Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

(Luận Án Tiến Sĩ) Nâng Cao Năng Lực Tư Duy Lý Luận Cho Đội Ngũ Giảng Viên Các Trường Chính Trị Tỉnh Khu Vực Đồng Bằng Sông Cửu Long Trong Giai Đoạn Hiện Nay.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 177 trang )

1

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ MINH HIẾU

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CHO GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngành: CNDVBC&CNDV LS
Mã số: 922 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lương Khắc Hiếu

HÀ NỘI – 2023


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các trích dẫn
và số liệu được sử dụng trong luận án là trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ
rõ ràng. Những kết luận rút ra trong luận án là kết quả tìm tịi, nghiên cứu
nghiêm túc của bản thân tác giả và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào.

Tác giả luận án


Võ Minh Hiếu


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện luận án tiến sĩ, tôi xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ của Lãnh đạo Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam, quý thầy, cô giáo Khoa Triết học và cán bộ, nhân viên
của Học viện đã giúp tơi hồn thành chương trình khóa học.
Tơi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học PGS.TS.
Lương Khắc Hiếu đã tận tình hướng dẫn cho tơi hồn thành luận án của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn đơn vị cơng tác, bạn bè và gia đình đã
giúp đỡ tơi trong suốt thời gian nghiên cứu và tạo điều kiện tốt cho tơi thời
gian học tập và hồn thành luận án tiến sĩ.
Hà Nội, tháng

năm 2023

Tác giả luận án

Võ Minh Hiếu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

STT

TỪ VIẾT TẮT

NGHĨA


1.

BCDV

Biện chứng duy vật

2.

CNH

Cơng nghiệp hóa

3.

CNXH

Chủ nghĩa Xã hội

4.

ĐBSCL

Đồng bằng sơng Cửu Long

5.

ĐT, BD

Đào tạo, bồi dưỡng


6.

HĐH

Hiện đại hóa

7.

HSSV

Học sinh, sinh viên

8.

NLTD

Năng lực tư duy

9.

KT – XH

Kinh tế - xã hội

10.

KHCN

Khoa học cơng nghệ


11.

TDLL

Tư duy lý luận

12.

TCT

Trường chính trị

13.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................... 7
1.1. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan đến các vấn đề lý luận về năng lực tư
duy lý luận của giảng viên trường chính trị tỉnh ................................................ 7
1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thực trạng tư duy lý luận và thực trạng năng lực
tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các tỉnh vùng Đồng
bằng sông Cửu Long ................................................................................. 22
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến yêu cầu, phương hướng và giải

pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường chính
trị tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long ..................................................... 27
1.4. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu . 32
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CỦA GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY .............................................................................................. 36
2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận .................................................. 36
2.2. Năng lực tư duy lý luận với hoạt động giảng dạy lý luận chính trị của giảng
viên ở các trường chính trị tỉnh của Việt Nam hiện nay ....................... 61
Chương 3: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY.............................................................. 73
3.1. Tổng quan về các trường chính trị tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu
Long và hoạt động nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên ............ 77
3.2. Những điểm mạnh và hạn chế trong năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng
viên các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng sơng Cửu Long thời gian qua 80


Chương 4: YÊU CẦU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG
CHỈNH TRỊ TỈNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG

THỜI GIAN TỚI ................................................................................ 109
4.1. Những yêu cầu cơ bản của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên
các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng song Cửu Long trong thời gian
tới ........................................................................................................... 109
4.2. Một số phương hướng cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng
viên ở các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian
tới ........................................................................................................... 118
4.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ

giảng viên các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời
gian tới ................................................................................................... 126
KẾT LUẬN .................................................................................................... 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 149
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 160


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1: Mức độ quan trọng của các năng lực TDLL đối với giảng viên các TCT
tỉnh ...................................................................................................... 82
Bảng 2: Năng lực TDLL của giảng viên các TCT tỉnh hiện nay .................... 89
Biểu đồ 1: Quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền và TCT các tỉnh vùng
ĐBSCL đến việc nâng cao năng lực TDLL cho giảng viên ............... 79


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà vai trò của tư duy, trí tuệ đang
khơng ngừng tăng lên trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực
vô tận trong sự phát triển. Mỗi quốc gia, dân tộc muốn có sự phát triển đột phá đi
lên, muốn bước tới đài vinh quang sánh vai cùng các nước văn minh, tiến bộ không
thể không bắt đầu bằng sự đổi mới, phát triển đột phá trong tư duy, tư duy lý luận.
Tư duy lý luận (TDLL) – mà cơ sở nền tảng của nó là tư duy triết học, đối
với nước ta hiện nay lại càng quan trọng, do phải đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết
của thực tiễn đổi mới đất nước một cách toàn diện, đồng bộ. Chính vì vậy mà trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, Đảng ta
đặc biệt quan tâm đến vấn đề khai thác, phát huy tiềm năng trí tuệ, khả năng đổi

mới sáng tạo và năng lực tư duy của con người Việt Nam, coi đó là nguồn lực, động
lực phát triển nhanh, bền vững đất nước. Quan điểm đầu tiên trong các quan điểm
phát triển đất nước ta từ nay đến năm 2030 được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng xác định là: Đổi mới tư duy và hành động, chủ động, tích cực tham
gia cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư gắn với q trình hội nhập quốc tế, nắm
bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả, cơ hội để phát triển kinh tế số, xã hội số.
TDLL được hình thành và phát triển trên cơ sở của năng lực TDLL. Năng
lực TDLL có vai trị rất quan trọng đối với các lĩnh vực hoạt động nói chung, đối
với cơng tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng. Chính năng lực TDLL là yếu
tố có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của cơng tác nghiên
cứu, giảng dạy lý luận chính trị, đến cơng tác chính trị, tư tưởng trong hệ thống
nhà trường ở nước ta. Vì vậy, nâng cao năng lực, trình độ TDLL cho đội ngũ cán
bộ lý luận, trong đó có đội ngũ giảng viên các trường chính trị (TCT) cấp tỉnh
vùng đồng bằng song Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay – những người trực tiếp góp
phần vào quá trình đổi mới tư duy, nâng cao năng lực trí tuệ cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân, nhất là ở các địa phương, cơ sở - có tầm quan trọng đặc biệt.


