vào năm 2012; và đạt trên
400,000 khách du lịch vào năm 2016. (theo news.brunei.fm)
• Các đặc điểm nổi bật ở Brunei:
- Là một tiểu vương quốc Hồi giáo nằm bên bờ Tây Bắc đảo Borneom, không
chỉ nổi tiếng về nguồn tài nguyên dầu mỏ, Brunei còn được biết đến là quốc
gia của các cung điện xa hoa tráng lệ, đền đài cổ với kiến trúc truyền thống và
hiện đại, những thánh đường lộng lẫy và cả những lễ hội tưng bừng của người
Hồi giáo. Các Thánh đường của Vương quốc Hồi giáo, được mệnh danh là
một trong những Thánh đường lớn nhất trên thế giới như: Jame’ Asr Hassanal
Bolkiah Mosque, Omar Ali Saifuddien Mosque.
Jame' Asr Hassanal Bolkiah Mosque - nhà thờ Hồi giáo lớn nhất ở Brunei.
5
Thánh đường Hồi giáo Sultan Omar Ali Saifuddien ở thủ đô Brunei
- Một trong những ấn tượng đầu tiên ở Brunei là giao thông. Phương tiện di
chuyển thông dụng ở Brunei là ôtô. Mỗi gia đình đều sở hữu vài chiếc xe hơi

nên xe buýt chỉ dành cho các khách sạn. Số xe hơi của Brunei còn nhiều hơn cả
dân số của đất nước. Taxi thì cả nước có khoảng 250 chiếc. Nói chung phương
tiện giao thông công cộng kém phát triển. Brunei ẩn chứa một lối sống không
vội vã, con người dịu dàng, dễ mến và yêu hòa bình. Thủ đô Bandar Seri
Begawan có lẽ là thủ đô đáng yêu nhất ở Đông Nam Á với không khí thoáng
đãng, xanh mát, không hề chịu sự tác động bởi những đám đông, nạn kẹt xe, ô
nhiễm, sự ồn ào như những thủ đô trong khu vực.
- Brunei là nơi có khu vực bảo tồn rừng nhiệt đới tốt nhất trên đảo Borneo. Vườn
quốc gia phủ kín 70% diện tích của đất nước. Chỉ nơi đây mới có thể nhìn thấy
những loài cây rất nổi tiếng như cây thạch nam và những đầm lầy bùn non đặc
trưng không thể tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Khu rừng nguyên sinh
này còn là vương quốc của loài khỉ mũi dài (tiếng Anh là Proboscis Monkey)
với số lượng đông nhất thế giới.
Du khách không cần phải ra khỏi thành phố mới có thể thăm các khu bảo tồn
rừng nổi tiếng vì ở ngay giữa thủ đô Bandar Seri Begawan đã có Công viên
Tasek Lama với những dòng thác và hồ tự nhiên ở giữa không gian như trong
rừng già. Với những người thích tắm nắng thì bãi biển Muara ở phía Bắc, bãi
Pantai Seri Kenangan ở Tutong hoặc bãi Tungku nằm giữa Muara và Tutong
đều khá lý tưởng.
6
- Một trong những điểm “phải đến”, “phải thăm” khi bạn đến với Brunei chính
là làng nổi Kampong Ayer. Làng nổi lớn nhất trên thế giới này được xem
là biểu tượng của lịch sử, văn hóa và sự phát triển của đất nước Brunei. Tất cả
các ngôi nhà và các công trình công cộng trong làng đều được xây dựng bằng
gỗ Mangrove, một trong những loại gỗ đặc biệt trên đảo Boneo. Các ngôi nhà
trong làng cũng như giữa các làng với nhau được nối kết chặt chẽ bởi hệ thống
các đường đi bằng gỗ, gọi là “jembatan”. Ước tính có đến gần 50km đường
bằng gỗ nối kết trong làng và giữa các làng.

Ngôi làng nước nổi Kampong Ayer lớn nhất thế giới

- Quốc vương Brunei: Hassanal Bolkiah - quốc vương thứ 29 của Brunei. Khi
nói đến vị quốc vương này người ta đã nghĩ đến ngay sự giàu có. Trong nhiều
năm liền, Hassanal Bolkiah được ghi nhận là người đàn ông giàu nhất thế giới
với số tài sản khổng lồ ước tính lên đến gần 27 tỷ USD nhờ quyền năng trên
khắp quốc gia và nguồn dầu mỏ dồi dào của đất nước. Không chỉ có thế, ông ta
còn nổi tiếng về bộ sưu tập xe vĩ đại mà bất cứ dân mê xe nào cũng phải thèm
muốn. Bộ sưu tập trị giá 6 tỉ USD với 6000 chiếc xe, đây được đánh giá là bộ
sưu tập xe khủng nhất thế giới, bao gồm đủ loại từ những chiếc xe đẹp nhất,
nhanh nhất, đắt nhất, quý hiếm nhất đến những chiếc xe độc nhất vô nhị trên
7
thế giới. Ngoài ra quốc vương Brunei còn sở hữu 1 máy bay Boeing 747-400
nội thất được mạ vàng, 6 máy bay du lịch và 2 máy bay trực thăng. Quốc
vương Hassanal từng tặng một chiếc Airbus cho con gái nhân dịp sinh nhật lần
thứ mười tám của cô. Ông cũng từng yêu cầu ngôi sao ca nhạc Michael
Jackson hát vào ngày sinh nhật thứ 50 của mình, tiệc sinh nhật lần thứ 60 của
ông gồm hơn 10.000 khách. Đất đai mà quốc vương sở hữu ở Australia lớn
hơn cả Brunei, vốn có diện tích 5.270 km2.

