ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Viện Thương Mại và Kinh Tế Quốc Tế
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam và những giải pháp nâng cao
hiệu quả đầu tư
Lớp: Kinh Tế Quốc Tế 52D
Nhóm sinh viên thực hiện:
Phạm Mạnh Chiến
Nguyễn Khánh Linh
Ngô Thị Ngọc Quyên
Nguyễn Phương Thảo (*)
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Vũ Đoàn Quỳnh Trang
Hoàng Đức Trung ( dân tộc Nùng )
Lời mở đầu
Đầu tư ra nước ngoài là vấn đề mang tính chất toàn cầu và là xu thế của các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới nhằm mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng
hơn, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa, tránh được chế
độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng được quota xuất khẩu của nước sở tại để mở rộng thị trường,
đồng thời, tăng cường khoa học kỹ thuật, nâng cao nâng lực quản lý và trình độ tiếp thị với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào nhu cầu và điều kiện của mỗi nước mà đầu tư ra nước
ngoài cân bằng và đồng hành với đầu tư nước ngoài. Vì vậy, dòng vốn đầu tư giữa các nước phát triển sang
các nước đang phát triển biến động từng năm tùy thuộc nhu cầu và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi nước.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng, trung bình 7% mỗi năm, Việt
Nam ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp có khả năng tài chính cũng như kinh nghiệm để đầu tư ra nước
ngoài. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng nhận thức được lợi ích của việc đầu tư ra nước ngoài
trong bối cảnh hội nhập sâu vào đời sống kinh tế khu vực và quốc tế. Nhất là khi Việt Nam chính thức là
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt
động đầu tư, thương mại của doanh nghiệp, trong đó có hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Có thể nói rằng hoạt động đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam đang ngày càng trở nên sôi nổi. Dòng
vốn Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam hiện đã được "định vị" tại hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các
doanh nghiệp Việt Nam đã không chỉ duy trì, mở rộng những thị trường truyền thống mà còn khai phá thành
công một số thị trường mới. Không chỉ thay đổi về lượng mà đầu tư ra nước ngoài còn chuyển biến về chất
khi nhiều dự án chuyển từ quy mô nhỏ, ngành nghề đơn giản, sang các dự án quy mô lớn, đòi hỏi trình độ
kỹ thuật cao, kinh nghiệm quản lý và hoạt động
Nhằm đi sâu tìm hiểu về tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam cũng như những vấn đề liên
quan đến cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, nhóm chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “ Thực
trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam và những giải pháp nâng cao hiệu quả
đầu tư”. Chúng tôi mong rằng qua đề tài này, chúng tôi sẽ có được cái nhìn toàn diện hơn, cụ thể, chi tiết
2
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
hơn về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam - một hoạt động đang ngày càng được chính phủ
khuyến khích và các doanh nghiệp quan tâm.
Mục lục
Chương 1: Một số khái niệm về đầu tư nước ngoài 5
I. Khái niệm về đầu tư 5
1.Khái niệm 5
2.Đầu tư quốc tế và các nguồn vốn nước ngoài khác 6
3.Đầu tư quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế 7
II. Vai trò, hậu quả của hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với nước xuất
khẩu vốn 8
Chương 2: Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam 10
I. Cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài: 10
1.Một số nét tổng quan về hệ thống pháp luật, chính sách quy định hoạt động Đầu tư ra nước ngoài của
Việt Nam 10
1.1. Giai đoạn từ năm 1999 đến trước năm ban hành Luật đầu tư chung 2005 10
1.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 13
2.Cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài 15
2.1. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài 15
2.2. Cơ chế chuyển tiền ra nước ngoài trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài 16
2.3. Nghĩa vụ thuế đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài 17
2.3.1. Thuế xuất nhập khẩu: 17
2.3.1. Thuế giá trị gia tăng: 18
2.3.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp: 18
2.4. Quy định về đưa lao động ra nước ngoài trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam: 19
II. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam: 22
1.Khái quát tình hình đầu tư ra nước ngoài giai đoạn trong những năm gần đây 22
1.1. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam 22
1.2. Tình hình đầu tư ra nước ngoài phân theo nước tiếp nhận đầu tư 24
1.3. Tình hình đầu tư ra nước ngoài phân theo ngành 29
3.1. Tình hình triển khai thực hiện các dự án 31
2.Hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài 33
3.Thời cơ và thách thức với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài 36
Chương 3: Giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài 40
I. Giải pháp ở tầm vĩ mô 40
1.Về công tác quản lý 40
2.Về cung cấp thông tin 41
3
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
3.Về chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước 42
3.1. Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư 42
3.2. Chính sách ưu đãi về thuế 42
3.3. Về thực hiện các hiệp định, thỏa thuận song phương, đa phương 42
3.4. Về đào tạo lao động 42
3.5. Về chiến lược hỗ trợ đầu tư dài hạn 42
II. Về phía các doanh nghiệp 43
Phụ lục
PHỤ LỤC 1: NGHỊ ĐỊNH 78/2006/NĐ-CP : QUY ĐỊNH VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
PHỤ LỤC 2: THÔNG TƯ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Số: 01/2001/TT-NHNN
HƯỚNG DẪN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
PHỤ LỤC 3: THÔNG TƯ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM SỐ 04/2005/TT-NHNN NGÀY
26 THÁNG 8 NĂM 2005 VỀ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG KHOẢN 6 MỤC III THÔNG TƯ SỐ
01/2001/TT-NHNN NGÀY 19/1/2001 HƯỚNG DẪN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
PHỤ LỤC 4: THÔNG TƯ 10/2006/TT-NHNN HƯỚNG DẪN VIỆC TỔ CHỨC TÍN DỤNG CHO
KHÁCH HÀNG VAY ĐỂ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
PHỤ LỤC 5: THÔNG TƯ CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 11/2010/TT-BTC VỀ HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ THUẾ ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ VIỆT NAM ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
PHỤ LỤC 6: NGHỊ ĐỊNH SỐ 87/2010/NĐ-CP NGÀY 13 THÁNG 8 NĂM 2010 CỦA CHÍNH PHỦ
QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ
NHẬP KHẨU
PHỤ LỤC 7: LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
PHỤ LỤC 8: LUẬT NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP
ĐỒNG (NĂM 2006)
4
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Chương 1: Một số khái niệm về đầu tư nước ngoài
I. Khái niệm về đầu tư
1. Khái niệm
Cho đến nay, đầu tư không phải là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là đối với những
người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại được hiểu rất khác nhau.