2
Bởi vì, trong tình hình hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, ngồi cái gốc đạo đức
ra, cần phải có một năng lực trí tuệ thực sự. Năng lực trí tuệ ấy bao gồm cả các
tri thức chuyên môn nghiệp vụ và những tri thức lý luận khoa học. Thực tế cuộc
sống chứng tỏ rằng, thiếu kiến thức chuyên môn cần thiết, người cán bộ sẽ khơng
thể hồn thành nhiệm vụ. Thiếu tri thức lý luận, nhất là lý luận chính trị - cơ sở
lý luận trực tiếp cho việc hoạch định đường lối, quan điểm, định hướng phát triển
đất nước, chúng ta sẽ bị tụt hậu so với khu vực và thế giới, theo đó nước ta khó
có thể giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới. Mặt khác, quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức cùng việc mở rộng hội
nhập quốc tế của Việt Nam đang đòi hỏi những cán bộ biết chủ động tiếp cận và
làm chủ tri thức, luôn sáng tạo trong nhận thức cũng như trong hành động. Để

làm được điều đó, đội ngũ cán bộ từ cấp cơ sở phải được nâng cao năng lực tư
duy mà trước hết là tư duy lý luận. Điều này phụ thuộc một phần không nhỏ vào
việc đào tạo của các trường chính trị tỉnh. Hiện nay, yêu cầu năng cao năng lực
TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL khơng chỉ quan
trọng mà cịn cấp thiết hơn bao giờ hết do năng lực và trình độ trí tuệ, năng lực
tư duy cũng như TDLL của đội ngũ cán bộ này nhiều mặt chưa ngang tầm địi
hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Chính thực trạng ấy đã, đang và có thể sẽ ảnh
hưởng nhiều mặt đối với bản thân chủ thể, đối với người học tại các TCT tỉnh,
cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đổi mới tư duy, đến cơng cuộc đổi
mới tồn diện, đồng bộ đất nước, đến quá trình phát triển nhanh và bền vững khu
vực ĐBSCL – một vùng kinh tế trọng điểm, phát triển năng động ở phía Nam
đất nước. Do đó, cần phải đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng những mặt mạnh,
mặt yếu về năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL
hiện nay, để từ đó xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực
TDLL cho đội ngũ cán bộ này.
Xuất phát từ đó, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long
trong giai đoạn hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa cơ bản vừa


3
cấp bách, không chỉ đối với yêu cầu xây dụng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng
dạy lý luận chính trị trong tình hình hiện nay, mà cịn góp phần bảo đảm cho quá
trình đổi mới tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng sâu sắc
và triệt để hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích của luận án
Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề chung về năng lực TDLL của giảng
viên TCT tỉnh của Việt Nam hiện nay, khái quát thực trạng năng lực TDLL của
đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay, luận án đề xuất một

số yêu cầu, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL
cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm sáng rõ những vấn đề chung về năng lực TDLL của giảng
viên các TCT tỉnh của Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực trạng năng lực
TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay.
- Đề xuất, luận giải cơ sở khoa học về yêu cầu, phương hướng và giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu
vực ĐBSCL trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về năng lực TDLL của giảng viên các TCT khu vực
ĐBSCL.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Theo quy định, đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL gồm có
giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng. Luận án chỉ tập trung
nghiên cứu việc nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên cơ hữu.


4
- Thực trạng năng lực TDLL của giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL
được nghiên cứu từ năm 2015 đến 2021 (Tập trung khảo sát trên địa 12 tỉnh của
ĐBSCL). Các giải pháp đề xuất có ý nghĩa vận dụng đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng (DVBC) và chủ nghĩa duy vật lịch sử (DVLS), nhất là những nguyên
lý của lý luận nhận thức và logic học mác xít. Luận án cũng dựa trên tư tưởng Hồ
Chí Minh, vận dụng các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, sử dụng kết

quả các cơng trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngồi nước có liên quan
đến đề tài luận án.
Để tiến hành nghiên cứu, tác giả luận án đã sử dụng tổng hợp các phương
pháp như: phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp kết hợp lịch sử và logic; phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương
pháp thống kê, so sánh. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, tác giả luận án còn
sử dụng một số phương pháp như: thảo luận nhóm, lấy ý kiến chuyên gia, khái
quát hóa, trừu tượng hóa.
- Phương pháp thu thập thơng tin:
+ Thu thập thông tin thứ cấp: là thu thập thông tin từ các loại sách, báo, tài liệu
khoa học có liên quan đến đề tài, đã được công bố. Phương pháp này được sử dụng
trong việc tổng quan tài liệu nghiên cứu; xây dựng khung lý thuyết về TDLL và năng
lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL; khái qt về tình hình
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tình hình, đặc điểm các TCT tỉnh vùng ĐBSCL có
tác động, ảnh hưởng đến năng lực TDLL của các TCT tỉnh vùng ĐBSCL.
+ Thu thập thông tin sơ cấp: là phương pháp thu thập các số liệu, các thông
tin chưa từng được công bố ở bất kỳ tài liệu nào, người thu thập thơng tin có được
thông qua tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nghiên cứu bằng các phương pháp khác
nhau như: điều tra qua bảng hỏi, phỏng vấn sâu… Trong phạm vi luận án này, thu
thập số liệu sơ cấp được thực hiện thông qua phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.