Quốc vương Hassanal Bolkiah Hoàng thân Jefri Bolkiah
- Hoàng thân Jefri Bolkiah – em trai Quốc vương: Jefri được mệnh danh là
Hoàng thân tay chơi với tài năng phá của “phi phàm”. Trong hơn 10 năm liền,
Jefri “chỉ tiêu” 700.000 USD mỗi ngày. Riêng về phương tiện đi lại, ông đã
sắm 2.300 xe hơi, chủ yếu là các siêu xe bậc nhất thế giới như Bentley, Ferrari
và Rolls-Royce. Số máy bay riêng mà Hoàng thân “tự thưởng” cho mình là 8
chiếc, bao gồm cả một chiếc Boeing 747. Đó là chưa kể 5 chiếc du thuyền,
trong đó có một chiếc là siêu du thuyền.
Vị Hoàng thân này còn nổi tiếng bởi việc mua kim cương như mua rau ở chợ.
Trong số tài sản mà ông phải nộp lại cho nhà nước Brunei sau khi phát hiện
việc ăn chơi vô độ có năm viên kim cương, mỗi viên trị giá khoảng 200 triệu
USD. Về bất động sản, ông hoàng Jefri có thú vui sưu tập các khách sạn… 5

sao trên toàn thế giới, đặc biệt là ở New York, Paris, London… Và như một
phần tất yếu, ông phải trang hoàng cho những phòng ốc yêu quý của mình với
7 triệu USD tiền mua thảm dát vàng.
- Hoàng cung Istana Nurul Iman: Thủ phủ của Brunei là Bandar Seri Begawan
– nơi tự hào với công trình kiến trúc độc đáo. Hoàng cung Istana Nurul Iman
có 1.788 phòng, 257 phòng tắm, 5 hồ bơi, một chuồng ngựa có máy điều hòa
nhiệt độ cho 200 chú ngựa Pony, một gara chứa 110 chiếc xe, một phòng ăn
chứa đến 5.000 khách và một nhà thờ có sức chứa 1.500 người. Mái vòm làm
8
bằng vàng do kiến trúc sư Leandro V. Locsin thiết kế theo kiểu Hồi giáo
Malaysia. Sàn cung điện được lát bằng đá cẩm thạch nhập từ 38 nước trên thế
giới. Cung điện này được xây dựng vào năm 1984 với chi phí khoảng 400 triệu
USD. Mỗi năm một lần, vào dịp lễ Hari Raya Aidifitri, vua Brunei sẽ mở cửa
cung điện để cùng hoàng thất chào đón du khách và người dân.
Cung điện Istana Nurul Iman
- Ẩm thực là một tấm gương phản chiếu văn hóa phong phú của Brunei. Người
Brunei có vô số các nhà hàng đặc sản của riêng họ và cũng không thiếu những
nơi phục vụ đặc sản của các nước khác như Nhật, Ấn, Ả Rập, Ý Một điểm
đến không thể bỏ qua khi du lịch Brunei là chợ đêm - nơi chuyên phục vụ
những người sành về ẩm thực với rất nhiều các món ăn đặc trưng của địa
phương.
Từ rừng sâu cho đến thành thị, những giá trị phong phú của văn hóa Brunei đã
thật sự tạo nên một vương quốc Brunei đầy hấp dẫn.
9
II. Tổng quát nền kinh tế Brunei:
- Trước năm 1929, Brunei còn rất nghèo nàn, lạc hậu. Kinh tế chủ yếu dựa vào
nguồn cao su nhỏ bé với sản lượng thấp. Từ năm 1929, việc phát hiện ra dầu
mỏ và khí đốt đã đem lại sự giàu có cho đất nước này. Khai thác dầu bắt đầu từ
năm 1963 và đến nay chiếm phần lớn sản lượng dầu của Brunei. Hiện nay dầu
hỏa và khí đốt chiếm 80% tổng thu nhập trong nước và 90% thu nhập xuất

khẩu và đóng góp 39% GDP của đất nước nhưng chỉ sử dụng 3% lực lượng lao
động. Brunei là nước sản xuất dầu mỏ lớn thứ ba ở Đông Nam Á, sau
Indonesia và Malaysia với trung bình 180.000 thùng (29.000 m³) mỗi ngày. Brunei
còn là nước sản xuất khí đốt hóa lỏng lớn thứ tư trên thế giới.
- Brunei có nền kinh tế nhỏ nhưng khá thịnh vượng. GDP đầu người của Brunei
cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á nói riêng (đứng sau
Singapore) và thế giới thứ ba nói chung (31,000 USD ở thời điểm 2008; năm
2011 Brunei đạt 49,000 USD/người và đứng thứ 8 trên thế giới). Trong năm
2009 GDP của Brunei chỉ đạt -1,8%, tuy nhiên đến năm 2010 và 2011 Brunei
đã đạt mức tăng trưởng lần lượt là 2,55% và 2,97%. Với nguồn thu nhập rất
lớn từ xuất khẩu dầu khí và dân số rất ít, chính phủ Brunei có điều kiện thực
hiện một số chính sách phúc lợi xã hội cao cho người dân.
- Tuy nhiên, nền kinh tế Brunei vẫn còn tồn tại một số đặc tính như: thị trường
nhỏ bé; bộ máy hành chính lại trì trệ, quan liêu; bộ phận kinh tế tư nhân ở
Brunei so với các nước ASEAN khác lại khá nhỏ bé, yếu kém và thụ động
(95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ). Về thương mại, Brunei là nước từ lâu nay
đã phải nhập khẩu hầu hết các loại hàng hóa, đặc biệt là máy móc và lương
thực thực phẩm, phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu dầu khí đã gây áp lực lớn
đến sự phát triển bền vững của Brunei.
- Để thúc đẩy phát triển kinh tế, Nhà nước Brunei đã thực hiện các kế hoạch 5
năm như kế hoạch 5 năm lần thứ 6, Kế hoạch phát triển quốc gia lần thứ 8 ,
trong đó năm 2002, ưu tiên dành cho quỹ phát triển trị giá 1 tỷ Đô la Brunei,
với nhiệm vụ cấp bách là đa dạng hóa nền kinh tế, phát triển các ngành công
nghiệp mới hướng vào xuất khẩu, nhằm thoát khỏi sự phụ thuộc vào công
nghiệp dầu mỏ; tăng cường sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, phát
triển công nghiệp dịch vụ, du lịch, tài chính, đồng thời tìm cách khôi phục sản
xuất nông nghiệp ,nhằm biến đất nước thành trung tâm dịch vụ, thương mại
và du lịch của khu vực.
- Các chỉ số kinh tế:
Bảng 1: Các chỉ số kinh tế của Brunei 2010 – 2012:

10
2010 2011 2012
GDP (ppp)
(tỷ USD)
20,5 21,11 21,94
(tăng 3,9%)
GDP (OER)
(tỷ USD)
13,02 15,6 16,85
(tăng 8%)
Tăng trưởng
GDP (%)
2,55 2,97 2,6
GDP/người
(USD)
49.300 49.600 50.500
(tăng 22,2%)
Tỷ lệ lạm phát
(%)
2,7 1,8
2012
Lực lượng lao động 198.800 người
Phân bổ lao động Nông nghiệp: 4,2%; Công nghiệp: 62,8%
Dịch vụ: 33%
Tỉ lệ thất nghiệp 3,7%
Mặt hàng nông
nghiệp
Gạo, rau quả, gà, trâu nước, gia súc, dê, trứng
Các ngành công
nghiệp

Dầu mỏ, khí đốt, xây dựng
GDP theo ngành Nông nghiệp: 0,8% Công nghiệp: 66,6%
Dịch vụ: 32,6%
Nguồn: Hồ sơ thị trường Brunei – VCCI (Cập nhật tháng 1/2013)
III. Các chính sách phát triển của Brunei:
1. Chính sách đối ngoại:
- Trước độc lập, chính sách đối ngoại của Brunei phụ thuộc vào Anh. Từ khi
giành được độc lập năm 1984, ngoài việc là thành viên khối Thịnh vượng
11
32,6%
66,6%
0,8%
chung và Tổ chức Hồi giáo, Brunei đã trở thành thành viên Liên hợp quốc,
ASEAN và APEC. Từ 1993, Brunei tham gia Phong trào Không Liên kết.
- Phương châm chủ đạo trong quan hệ đối ngoại của Bru-nây là “bạn với tất cả,
không là thù của ai” (Friend to all and Enemy to none). Chính sách đối ngoại
của Bru-nây dựa trên các nguyên tắc sau:
+ Tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, độc lập và bản sắc dân tộc của tất cả
các nước.
+ Công nhận sự bình đẳng giữa các quốc gia lớn, nhỏ.
+ Không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác.
+ Dùng giải pháp hòa bình cho mọi tranh chấp.
+ Hợp tác cùng có lợi.
- Brunei là thành viên của các tổ chức: ADB, APEC, APT, APEC-RWG, APDC,
ASEAN, BIMP-EAGA, Commonwealth, ESCAP, GATT/WTO, GP77, ICAO,
IMO, ITU, IMF, ISESCO, NAM, OIC, PECC, SEAMEO, UN, UNTCAD,
UNDP, UPU, WHO, WIPO, WMO, WTO-GBT.
 Quan hệ ngoại giao với Việt Nam:
Brunei thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 29/02/1992. Quan hệ hữu nghị và
hợp tác nhiều mặt giữa hai nước phát triển tốt đẹp nhất là trên lĩnh vực chính trị.

2. Chính sách thương mại quốc tế:
Cho đến nay nền kinh tế Brunei đã trải qua 2 giai đoạn phát triển cơ bản. Giai
đoạn trước năm 1984, nền kinh tế nằm dưới sự bảo hộ của Anh quốc và từ năm 1984 đến
nay nền kinh tế phát triển độc lập. Trong quá trình phát triển kinh tế Brunei chủ trương
phát động khai thác dầu, khí đốt và coi đó là ngành then chốt của nền kinh tế, đồng thời
mở rộng hoạt động ngoại thương đầu tư tư bản ra nước ngoài, phát triển nông nghiệp…
Do đó đã thu được một số thành tựu lớn.
Sự thành công này của Brunei không phải do điều kiện bên ngoài thuận lợi. Điều
đáng nói ở đây là Brunei đã đặt nền móng cho sự phát triển thông qua các chính sách
kinh tế vĩ mô, trong đó chính sách kinh tế đối ngoại mà cụ thể là chính sách thương mại
góp phần to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế Brunei. Quá trình công nghiệp hóa giai
đoạn đầu là thay thế nhập siêu sau đó chuyển sang định hướng xuất khẩu, chính là cơ sở
đê nước này chuyển từ chỗ thương mại được bảo vệ nặng nề sang chế độ thương mại tự
do hơn. Nhờ đó mà Brunei đã đạt được “sự thần kỳ” trong phát triển kinh tế và được
nhiều nước châu Á noi theo.
Trụ cột chính của chính sách thương mại quốc tế của Brunei:
• Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cung cấp khuôn khổ ổn định về các quy tắc
thương mại đa phương để đảm bảo dòng chảy tự do của hàng hóa và dịch vụ.
12
• Tham gia vào các diễn đàn kinh tế khu vực dựa trên khái niệm "chủ nghĩa khu
vực mở" (open regionalism) (điểm cốt lõi của nguyên tắc này là thể hiện sự
không phân biệt đối xử giữa các nền kinh tế).
• Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với các đối tác thương mại quan trọng có thể
giúp tạo điều kiện thuận lợi cho tự do hóa thương mại và tăng cường liên kết
thương mại.
Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế:
• Thực hiện thương mại tự do và mở cửa trong bối cảnh các quy tắc thương mại đa
phương.
• Hỗ trợ cho một hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ, tự do và không
phân biệt đối xử.