5
Về chọn mẫu điều tra: Tác giả tiến hành thu thập số liệu theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên đối với 230 đối tượng là giảng viên các TCT, cán bộ lãnh đạo,
quản lý các TCT tỉnh, các ban, ngành trong tỉnh và học viên là những cán bộ, đảng
viên đang học tập tại các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL. Phiếu điều tra được chuẩn bị
trước cho mục đích nghiên cứu. Các thông tin nghiên cứu định lượng được xử lý bằng
phần mềm SPSS. Phần Phụ lục của luận án được tổ chức theo nguyên tắc lựa chọn
những kết quả nghiên cứu đã được sử dụng trong luận án.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để phân tích các số liệu
thu thập được từ điều tra bằng bảng hỏi, qua đó nhận biết thực trạng năng lực
TDLL, phân tích các nhân tố tác động đến năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên
các TCT tỉnh vùng ĐBSCL. Phương pháp phân tích và tổng hợp cịn được sử dụng
để tổng hợp các số liệu, thông tin, tri thức có được từ hoạt động phân tích tài liệu,
trao đổi với chuyên gia nhằm mục đích đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất
của tác giả luận án ở các chương nghiên cứu về thực trạng và xác định yêu cầu, đề
xuất phương hướng, giải pháp nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên
các TCT vùng ĐBSCL.
- Phương pháp lịch sử và logic: phương pháp logic được sử dụng để phát
hiện ra tính quy luật của quá trình nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng
viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL. Phương pháp lịch sử được áp dụng khi nghiên
cứu về tổng quan tình hình nghiên cứu cũng như nghiên cứu về quá trình hình
thành, phát triển năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng
ĐBSCL trong thời gian nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ hơn khái niệm, cấu trúc năng lực TDLL, tiêu chí
đánh giá năng lực TDLL của giảng viên các TCT, làm rõ những biểu hiện mang
tính đặc thù trong năng lực TDLL của giảng viên các TCT tỉnh và những yếu tố
ảnh hưởng đến năng lực TDLL của đội ngũ này.
- Góp phần làm rõ thực trạng năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các
TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay.


6
- Đề xuất và luận giải cơ sở khoa học của các yêu cầu, phương hướng, giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh
khu vực ĐBSCL trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận về TDLL, cấu trúc

năng lực TDLL, các yếu tố tác động đến năng lực TDLL, năng lực TDLL dưới
góc độ Triết học.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy nâng cao tư duy lý luận cho
đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các TCT tỉnh vùng ĐBSCL nói riêng và các
trường chính trị, cao đẳng, đại học cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 11 tiết.


7

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan đến các vấn đề lý luận
về năng lực tư duy lý luận của giảng viên trường chính trị tỉnh
Tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận là những vấn đề nhận được
sự quan tâm sâu sắc của giới nghiên cứu các nước và nước ta trong thời gian qua.
Nhiều cuốn sách, bài báo, tham luận tại các cuộc hội thảo, v.v.. đề cập đến vấn đề
này ở những góc độ khác nhau. Các cơng trình được đề cập trong các cơng trình
viết về lịch sử triết học, phép biện chứng, lơgíc học, lý luận nhận thức như:
Tác giả Đ.P.Gorki trong cơng trình “Lơgíc học” cho rằng, chỉ có thể tư duy
đúng đắn khi vận dụng những tư tưởng có nội dung chân thực và đã được chứng
minh phù hợp với các quy luật của lơgíc học [20]. E.V. I.Lencơv trong cơng trình
“Lơgíc học biện chứng” (Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2003) đã chỉ ra hệ thống
các nguyên tắc của quá trình nhận thức, tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử
trong mối tương quan với ngun tắc lơgíc, sự đồng nhất giữa lơgíc học, phép biện
chứng và lý luận nhận thức, mối quan hệ giữa cái cụ thể, cái lơgíc và cái lịch sử

trong tư duy [34]. Trong các cơng trình như: “Ngun lý lơgíc biện chứng” của
M.M.Rơdentan, tác giả đã đi từ vai trị của lơgíc biện chứng và khẳng định rằng
tư duy là công cụ mạnh mẽ để con người nhận thức và cải tạo thế giới; tác giả
cũng chỉ ra những quy luật vận động của tư duy [96].
Tác giả Trần Sỹ Phán Trong bài: " Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá
trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta" [79]. Tác giả cho rằng TDLL là quá trình
phản ánh hiện thực khách quan gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao
bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Đây là hình thức cao nhất của tư duy. Quá
trình tư duy là quá trình chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khái
niệm để nắm bắt các mối liên hệ bên trong, bản chất, từ đó tìm ra các quy luật vận
động nội tại tiềm ẩn ở khách thể trong quá trình nhận thức.


8
Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải trong công trình “Tư duy khoa học
trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ “cho rằng, bất kỳ người nào sống
trong xã hội, có một bộ óc phát triển bình thường, nắm được những u cầu nhất
định về ngơn ngữ, lơgíc thì đều có thể trở thành một chủ thể của tư duy. Những ai
có NLTD tốt thường sẽ trở thành những người thuộc tầng lớp trí thức xã hội.
Những người chun lao động trí óc, làm việc chủ yếu bằng tư duy thường là
những người có NLTD tốt. Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ, tư
duy khoa học hiện đại phát triển mạnh mẽ. Các ông cho rằng, sự phát triển ấy sẽ
dẫn đến các lý thuyết khoa học mới, tổng quát hơn. Tư duy khoa học hiện đại sẽ
chuyển hóa về chất thành tư duy khoa học của một nền văn minh mới, cao hơn
trong thế kỷ XXI. Nhờ đó, lồi người sẽ giải quyết được các vấn đề toàn cầu [78].
Tác giả Vũ Văn Viên trong bài “Rèn luyện năng lực tư duy khoa học cho
học sinh, sinh viên”[135] đã phân tích và làm sáng tỏ nét đặc thù và sự cần thiết
phải phát triển tư duy khoa học cho học sinh, sinh viên ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Tác đã đã chỉ ra những hạn chế của tư duy khoa học ở học sinh, sinh
viên và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao NLTD khoa học cho học sinh,