• Coi "chủ nghĩa khu vực mở" như là một khối xây dựng theo hướng tự do hóa
thương mại đa phương.
Brunei coi Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) như là một phần quan trọng của
chính sách thương mại quốc tế để tối đa hóa tiềm năng của thương mại tự do và mở cửa
cho người dân trong một thế giới toàn cầu hóa. Với một chế độ thương mại tương đối tự
do và cởi mở, cũng như một lực lượng lao động nhỏ nhưng có học vấn cao, Brunei cho
rằng tham gia FTA như là một bước quan trọng trong việc đảm bảo rằng người, hàng
hoá, dịch vụ và đầu tư của nước này có thể tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn trên toàn
thế giới. Brunei phần lớn được nhìn thấy trong cộng đồng quốc tế như là một nhà sản
xuất dầu mỏ và khí đốt, hiện đang tiến hành một số dự án trong một nỗ lực để tiếp tục đa
dạng hóa nền kinh tế của mình. Về vấn đề này, Chính phủ Brunei mạnh mẽ tin rằng tham
gia hoạt động của FTA với một số đối tác quan trọng chiến lược sẽ mở lên các thị trường
cho xuất khẩu và dịch vụ của Brunei cũng như giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng
chảy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước này.
Bước đầu thực hiện AFTA (ASEAN Free Trade Area) đã được Brunei hoan nghênh, vì
theo như các nguồn tin chính thức của nước này thì AFTA có lợi cho chính sách đa dạng
hóa nền kinh tế Brunei do họ có thể tăng được khối lượng xuất khẩu của mình đối với thị
trường trong khối ASEAN dễ dàng hơn so với việc thâm nhập các thị trường EC
(European Community) hoặc NAFTA (North American Free Trade Agreement).
Chế độ thương mại của Brunei là chế độ tự do, trong đó 80% toàn bộ dòng thuế quan
có thuế suất bằng 0, và chỉ có một số ít biện pháp phi quan thuế nhưng cũng đều nhất quán với
WTO. Brunei áp dụng các mức thuế suất từ 0 đến 30% với một số sản phẩm đặc biệt như
nước hoa. Chính phủ nước này cũng áp dụng hệ thống thuế quan một cột. Thuế quan
được xác định tùy theo các sản phẩm cụ thể, hoặc giá trị của sản phẩm. Phần lớn thực
phẩm, nước uống không có cồn, và máy móc công nghiệp được miễn thuế nhập khẩu.
13
Quần áo, đồng hồ, trang sức đều bị đánh thuế 10%. Ô tô và bộ phận ô tô, thiết bị điện tử,
nguyên vật liệu ảnh, gỗ, đồ gỗ bị đánh thuế 20%. Mỹ phẩm và nước hoa bị đánh thuế
30%. Các mức thuế trên sẽ dần được hủy bỏ theo Thỏa Thuận về Quan Hệ Đối Tác
Kinh Tế Chiến Lược Liên Thái Bình Dương mới được ký kết (thuế quan sẽ hoàn toàn

được hủy bỏ vào năm 2015). Brunei gia nhập ASEAN vào năm 1984; từ đó cho đến nay
đã giảm nhiều rào cản thương mại đối với các nước thành viên. Thuế tiêu thụ đặc biệt
đánh vào một số sản phẩm. Các vật liệu đóng gói và sản phẩm đựng hàng được miễn thuế khi
thuế được tính dựa theo trọng lượng.
Brunei ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế, thương mại song phương với một số đối
tác chính như Nhật, Trung Quốc, Anh, Singapore, Malaysia, Indonesia và một số nước
Hồi giáo ở Trung Đông. Ở cấp độ đa phương, Brunei dành ưu tiên phát triển quan hệ với
ASEAN, OIC và Khối thịnh vượng chung. Dưới đây là một số đặc điểm chính trong
chính sách thương mại của Brunei:
A – Xuất khẩu:
Nền kinh tế Brunei như đặc điểm của nó, giữ được sự phát triển ổn định phàn lớn là
nhờ các hoạt động ngoại thương, nhất là khu vực xuất khẩu. Brunei luôn có giá trị mậu
dịch thặng dư khổng lồ. Dự trữ hối đoái có giá trị 20 tỉ USD vào năm 1986, tương ứng
với mức 87.000 USD/người. Vào năm 1997 dự trữ hối đoái ước tính vào khoảng
40 tỉ USD.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Brunei năm 2008 là 13,28 tỷ USD trong đó kim
ngạch xuất khẩu là 10,67 tỷ USD. Nguồn xuất khẩu chính là dầu mỏ và khí đốt, hằng
năm chiếm trên 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của Brunei. Brunei là nước sản xuất dầu
mỏ lớn thứ 3 ở Đông Nam Á, sau Indonesia và Malaysia. Vào thời điểm năm 2008,
Brunei khai thác khoảng 170.000 – 200.000 thùng/ngày. Brunei cũng là nước sản xuất
khí đốt lỏng lớn thứ 4 thế giới (khoảng 27 – 30 triệu m3 khí đốt thiên nhiên mỗi ngày
năm 2008).
14
Nguồn: CIA World Factbook
Cán cân thương mại của Brunei luôn xuất siêu và ở mức thặng dư, lãi do hoạt động
đầu tư ngoại tệ ở nước ngoài đủ đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước.
Bảng 2: Brunei’s Trade with the World
( Millions of Euro)
Period Imports Exports Balance Trade
2007

1,594 5,212 3,618 6,806
2008
1,777 6,974 5,197 8,751
2009
1,808 4,658 2,851 6,466
2010
2,348 6,217 3,869 8,566
2011
4,544 8,243 3,699 12,787
Source: IMF (DoTS)
Đồ thị 2: Brunei’s Trade with the World (millions of Euro)
Bạn hàng xuất khẩu chính của Brunei là các nền kinh tế lớn trong khu vực và trên thế
giới như: Nhật Bản (45,2%), Hàn Quốc (15,9%), Úc (11,4%), Indonesia (8,1%), Ấn Độ
(5,7%) và Trung Quốc (4,4%) (Số liệu cập nhật tháng 1/2013). Dễ dàng nhận thấy Brunei
phụ thuộc xuất khẩu rất lớn vào Nhật Bản. Riêng mặt hàng khí đốt thiên nhiên của Brunei
thì đến gần 99% là xuất khẩu sang Nhật. Năm 2009, giá trị xuất khẩu của Brunei vào
Nhật Bản đã chiếm khoảng 28% GDP của nước này, đứng đầu trong danh sách các quốc
gia phụ thuộc xuất khẩu vào Nhật Bản.
15
Nguồn: Gafin.vn
Một vài mặt hàng xuất khẩu khác là hàng dệt may, sản phẩm thủ công và các hàng
nông lâm sản nổi tiếng từ lâu đời của đất nước này. Trong những năm gần đây, cuộc
khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Brunei.
Năm 2002, tốc độ phát triển kinh tế đạt 4%, một số ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng
đáng kể như công nghiệp dầu khí và công nghiệp dệt. Ngành công nghiệp dệt có kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 300 triệu Đô la Brunei với các sản phẩm dệt được xuất chủ yếu
sang các thị trường Mỹ, EU và Canada.
B – Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu của Brunei năm 2008 là 2,61 tỷ USD với các mặt hàng chính
là thành phẩm, khá lớn số lượng ô tô, các máy công cụ và hóa chất. Tính đến năm 1982

số máy công cụ nhập khẩu vào Brunei chiếm một tỷ lệ 2/5 tổng số hàng nhập khẩu.
Bên cạnh đó, GDP do nông nghiệp tạo ra chưa chiếm đến 1% nên Brunei phải nhập
khẩu khá lớn thực phẩm, thiết yếu phẩm. Khối lượng mặt hàng này chiếm khoảng 1/3 so
với tổng kim ngạch nhập khẩu. Ví dụ: hàng năm Brunei nhập khoảng 30 ngàn tấn gạo từ
Thái Lan; mặt hàng thịt bò Brunei phải nhập khẩu khoảng 60% tổng nhu cầu trong nước,
40% là có thể tự túc do có đồn điền Xinlleroo mua tại bắc Australia, về thịt gia cầm
Brunei có thể tự cung cấp được.
16
Bảng 3: Danh sách 10 mặt hàng nhập khẩu quan trọng nhất của Brunei (2003)
Mặt hàng Giá trị
(Triệu BND)
Máy móc và thiết bị giao thông vận tải 815,2
Hàng công nghiệp
(chủ yếu là nguyên vật liệu)
597,5
Thực phẩm và động vật sống 348,0
Các hàng nông nghiệp khác 264,0
Hóa chất 175,9
Đồ uống và thuốc lá 42,5
Nguyên vật liệu khác, trừ nhiên liệu 23,9
Nhiên liệu khoáng sản, chất bôi trơn 19,7
Dầu mỡ động thực vật 15,0
Các sản phẩm khác 0,4
(Nguồn: Chân dung kinh tế Brunei của HSBC)
Ngoài Anh là bạn hàng truyền thống lâu đời thì Mỹ, Nhật, Singapore, Malaysia, Ấn
Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc đều là những bạn hàng nhập khẩu lớn của Brunei . Trong
đó Brunei đã nhập khẩu từ Singapore khoảng 1/3 tổng kim nghạch nhập khẩu. Trong tổng
kim ngạch nhập khẩu thì có 30% là máy móc và phương tiện vận tải. Nhưng người ta
cũng không ngạc nhiên khi các mặt hàng xe máy, các công cụ gia dụng và các đồ điện tử
đều là của Nhật Bản đưa vào thông qua ngân hàng Dai I Chi Kang Yo ngay từ những năm

1960 đầu những năm 1970, khi MiSuBiSi là liên doanh với công ty hóa lỏng Brunei,
chiếm ưu thế trong quan hệ ngoại thương với nước này. Năm 2002, một số ngành kinh tế
có tốc độ tăng trưởng đáng kể như công nghiệp ô tô. Công nghiệp ô tô đã có nhiều biến
động sau khi được giảm thuế nhập khẩu từ 200% xuống còn 20%; Số lượng xe ô tô được
tiêu thụ tăng nhiều so với năm 2001.
C – Brunei trong quan hệ thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới:
Như đã giới thiệu, Brunei biết cách khéo léo điều hòa quan hệ ngoại giao với quan hệ
thương mại, và như thế không có gì lạ khi Brunei trở thành thành viên của ASEAN
(07/01/1984) thì nước này đã đẩy mạnh hơn nhiều mối quan hệ ngoại thương với các
nước đó. Như đã có từ những năm 1960, mối quan hệ buôn bán giữa Brunei và Singapore
lại phát triển nhiều hơn kể từ nửa cuối những năm 1980 cho đến nay. Tính riêng năm
1990, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên đã đạt 1,2 tỷ USD (tăng 15% so với
năm trước đó).
17
Có lẽ Brunei là một trong số rất ít nước có số dư trong cán cân thương mại với Nhật Bản.
Lấy năm 1987 làm ví dụ, Brunei đã xuất khẩu sang Nhật dầu thô và khí đốt thiên nhiên
đạt 2,873 tỷ USD. Trong khi đó Brunei chỉ nhập khẩu từ Nhật 194 triệu USD tổng giá trị
hàng hóa.
Nhưng dù thế nào thì Brunei cũng ngày càng thắt chặt quan hệ buôn bán với các nước
thuộc thành viên ASEAN mà một biểu hiện đó là thành lập Liên đoàn ASEAN. Liên đoàn
ASEAN được sự tài trợ của Quốc vương Brunei nhằm mục đích đảm bảo sự hợp tác chặt
chẽ trong tổ chức ASEAN với nhau, để đảm bảo yêu cầu về các mặt hàng nông sản, lâm
sản và thực phẩm cho nhân dân trong nước.
D – Brunei trong quan hệ thương mại với Việt Nam:
Quan hệ thương mại giữa 2 nước Brunei – Việt Nam đạt mức rất thấp, chưa tương
xứng với quan hệ chính trị tốt đẹp giữa 2 nước. Kim ngạch buôn bán 2 chiều của 2 nước
năm 1999 đạt 500,000 USD, năm 2000 đạt trên 2 triệu USD, năm 2005 đạt 4,5 triệu
USD. Đến năm 2012, kim ngạch buôn bán 2 chiều giữa Việt Nam và Brunei đã đạt trên
627,4 triệu USD.
BẢNG 4: Kim ngạch buôn bán giữa 2 nước hằng năm trong 5 năm qua