sinh viên hiện nay. Tác giả cho rằng, cần tăng cường rèn luyện tư duy chính xác
cho học sinh, sinh viên thơng qua dạy lơgíc hình thức hay là trang bị các nguyên
tắc, phương pháp luận biện chứng duy vật cho các em.
Tác giả Nguyễn Mạnh Cương phân tích trong bài viết “Về bản chất tư duy”
bàn về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển của tư duy
biện chứng duy vật. Tác giả khẳng định rằng, tư duy biện chứng mácxít là hình
thức tư duy phát triển cao nhất trong lịch sử; tư duy biện chứng phụ thuộc vào hệ
thống tri thức và hoạt động thực tiễn của mỗi chủ thể, thiếu vốn tri thức chủ thể
nhận thức sẽ khơng có tư duy sáng tạo. Tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tư
duy chính xác và tư duy biện chứng duy vật trong quá trình nhận thức [9].
Bên cạnh đó, có các cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đổi mới tư
duy ở nước ta hiện nay. Các nhà nghiên cứu đã đặt ra và giải quyết vấn đề tình
trạng lạc hậu của TDLL ở nước ta trước thời kỳ đổi mới, chỉ ra nguyên nhân dẫn
đến tình trạng lạc hậu của TDLL và cách thức khắc phục tình trạng đó như:


9
Theo đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng thời kỳ
đổi mới đã nhấn mạnh trong tác phẩm “Đổi mới để tiến lên”cho rằng : "Nói đổi
mới tư duy, điều căn bản là phải đổi mới tư duy lý luận" [47, tr.95]. Bởi, tư duy lý
luận là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các cơng cụ là khái niệm, phạm trù, phán
đốn, suy luận, hướng tới phân tích, tổng hợp, khái qt để tìm ra bản chất, quy
luật của hiện thực khách quan, từ đó định hướng, hướng dẫn hoạt động thực tiễn
của con người và sáng tạo tri thức mới.
Tác giả Nguyễn Ngọc Long, “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi
mới tư duy” [50]. Tác giả đã phân tích bản chất và những yếu tố cấu thành năng
lực TDLL; sự cần thiết phải phát triển năng lực TDLL trong thời kỳ đổi mới đất
nước. Từ đó, tác giả khẳng định rằng, quá trình đổi mới tư duy phải gắn chặt với
việc đổi mới và nâng cao năng lực TDLL; phải khắc phục được những sai lầm
trong TDLL của chúng ta.

Tác giả Trần Thành (chủ biên) trong cuốn “Tư duy lý luận với hoạt động
của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn” cho rằng: Tư duy lý luận (được
hiểu theo là cái "phủ định biện chứng" của tư duy kinh nghiệm) là tư duy dựa trên
tri thức lý luận và phương pháp nhận thức khoa học [114].
Về năng lực tư duy, trước hết các tác giả xuất phát từ khái niệm “năng lực”
nói chung. Theo (1977), năng lực là khả năng, là điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên
sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó, hoặc năng lực là tổng hợp những phẩm
chất tâm - sinh lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức nghề
nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử [80]. Cách xác định trên, tuy còn
nhiều vấn đề cần trao đổi, song theo chúng tôi, phần nào đã lột tả được thực chất
khái niệm năng lực. Các tác giả nhất trí với quan niệm của Hồ Chí Minh rằng,
“Năng lực của con người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà có, mà một phần
lớn do cơng tác, do tập luyện mà có” [61, tr. 280]. Cũng như bất kỳ một loại năng
lực nào khác, năng lực TDLL cũng được hình thành và phát triển nhờ các yếu tố
bẩm sinh và rèn luyện qua học tập, hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, để làm rõ năng
lực TDLL là gì, chúng ta cần tìm hiểu vấn đề một cách cụ thể hơn.


10
Tác giả Nguyễn Thị Bạch Vân với bài báo khoa học "Nâng cao trình độ tư
duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học"[134] cho rằng: Tư duy lý
luận được hình thành trên cơ sở của tư duy kinh nghiệm; đó là sự phản ánh được
các mối liên hệ trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ tồn diện của nó,
trong sự vận động mâu thuẫn của nó. Tư duy lý luận có thể phân thành nhiều loại
khác nhau. Mỗi môn khoa học là một hệ thống tri thức lý luận (khác với tri thức
kinh nghiệm) về bản chất bởi tư duy lý luận dựa trên cơ sở tri thức kinh nghiệm
thực tiễn điển hình cùng với sự tham gia nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà
lý luận.
Từ điển triết học do M.M.Rôdentan chủ biên viết rằng, “hoạt động tâm lý
đặc biệt của con người tức là năng lực tư duy” [97, tr. 874]. Cách xác định như vậy

tuy còn rất chung, song nó giúp cho việc tiếp tục cụ thể hố, chi tiết hơn.
Tác giả Hồ Bá Thâm trong bài viết “Bàn về năng lực tư duy” cho rằng,
“năng lực tư duy là khả năng biến tri thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo
chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật
và vận dụng đúng đắn các quy luật đó trong cuộc sống” [118, tr.7-10]. Từ quan
niệm chung như vậy, tác giả nhận định cụ thể hơn: “Năng lực tư duy là tổng hợp
những khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng, trừu tượng hóa, khái quát hóa và xử
lý tri thức trong quá trình phản ánh, tái tạo, phát triển và vận dụng chúng vào những
tình huống thực tiễn nhất định” [118, tr.7 – 10]. Có thể nói, cách định nghĩa như
trên là quá hẹp, bởi năng lực tư duy nếu chỉ là khả năng biến trí thức thành phương
pháp thì chưa nói lên đầy đủ chức năng của hoạt động tư duy.
Tác giả Hồ Bá Thâm, cũng đã phân tích và cho rằng, có 3 yếu tố cơ bản
cấu thành năng lực tư duy là: Một là, năng lực tái hiện và ghi nhớ những hình
ảnh do cảm tính đem lại. Hai là, năng lực liên tưởng để tìm bản chất của vấn đề
đi từ chưa biết đến biết, vạch ra cái mới. Ba là, năng lực trừu tượng hóa, khái
qt hóa, phân tích, tổng hợp và tưởng tượng. Từ đó, tác giả cũng đưa ra ra định
nghĩa về năng lực tư duy và phân tích những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới năng
lực tư duy như: trình độ, yếu tố bẩm sinh, phương thức và mơi trường của tồn tại