(Đơn vị tính: USD)
Năm Việt Nam xuất Việt Nam nhập Tổng kim ngạch Mức tăng(%)
2008 4,491,596 1,497,490 5,989,386
2009 7,689,674 1,645,674 9,335,548 55.87%
2010 10,006,281 14,235,233 24,241,515 259.66%
2011 15,362,291 189,178,063 204,540,354 743.76%
2012 16,870,870 610,550,067 627,421,537 206.75%
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Các mặt hàng xuất nhập khẩu chính năm 2012(USD) là gạo, thủy sản, sản phẩm từ sắt
thép, sản phẩm hóa chất, dầu thô, vải…
BẢNG 5: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Brunei năm 2012
Tổng kim ngạch: 16,870,870 USD
18
Mặt hàng Trị giá (USD)
Gạo 8,696,610
Hàng thủy sản 1,795,610
Sản phẩm từ sắt thép 266,113
Sản phẩm hóa chất 135,345
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
BẢNG 6: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Brunei năm 2012
Tổng kim ngạch: 610,550,667 USD
Mặt hàng Trị giá (USD)
Dầu thô 583,695,443
Hóa chất 26,048,783
Vải các loại 41,321
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
2. Chính sách đầu tư:
Brunei rất chào đón đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài được mời tham
gia tích cực trong chương trình đa dạng hóa kinh tế hiện nay của đất nước. Chương trình
xoay quanh sự phát triển của khu vực tư nhân. Bộ Công nghiệp và Tài chính được thành

lập vào năm 1989 với trách nhiệm thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công
nghiệp ở Brunei. Brunei cung cấp đầy đủ cho tất cả các nhà đầu tư về sự bảo mật, sự ổn
định, liên tục, sự tự tin và khả năng cạnh tranh.
Các điều kiện ưu đãi được áp dụng cho các nhà đầu tư trong suốt chu kỳ kinh doanh
kể từ lúc bắt đầu, tăng trưởng, trưởng thành và mở rộng. Luật khuyến khích đầu tư được
ban hành vào năm 1975 cung cấp các lợi thế về thuế và khuyến khích sự tăng trưởng và
mở rộng liên tục, có thể nói là ngang bằng, thậm chí là tốt hơn so với những điều kiện
được cung cấp bởi các nước khác trong khu vực.
Ở Brunei, chỉ có doanh nghiệp bị đánh thuế. Thuế đánh vào doanh thu từ dầu mỏ
nằm trong một số điều khoản luật pháp đặc biệt được ban hành từ năm
1963.Doanh nghiệp phải đóng 30% thuế thu nhập. Brunei và Anh Quốc đã ký một thỏa
thuận đánh thuế kép. Nhà vua có thể xem xét miễn thuế đối với các ngành công nghiệp
thiết yếu cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Theo Sắc lệnh Thuế Thu nhập năm 2001,
19
các doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài được cấp Giấy Chứng nhận Người tiên
phong, được miễn mức thuế 30% từ 2 đến 5 năm, tùy theo giá trị đầu tư của doanh
nghiệp tính theo đồng USD: dưới 250.000 USD - miễn thuế 2 năm; từ 250.000 đến
500.000 USD - miễn thuế 3 năm; từ 500,000đến 1 tỉ đô - 4 năm, và trên 1 tỉ đô - 5 năm.
Các ngành công nghiệp mở đường và xuẩt khẩu được miễn thuế khi nhập khẩu nguyên liệu
thô và tư bản phẩm.
Ngoài ra, Brunei còn rất linh hoạt đối với yêu cầu vốn chủ sở hữu nước ngoài.
A – Thu hút FDI:
Theo ông John Perry, Chủ tịch Ban Phát triển Kinh tế Brunei cho biết: “sự nổi lên
của Trung Quốc đang làm thay đổi toàn bộ cục diện kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Quá trình này sẽ tạo ra một cơ hội cho Brunei khẳng định vị thế trong nền kinh tế
khu vực”. Trong khoảng 6 năm tới, Trung Quốc sẽ có một khu vực mậu dịch tự do với 10
nước ASEAN, trong đó có Brunei. Theo ông Perry, nước này cần phải tăng cường đầu tư
cho các địa phương, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và đóng vai trò là một trung tâm
thương mại ở châu Á. Vì vậy, Chính phủ Brunei đã thành lập Ban phát triển Kinh tế hồi
cuối năm 2001 nhằm thu hút đầu tư.

- Năm 2008, Bộ Phát triển Kinh tế Brunei đã đưa ra một chiến lược thu hút 4,5 tỷ
USD đầu tư như một phần trong tiến trình đa dạng hóa nền kinh tế, bao gồm việc
phát triển các ngành chế tạo và hóa dầu và xây dựng một cảng container lớn ở
Pulau Muara Besar.
- Theo kết quả được UNCTAD công bố ngày 23-10- 2012 , trong số các nước
ASEAN,vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu vào Brunei năm 2011 tăng đáng
kể trong khi ở VN thì giảm nhẹ. Nhưng đến năm 2012 thì trong các nước ASEAN
chỉ có Philipines, Campuchia, Thái Lan có tang trưởng về nguồn vốn FDI .
Tuy nhiên, sự thịnh vượng về kinh tế trong nhiều năm qua của Brunei không có cơ
sở để đảm bảo lâu dài, nhất là khi giá dầu lên xuống bấp bênh và trữ lượng dầu ngày một
cạn kiệt (Hiện nay, Brunei sản xuất khoảng 170.000- 200.000 thùng/ngày). Theo Cơ quan
phát triển kinh tế Brunei (BEDB), ngành công nghiệp dầu khí chiếm 50% nền kinh tế,
đóng góp trên 90% nguồn thu từ xuất khẩu nhưng chỉ sử dụng 3% lực lượng lao động.
Khu vực kinh tế công, nguồn sử dụng chính lực lượng lao động, không thể hấp thụ hết số
lao động trẻ. Khoảng cách giữa khát vọng, năng lực của thế hệ trẻ và cơ hội việc làm
được tạo ra của nền kinh tế ngày một rộng thêm. Vì những lý do trên, nhu cầu đa dạng
hóa nền kinh tế nhằm hạn chế dần sự lệ thuộc vào ngành dầu khí là nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu đối với Chính phủ Brunei.
20
- Để bắt đầu quá trình đa dạng hóa nền kinh tế, Brunei dự định xây dựng 1 khu công
nghiệp trị giá 3 tỉ USD và 1 cảng biển trị giá 1,5 tỉ USD. Đồng thời, việc thiết lập
một khu vực miễn thuế cũng được tính đến. Với sự giúp đỡ của các công ty tư vấn
nước ngoài, Brunei đã xác định 4 ngành mũi nhọn là du lịch, dịch vụ tài chính, hậu
cần quân sự và công nghệ phần mềm và đã đề ra các chính sách thích hợp để thu
hút đầu tư vào các lĩnh vực này. Mặc dù bộ máy hành chính Brunei bị đánh giá là
"thiếu liên kết" nên giải quyết việc gì cũng chậm, nhưng kế hoạch đa dạng hóa nền
kinh tế của Brunei đã thu hút được một số đại công ty nước ngoài. Công ty thép
Alcoa Inc. của Mỹ và công ty sản xuất vỏ xe ACI corporation Ltd. đã có 2 dự án
đầu tư với tổng trị giá 3,32 tỉ USD vào Brunei.
- Bru-nây đã đề ra kế hoạch triển khai một số dự án, chủ yếu là dịch vụ dầu khí và

hóa dầu như xây dựng nhà mày lọc dầu, khu công nghiệp khí hóa lỏng methanol,
khu chế xuất… với vốn đầu tư hàng tỷ USD và sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài.
Nhằm tạo điều kiện cho ngành dầu khí tiếp tục phát triển, từ năm 2001, Chính phủ
Hoàng gia Brunei đã cho phép mở rộng đấu thầu về thăm dò và khai thác dầu khí
cả trên đất liền và trong vùng thềm lục địa.

Để tăng thêm nguồn thu từ ngành dầu khí, giảm dần việc xuất khẩu dầu thô, Chính
phủ Brunei đã khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng hợp tác đầu tư, liên
doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài nhằm phát triển các ngành công nghiệp phụ
trợ, dịch vụ như lọc dầu, hóa dầu …

Nhà máy sản xuất khí Methanol ở Khu công nghiệp Sungai Liang Park (gần Seria),
khởi công năm 2008 là một hình mẫu theo hướng này, là biểu tượng của sự hợp tác giữa
Brunei và Nhật Bản. Với vốn đầu tư trên 450 triệu đô la Mỹ, nhà máy sản xuất khí
Methanol là một liên doanh giữa Công ty Methanol Brunei với Mitsubishi Gas Chemical
and Itochu (Nhật Bản). Sản phẩm này sẽ được xuất sang Nhật Bản và một số thị trường
khác. Một cảng biển đang được gấp rút xây dựng để phục vụ cho hoạt động xuất, nhập
khẩu các sản phẩm của khu công nghiệp này.

- Ngoài ra Brunei còn đầu tư cho phát triển ngành công nghiệp vi phân tử với sự trợ
giúp kĩ thuật của Nhật Bản.
B – Đầu tư trong nước:
Cuối năm 2001, chính phủ Brunei bỏ ra thêm 1 tỷ đô la vào quỹ đầu tư cho
các dự án của Kế hoạch Phát triển Quốc gia lần thứ 8.
Để đa dạng hóa nền kinh tế, Chính phủ Brunei đã chủ động hạn chế hoạt động
sản xuất dầu mỏ để duy trì nguồn tài nguyên dầu mà theo ước tính dè dặt sẽ "trụ" được
21
đến năm 2018 hoặc cùng lắm là tới 2033. Nhằm mục đích này, một trong những định
hướng là phát triển ngành công nghiệp Hồi giáo (Halal Industry) với thương hiệu Brunei.
Liên tục trong 5 năm qua, Brunei đã tổ chức hội chợ triển lãm sản phẩm Hồi giáo cùng