11
xã hội, hoạt động giáo dục và đào tạo tự giác, hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó,
tác giả cũng cho rằng năng lực tư duy không phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh. Để
phát triển năng lực tư duy cần khai thác và phát huy hiệu quả vai trò của các yếu
tố ảnh hưởng tới nó, cần thấy được tầm quan trọng của từng yếu tố để có cơ chế
khai thác phù hợp mới phát huy được tác dụng [118].
Tác giả Tô Duy Hợp trong bài viết “Phương pháp tư duy - vấn đề kế thừa
và đổi mới” đã chỉ ra mối quan hệ và sự khác biệt giữa các khái niệm phương
pháp, phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức, phương pháp hành động,
phân biệt các khái niệm phương pháp TDLL, phương pháp tư duy khoa học và

phương pháp tư duy biện chứng. Tác giả cho rằng, thực chất, phương hướng và
phương thức đổi mới phương pháp tư duy ở nước ta là đi từ phương pháp tư duy
cổ điển đến phương pháp tư duy phi cổ điển và phương pháp tư duy mácxít. Sự
đổi mới là tất yếu khách quan, tuân theo sự vận động chung của nhân loại [26].
Tác giả Nguyễn Bá Dương trong bài “Về đặc trưng của tư duy biện chứng
duy vật” đã phân tích 5 đặc trưng cơ bản của tư duy biện chứng duy vật đó là: tư
duy biện chứng là loại hình tư duy phát triển cao nhất so với các hình thức tư
duy trong lịch sử; tư duy biện chứng có tính khách quan, nó là tư duy khoa học,
cách mạng, có tính phê phán và chiến đấu cao, ln tạo ra sản phẩm kép; phản
ánh hiện thực đang vận động, biến đổi, phản ánh đúng sự vận động, phát triển và
những mâu thuẫn vốn có của thế giới khách quan. Tác giả cho rằng, tư duy biện
chứng có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Tác giả cũng chỉ
rõ, chỉ có tư duy biện chứng duy vật mới đem lại “chìa khóa vàng” giúp con
người mở cửa tiến lên phía trước. Con người muốn nhận thức và cải tạo hiện
thực hiệu quả thì con người dứt khốt phải có tư duy biện chứng duy vật. Nó là
“la bàn” dẫn đường chỉ lối giúp người ta không bao giờ lạc hướng, bước nhầm
đường [13].
Tác giả Trần Đình Thỏa trong bài “Một số vấn đề tư duy biện chứng
mácxít” đã tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện chứng, so sánh
tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác như tư duy biện chứng cổ đại
tự phát, tư duy siêu hình, tư duy biện chứng duy tâm. Tác giả chỉ ra sự khác biệt


12
của tư duy biện chứng duy vật với các hình thức tư duy khác ở các đặc trưng cơ
bản như: tính khách quan, tính tồn diện, tính lịch sử, sự thống nhất giữa lịch sử
và lơgíc, q trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Theo tác giả, để tiến hành đổi mới
tư duy hiệu quả, chúng ta phải loại bỏ tư duy kinh nghiệm, siêu hình, duy tâm,
xây dựng TDLL khoa học - tư duy biện chứng mácxít. Bởi vì, tư duy biện chứng
mácxít trang bị cho chủ thể nhận thức một phương pháp tư duy khoa học trong

hoạt động nhận thức và thực tiễn, góp phần tích cực vào việc giải quyết những
nhiệm vụ đất nước đang đặt ra [122].
Tác giả Nguyễn Quang Thông trong bài “Những đặc trưng cơ bản của
phương pháp tư duy khoa học” đã phân tích mối quan hệ giữa phương pháp tư
duy biện chứng với phương pháp tư duy của các khoa học cụ thể, mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng trong nhận thức và cải tạo thực tiễn, các đặc trưng cơ
bản của phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Theo tác giả, sai lầm trong tư
duy về xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) là do chưa nắm vững bản chất, đặc
điểm của tư duy biện chứng duy vật; để khắc phục được những sai lầm trên chúng
ta phải nhận thức và phát huy vai trò của tư duy biện chứng duy vật [103].
Các tác giả Bùi Thanh Quất, Bùi Trí Tuệ, Nguyễn Ngọc Hà trong bài “Đối
tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của lơgíc biện chứng” đã phân tích
đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của lơgíc học biện chứng. Các
tác giả cho rằng, tư duy biện chứng và lơgíc biện chứng có mối quan hệ mật thiết
với nhau, tư duy biện chứng vừa là đối tượng nghiên cứu, vừa là công cụ nghiên
cứu của lơgíc biện chứng, ngược lại, lơgíc biện chứng có vai trị quan trọng trong
việc rèn luyện, phát triển tư duy biện chứng. Nghiên cứu lơgíc biện chứng có ý
nghĩa quan trọng đối với các nhà khoa học tự nhiên trong việc khái quát các tri
thức chuyên ngành, khắc phục tính biện chứng tự phát của tư duy [91].
Tổng quan các cơng trình nghiên cứu của nước ngồi về tư duy, TDLL và
năng lực tư duy, chúng ta có thể rút ra những kết quả nghiên cứu cơ bản sau đây.
Thứ nhất, các tác giả nước ngoài khẳng định, tư duy có thể định hướng hoặc
là vào việc hiểu biết hoàn cảnh hiện thực, hoặc vào việc đạt tới kết quả thực tiễn.
Kiểu tư duy thứ nhất thể hiện dưới các hình thức khác nhau: định hướng trong tình


13
huống dựa trên cơ sở tri thức hàng ngày, tư duy thần thoại, tư duy triết học, tư duy
khoa học (lý luận và kinh nghiệm). Kiểu tư duy thứ hai tồn tại dưới hình thức giải
quyết những nhiệm vụ trong quá trình hoạt động thực tiễn (làm sáng tỏ hệ thống

phương tiện đảm bảo đạt tới mục đích đặt ra). Suốt một thời gian dài trong lịch sử
triết học, chính kiểu tư duy thứ nhất (đặc biệt là TDLL) được xem là cái biểu thị
bản chất của tư duy và đồng thời là giá trị tối cao của con người. Nhưng TDLL
thậm chí cũng chủ yếu được hiểu là suy lý (trước hết là bằng diễn dịch, sau là bằng
quy nạp). Do vậy, các lý thuyết về tư duy là hạn hẹp trong việc nắm bắt những
biểu hiện của tư duy hiện thực. Hiện nay, có các quan điểm cho rằng, tư duy thiết
kế đang loại trừ tư duy nghiên cứu nói chung và TDLL nói riêng. Trên thực tế,
kiểu tư duy thứ hai tất yếu đòi hỏi kiểu tư duy thứ nhất: không thể thiết kế hoạt
động thiếu hiểu biết về tình huống hiện thực và thiếu việc làm sáng tỏ khả năng
nhận được kết quả mong muốn nhờ những phương tiện nào đó [142].
Dựa trên quan niệm về những phương diện nội dung cơ bản của tư duy,
chúng ta có thể khái quát các quan điểm cơ bản về tư duy như sau. Nếu xét từ góc
độ quan hệ giữa tư duy và kinh nghiệm để đánh giá nội dung của tư duy, cần phải
khu biệt giữa chủ nghĩa duy nghiệm và chủ nghĩa duy lý. Theo chủ nghĩa duy
nghiệm, tư duy trước hết có quan hệ với việc so sánh, phân tích và tổng hợp tất cả
những gì được đem lại trong kinh nghiệm (cảm giác, tri giác). Tư duy cũng có thể
thể hiện ở việc kết hợp những biểu tượng như những dấu vết của những tri giác
quá khứ. Xét từ góc độ này, các khái niệm xuất hiện dựa trên cơ sở tách biệt những
dấu hiệu chung của đối tượng đơn nhất được đem lại trong kinh nghiệm (trừu
tượng hóa) và ghi nhận chúng nhờ ngôn ngữ. Những khái quát kinh nghiệm xuất
hiện dựa trên cơ sở quy nạp. Suy lý bằng diễn dịch trong lơgíc học và tốn học
được xem hoặc là cái sinh ra từ kinh nghiệm, hoặc là giải nghĩa một số đặc điểm
của ngôn ngữ. Như vậy, với cách hiểu như vậy, nội dung của tư duy hoàn toàn do
những cái trực tiếp được đem lại trong kinh nghiệm quyết định [133].
Chủ nghĩa duy lý đem kinh nghiệm và tư duy đối lập với nhau. Theo quan
điểm này, kinh nghiệm hoặc là không đem lại hiểu biết về hiện thực (Plato), hoặc


14
là đem lại hiểu biết "mơ hồ", cần được làm sáng tỏ nhờ tư duy. Với quan niệm như

vậy, kinh nghiệm chỉ đem lại đòn bẩy cho tư duy, tư duy triển khai nội dung của
những ý niệm "bẩm sinh" tiên nghiệm được đem lại cho chủ thể trong hành vi trực
giác trí tuệ. Siêu hình học, tốn học, khoa học lý thuyết là sản phẩm của tư duy
không phụ thuộc vào kinh nghiệm ấy [148].
Theo Hegel, tư duy không đứng đối lập với kinh nghiệm, mà dựa vào nó,
nhưng chỉ để vượt ra khỏi giới hạn của nó và làm cho nó phụ thuộc vào bản thân
mình. Với Hegel, những cái được đem lại một cách không chân thực trong kinh
nghiệm sẽ được triển khai dưới dạng chân thực thơng qua tư duy mà, trong q
trình tự phát triển của mình, được giải thốt khỏi mọi ràng buộc với cảm tính,
"vượt bỏ" kinh nghiệm (đồng thời cũng bao hàm nó trong mình dưới dạng "vượt
bỏ") và thể hiện là tư duy tư biện. Theo Hegel, cái chung trong tư duy bao hàm
tính đa dạng dưới hình thức cái riêng và cái đơn nhất [142]. Những người theo
thuyết Kant mới ở thế kỷ XX đã kế tục quan điểm về tư duy của Hegel trên nhiều
phương diện, họ hiểu tư duy là tổng hợp bằng phạm trù, tự tạo ra tính đa dạng từ
bản thân mình. Theo phái Kant mới, thực tại cảm tính khơng tồn tại với tư cách
thực tại độc lập, ngay từ đầu chỉ có những cái định trước, vấn đề được giải quyết
thông qua tư duy. Kinh nghiệm xuất hiện với tư cách là kết quả phát triển của tư
duy đang triển khai những cấu trúc tiên nghiệm của mình [147].
Kant giữ một lập trường đặc biệt trong vấn đề này, khơng thể coi nó là duy
nghiệm hay duy lý. Ông phân biệt tri giác và kinh nghiệm. Theo ơng, tri giác khơng
địi hỏi tư duy, mà chỉ đòi hỏi tổ chức cảm giác nhờ các hình thức khơng gian và thời
gian tiên nghiệm. Song kinh nghiệm chỉ khả thể trên cơ sở áp dụng các phạm trù tiên
nghiệm của giác tính vào tri giác cảm tính, tức nó là kết quả hoạt động kiến tạo của
tư duy. Tư duy tạo ra tri thức đòi hỏi tổng hợp tính đa dạng cảm tính bằng phạm trù.
Tổng hợp như vậy là khả thể trong trường hợp khoa học tự nhiên thuần tuý (khoa học
có quan hệ với kinh nghiệm bên ngồi) và tốn học thuần t (tốn học có quan hệ
với các hình thức tri giác cảm tính tiên nghiệm). Nó là khơng khả thể trong trường
hợp siêu hình học. Tư duy tồn tại với tư cách là tư duy tiên nghiệm trong toán học