với việc tổ chức Hội nghị quốc tế về sản phẩm Hồi giáo. Năm 2008, có 14 nước tham gia
Hội chợ này với chủ đề "Sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường Hồi giáo". Thương hiệu
sản phẩm Hồi giáo được sản xuất, chế biến và đăng ký theo một quy trình rất nghiêm
ngặt nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn cao cho người tiêu dùng. Chính phủ Brunei đã
đầu từ hàng tỷ USD vào dự án này.
C – Đầu tư ra nước ngoài:
Trong chính sách đầu tư ra bên ngoài, Brunei chủ yếu nhằm vào bất động sản, tài
chính, chứng khoán ở một số nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ , úc, Singapore,
Philippines và gần đây nhất là góp 132 triệu SD cùng với phía Thái Lan lập quĩ đầu tư
200 triệu USD.
D – Quan hệ đầu tư giữa Brunei - Việt Nam:
• Brunei – Việt Nam:
- Tính đến tháng 10/2009, Bru-nây có 96 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn
4,693 tỷ USD.
- Tính đến năm 2011, Brunei đứng thứ 4 trong ASEAN và thứ 12 trong tổng số hơn 90
quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 129 dự án với tổng số vốn đạt
4,9 tỷ USD, trong đó riêng dự án Khu du lịch liên hợp cao cấp New City-Thành
phố xanh bên bờ cát trắng tại Phú Yên lên tới 4,3 tỉ USD (thông qua nhà đầu tư
thứ ba). Hàng năm, Brunei cấp cho ta một số học bổng đào tạo về dầu khí, tiếng
Anh và bảo dưỡng máy bay. Tính riêng năm 2011, Brunei có thêm 11 dự án đầu tư
với tổng số vốn đăng ký 60.18 triệu USD.
- Ban Phát triển kinh tế Brunei cũng đã vạch ra các cơ hội đầu tư trong các lĩnh vực
hóa dầu, sản xuất đèn điện, thông tin truyền thông và các ngành công nghệ cao,
cũng như ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng cho các doanh nghiệp Việt
Nam.
• Việt Nam - Brunei:
Nhân chuyến thăm cấp nhà nước từ ngày 27- 29/11/2112 Chủ tịch nước đánh giá cao
việc các nhà đầu tư Brunei Darussalam thời gian qua tăng cường đầu tư vào Việt
Nam, duy trì vị thế là một trong những quốc gia đầu tư hàng đầu trong các nước
ASEAN. Chủ tịch nước đề nghị doanh nghiệp hai bên tích cực thúc đẩy các biện pháp

xúc tiến thương mại và đầu tư, tăng cường giao lưu, trao đổi thông tin về thị trường
22
mỗi nước, qua đó đẩy mạnh hơn nữa hợp tác thương mại và đầu tư, mang lại lợi ích
cho hai nước nói chung và cộng đồng doanh nghiệp hai nước nói riêng.
- Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phát
triển quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là với các đối tác nước ngoài có kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến cao như Brunei Shell. Trên tinh thần đó, Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang hoan nghênh việc hai bên ký kết hợp đồng mua bán dầu thô trị giá 250
triệu USD và đánh giá, đây là minh chứng sống động cho sự hợp tác hiệu quả của
hai bên. Nhân chuyến thăm Brunei của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (tháng
11/2011), tại Cung điện Istanal Nurul Iman diễn ra Lễ ký Thỏa thuận hợp tác về
dầu khí giữa Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và Công ty Dầu khí Quốc gia
Brunei.
- Ngoài ra, Việt Nam cũng có một dự án đầu tư vào Brunei với tổng vốn đăng ký
650.000 USD là dự án của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Thịnh, đầu tư trong
lĩnh vực kinh doanh kim loại mầu, kim loại quý, kinh doanh hóa chất.
3. Chính sách tỷ giá, lãi suất:
A – Tỷ giá:
Brunei thực hiện chế độ tỉ giá là neo cứng theo một đồng tiền mạnh nghĩa là
cam kết bằng luật đối với việc neo vào một đồng tiền khác theo một tỉ lệ cố định mà
cụ thể ở đây là đồng USD.
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1 USD = 1.2375 BND (24/02/2013)
Biểu đồ 3: Biến động tỷ giá BND –USD từ T1/2006 đến T1/2012
23
Hình trên thể hiện biến động tỉ giá đồng đô la Brunei trong giai đoạn 2005-2012.Có thể
nhận thấy rằng giá đồng tiền của Brunei có xu hướng tăng lên.Đã có những thời điểm
đồng nội tệ bị rớt giá mạnh như vào năm 2006: 1USD=1,7 BND. Song cũng có thời điểm
đồng nội tệ rất có giá trị như vào năm 2012: 1 USD = 1,2 BND. Biên độ của sự biến động
tỉ giá là khá rộng kể cả trong 1 năm.
Biểu đồ 4: Biến động tỷ giá BND - USD trong năm 2012

Sau đây, sẽ phân tích ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá đến cán cân thương
mại của quốc gia này.
Biểu đồ 5: Cán cân thương mại Brunei từ T1/2008 đến T1/2012
24
Dựa trên sự tương quan giữa 2 biểu đồ có thể thấy khi đồng nội tệ Brunei càng giảm giá
thì giá trị thặng dư cán cân thương mại càng lớn. Tuy nhiên khi đồng Brunei dollar lên
giá thì cán cân thương mại của quốc gia này vẫn ở trạng thái thặng dư và có thời điểm
còn tăng cao hơn cả khi BND giảm giá (vào thời điểm tháng 1/2012 khi tỷ giá USD/BND
= 1,2 nhưng cán cân thương mại lại đạt thặng dư ở mức cao nhất trong suốt 4 năm – gần
3,5 triệu BND). Điều này chứng tỏ đồng BND ngày càng trở nên có giá trị và chính sách
tỷ giá đã có tác động tốt đến cán cân thương mại của Brunei.
B – Lãi suất (Lending Interest):
Tỷ lệ lãi suất cho vay chuẩn ở Brunei lần cuối ghi nhận ở 5,5% vào năm 2012. Lãi
suất huy động vốn thì vào khoảng 1-2%. Đây là số liệu được trích từ báo cáo của
Monetari Autoriti Brunei Darussalam. Trong lịch sử, trừ năm 1998 lãi suất cho vay là
6,5% thì kể từ năm 1999 đến năm 2012, lãi suất trung bình đều là 5,5% và rất ổn định,
không có sự biến động. Cơ quan Tiền tệ của Brunei không quy định một tỷ lệ lãi suất
chuẩn. Thay vào đó, lãi suất cho vay đối với Thủ tướng Chính phủ được sử dụng như là
tài liệu tham khảo.
Biểu đồ 6: Lãi suất cho vay ở Brunei 2010 – 2012 (%)
4. Chính sách khoa học – giáo dục – công nghệ:
A – Khoa học – giáo dục:
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×