15

thuần tuý và trong các bộ phận lý thuyết xuất phát của khoa học tự nhiên thuần tuý.
Tư duy được thực hiện như là một kết hợp đặc biệt giữa cái tiên nghiệm và cái kinh
nghiệm trong sinh hoạt hàng ngày và trong nhiều bộ phận của khoa học tự nhiên. Cịn
đối với các đối tượng của siêu hình học, thì chỉ có thể tư duy về chúng, nhưng tư duy
này khơng hữu hiệu, vì nó khơng thể tạo ra tri thức [138].
Hiện tượng học giữ một lập trường độc ấn trong vấn đề này. Theo Husserl,
những sản phẩm của tư duy chỉ có thể được coi là chân thực trong trường hợp nội
dung của chúng trùng hợp với cái được đem lại cho chủ thể như những hiện tượng
(phénomène) trong hành vi thể nghiệm tính hiển nhiên. Với hiện tượng học, tư duy
không kiến tạo kinh nghiệm, mà phụ thuộc vào những hiện tượng được kinh nghiệm
đem lại. Nhưng những hiện tượng này do các cấu trúc tiên nghiệm của ý thức siêu
nghiệm kiến tạo. Với quan niệm như vậy, các cấu trúc phạm trù của tư duy cũng có
thể được trực giác trực tiếp (“thấu niệm bản chất bằng trực giác”) [141].
Phát triển của triết học, tâm lý học nhận thức và nhận thức luận hiện đại
dẫn đến hàng loạt kết luận về quan hệ giữa tư duy và kinh nghiệm [139]. Một là
không thể tách biệt nội dung kinh nghiệm thuần tuý của tri thức, nội dung không
phụ thuộc vào các lược đồ, các khuôn mẫu, các phạm trù xác định (một số trong
chúng có thể là bẩm sinh). Hồn tồn có cơ sở xem xét việc sử dụng chúng là
những hành vi tư duy. Do vậy, trực giác có thể được hiểu là q trình giải quyết
những vấn đề trí tuệ gắn liền với việc sử dụng những giả thuyết cảm tính. Trực
giác được xem là việc rút ra thơng tin từ thế giới bên ngồi, điều này đòi hỏi tác
động của các đối tượng bên ngồi đến chủ thể. Tuy nhiên, theo các cơng trình
nghiên cứu hiện đại, việc rút ra thông tin bằng trực giác chỉ là khả thể dựa trên
hoạt động tích cực của chủ thể bộc lộ ra ở trong những hành vi bên ngoài, cũng
như ở trong việc sử dụng các lược đồ thu thập thông tin. Do vậy, khi hợp nhất tính
thụ động và tính tích cực của chủ thể thành một chỉnh thể, trực giác thể hiện là
một hình thức đặc biệt của tư duy. Hai là, tư duy và kinh nghiệm tương tác với
nhau. Một mặt, các kết quả của hoạt động tư duy được sử dụng theo cách nào đó

trong kinh nghiệm và được kiểm tra tính hữu dụng ở trong quá trình này (mặc dù


16
các phương thức xác định tính hữu dụng đó là rất phức tạp). Mặt khác, bản thân
kinh nghiệm bị phê phán, thay đổi và xét lại dựa trên tiến bộ của tư duy. Do vậy
có các kiểu kinh nghiệm khác nhau, khơng quy được về nhau và có các kiểu tư
duy tương ứng với chúng: kinh nghiệm hàng ngày và tư duy hàng ngày, quan sát
khoa học và hoạt động tư duy tương ứng, thí nghiệm với tư cách một phương thức
tư duy đặc biệt và chỉ khả thể dựa trên tư duy lý thuyết. Ba là, khơng có khác biệt
triệt để giữa tư duy trong khuôn khổ kinh nghiệm và tư duy ở bên ngồi khn
khổ ấy. Bất kỳ kinh nghiệm nào cũng đòi hỏi các lược đồ tư duy nằm ngoài kinh
nghiệm. Mặt khác, cả trong các khoa học nằm ngồi kinh nghiệm cũng có các
phán đốn, khước từ cái có cảm tưởng là hiển nhiên.
Thứ hai, các tác giả đi sâu vào nghiên cứu tính chất lịch sử của tư duy. Họ
cố gắng làm sáng tỏ các lĩnh vực đối tượng trong đó tư duy là khơng khả thể và
các phương thức tư duy không tạo ra tri thức, mà đưa tư duy vào bế tắc. Xét về
phương diện này, tư duy một cách tự giác là khác với trực giác. Nếu coi trực giác
không đơn giản đem lại một cái thực tại nào cho ý thức, mà là sản phẩm hoạt động
tích cực kiến tạo của chủ thể (đây là quan niệm hiện đại), thì dẫu sao vẫn cần phải
thừa nhận rằng tính chất của trực giác không phụ thuộc vào hoạt động ý thức của
chủ thể. Thậm chí con người ý thức được tính chất ảo tưởng của những cái trực
giác, thì nó vẫn khơng thể thay đổi được ảo tưởng dường như do những điều kiện
trực giác cụ thể gán ghép cho nó. Trong khi đó khả năng né tránh ảo tưởng của tư
duy lại phụ thuộc và khả năng người đang tư duy lựa chọn đúng lĩnh vực áp dụng
tư duy và các phương thức tư duy [107].
Các nhà triết học phân tích hiện đại nhấn mạnh rằng, nếu Plato coi tư duy
chỉ có thể dẫn tới tri thức trong trường hợp nó định hướng vào các ý niệm không
phụ thuộc vào kinh nghiệm cảm tính, vì theo ơng, khi quan hệ với các đối tượng
kinh nghiệm thông thường, tư duy chỉ tạo ra ý kiến – một cái bất định, không vững

chắc và vơ căn cứ, thì triết học duy nghiệm châu Âu cận đại lại coi tư duy cần phải
tuân thủ nghiêm ngặt kinh nghiệm – nguồn gốc duy nhất của tri thức, vì trong
trường hợp tư duy xa lánh kinh nghiệm, nó sẽ tạo ra các ảo tưởng. Triết học phân


17
tích nhận thấy một trong các nhiệm vụ cơ bản là vạch trần những vấn đề giả danh
đa dạng (trong triết học và khoa học) sinh ra từ tư duy khơng tự giám sát mình.
Theo đó, tư duy chỉ có nội dung khi những kết luận của nó có thể kiểm chứng
được thơng qua kinh nghiệm cảm tính và khi nó tn thủ các quy tắc của phương
pháp lơgíc. Theo K.Popper, tiêu chí về tính có nghĩa của tư duy là khả năng phủ
chứng về nguyên tắc của giả thuyết do tư duy đưa ra [145].
Theo các đại diện của triết học văn hóa, sự phát triển của triết học, cũng
như sự phát triển lịch sử của khoa học và của văn hóa cho thấy bao giờ cũng có
ranh giới giữa cái có thể tư duy và cái khơng thể tư duy, ranh giới này cũng thường
biến theo lịch sử. Tính khả thể của cái có thể tư duy được định trước bởi một khuôn
khổ lý luận đặc thù của một nền văn hóa. Nói cách khác, việc thay thế khn khổ
lý luận định trước những cái có thể tư duy và những cái không thể tư duy, do sự
phát triển lịch sử của văn hóa và tiến bộ của tri thức khoa học quyết định. Tức là,
tư duy hoàn tồn là hiện tượng của lịch sử văn hóa [144].
Thứ ba, các nhà triết học nước ngoài nhấn mạnh tư duy là hoạt động nội
tâm. Trong lịch sử triết học, bản chất của tư duy được hiểu là suy luận “thầm lặng”.
Suy luận thành lời hay hoạt động thực tế thành công chỉ được xem là biểu hiện
của hoạt động trí tuệ nội tâm. Các nhà triết học duy lý hiểu tư duy là hoạt động
của tâm thần, là đối thoại nội tâm diễn ra trong trí tuệ, dựa trên những ý niệm bẩm
sinh. Các nhà triết học duy nghiệm coi hoạt động trí tuệ chỉ là khả thể dựa trên
những biểu tượng như những sao chép của cảm giác và thơng qua hình ảnh trong
lời nói. Hàng loạt trào lưu triết học và tâm lý học hiện đại kịch liệt phê phán quan
niệm như vậy. Theo họ, tư duy diễn ra dưới các hình thức khác nhau, chứ khơng
chỉ trong trí tuệ. Tư duy có thể diễn ra dựa trên trực giác về những đối tượng ngoại

tâm hay các hệ thống ký hiệu đặc biệt được đem lại cho chủ thể từ bên ngoài: dưới
dạng văn bản, các lược đồ vẽ trên giấy, v.v… Tư duy thường đòi hỏi hoạt động
hiện thực cùng với các lược đồ ấy hay thậm chí hoạt động bên ngồi cùng với
những đối tượng hiện thực. Tư duy thậm chí có thể diễn ra dưới dạng những câu
nói của một người riêng biệt, cũng như của một số người đàm thoại đang suy luận


18
cùng nhau. Đồng thời quan niệm về tồn tại của một thế giới ý thức “nội tâm” đặc
biệt, khác về nguyên tắc so với hoạt động của con người ở thế giới bên ngồi và
với những tương tác của nó với những người khác, đã làm cho nhiều người hoài
nghi. Vì chúng ta khơng biết có thể lĩnh hội được những biểu tượng nằm trong thế
giới ý thức như thế nào và ai có thể lĩnh hội chúng và phân tích chúng như thế nào.
Do vậy, Witgenstein và J.Ryle đã đưa ra tư tưởng cho rằng các hình thức chủ yếu
của tư duy chính là những hoạt động bên ngồi và những suy luận thành lời dựa
trên ngơn ngữ. Nói cách khác, tư duy trước hết là hoạt động công khai. Cịn đối
với tư duy “thầm kín”, thì nó khơng phải cái gì khác như là khả năng của những
hành động bên ngoài trong tương lai và của những lời nói. Theo J.Ryle, quan niệm
về tồn tại của một thế giới “nội tâm” đặc biệt là một thần thoại [146].
Tuy nhiên, một quan điểm khác lại thống trị trong nhận thức luận hiện đại
là nhận thức luận căn cứ trên những nghiên cứu trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và
những kết quả của tâm lý học nhận thức. Tất nhiên, khơng có một thế giới ý thức
đặc biệt tự khép kín như Descartes quan niệm. Nhưng tư duy như hoạt động trong
trí tuệ đồng thời cũng lại là một thực tế. Thực tế này có thể được hiểu là việc phân
tích những lược đồ nhận thức nhằm rút ra thơng tin từ thế giới bên ngồi và những
nghĩa có trong ngôn ngữ. Các lược đồ nhận thức chủ yếu xuất hiện dựa trên cơ sở
tương tác hiện thực với thế giới. Nhưng một số lược đồ lại mang tính bẩm sinh.
Những nghĩa trong ngôn ngữ được nắm bắt dựa trên cơ sở làm chủ ngơn ngữ trong
q trình giao tiếp với những người khác. Đồng thời một số cấu trúc ngơn ngữ có
thể mang tính bẩm sinh. Tất nhiên, những hoạt động ngoại tâm thành công, giao

tiếp và hoạt động trong trí tuệ địi hỏi lẫn nhau [150].
Thứ tư, chủ đề tiếp theo của triết học về tư duy là quan hệ giữa cái hữu thức
và cái vô thức trong tư duy (tư duy về tư duy). Các nhà triết học hiện đại cho rằng,
mệnh đề “Tôi tư duy, vậy tơi tồn tại” của R.Descartes chỉ có nghĩa là ý thức về đối
tượng của tư duy và về bản thân sự kiện tư duy, chứ khơng có nghĩa là ý thức cấp
một về các phương thức tư duy. Ý thức cấp hai chỉ xuất hiện trong các tình huống
đặc biệt, khi mà chủ thể hoài nghi các phương thức tư duy trước đó là hiển nhiên


×