Có người cho rằng đầu tư tức là phải bỏ ra một cái gì đó vào một việc nhất định để thu lại lợi ích trong
tương lai. Nhưng cũng có người quan niệm rằng đầu tư là hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi
nhuận. Thậm chí thuật ngữ này còn được sử dụng rộng rãi, như câu nói cửa miệng để nói lên sự chi phí về
thời gian, sức lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc sống.
Vậy đầu tư là gì? Những đặc trưng nào quyết định một hoạt động được gọi là đầu tư? Mặc dù vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng có thể đưa ra một khái niệm cơ bản về đầu tư được
nhiều người thừa nhận là "Đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất
đai… vào một hoạt động kinh tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi
nhuận". Người bỏ ra một lượng tài sản được gọi là nhà đầu tư hoặc chủ đầu tư. Đối tượng được bỏ tài sản
vào đầu tư thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư hoặc chủ đầu tư. Chủ đầu tư có thể là các tổ chức, cá nhân và
cũng có thể là nhà nước.
Có hai đặc trưng quan trọng để phân biệt một hoạt động được gọi là đầu tư hay không, đó là: tính
sinh lãi, rủi ro của công cuộc đầu tư. Thực vậy, người ta không thể bỏ ra một lượng tài sản vào một việc mà
lại không dự tính thu được giá trị cao hơn giá trị ban đầu. Tuy nhiên, nếu hoạt động đầu tư nào cũng sinh lãi
thì trong xã hội ai cũng muốn trở thành nhà đầu tư. Chính hai thuộc tính này đã sàng lọc các nhà đầu tư và
thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển.
Chủ đầu tư tiến hành công cuộc đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể bỏ ra một lượng tài
sản đủ lớn để lập ra cơ sở sản xuất mới hoặc mua lại các cơ sở sản xuất hiện có và trực tiếp quản lý các tài
sản đó. Hình thức này được gọi là đầu tư trực tiếp hay đầu tư phát triển. Thời gian đầu tư thường là trung và
dài hạn. Trái lại, nếu chủ đầu tư bỏ ra tài sản (chủ yếu dưới dạng vốn) để mua các chứng chỉ có giá như cổ
phiếu, trái khoán… nhằm hưởng lợi tức, mà không trực tiếp quản lý tài sản của mình thì gọi là đầu tư gián
tiếp hay đầu tư tài chính. Thời gian đầu tư thường là ngắn hạn.
Sự phân biệt giữa hai hình thức đầu tư nói trên có tính tương đối. Bởi vì, ngày nay do sự phát triển
của thị trường tài chính nên tài sản của nhiều doanh nghiệp không phải chỉ thuộc sở hữu của một người mà
thuộc về nhiều người. Vì thế, nếu người nào có giá trị cổ phiếu nhưng lại có tỷ phần cao hơn nhiều so với
các cổ đông khác thì người đó có quyền được tham gia quản lý trực tiếp doanh nghiệp. Khi đó, họ từ những
người đầu tư gián tiếp chuyển sang đầu tư trực tiếp. Ngược lại, những người đang trực tiếp quản lý tài sản
của mình tại doanh nghiệp, nhưng khi bị người khác mua lại để mở rộng đầu tư với số vốn áp đảo làm cho
giá trị tài sản của họ không đủ tỷ phần tham gia quản lý trực tiếp thì khi đó họ lại trở thành người đầu tư
gián tiếp. Thực tế cho thấy, các hình thức đầu tư này luôn chuyển hóa, đan xen lẫn nhau và trong nhiều
trường hợp rất khó phân biệt một cách rạch ròi giữa chúng.
Trên cơ sở hiểu được khái niệm cơ bản về đầu tư và hình thức biểu hiện của nó, chúng ta tiếp tục
xem xét thế nào là đầu tư quốc tế, và những đặc điểm riêng của nó. Cho đến nay, mặc dù có không ít khái
niệm khác nhau về đầu tư quốc tế, nhưng khái niệm được nhiều người thừa nhận đó là " Đầu tư quốc tế là
sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý… từ nước này sang nước khác để kinh doanh
5
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu". Nước nhận đầu tư được gọi là nước chủ nhà,
nước đi đầu tư gọi là nước đầu tư.
Như vậy, qua định nghĩa cho thấy bản chất của đầu tư quốc tế là đầu tư, tức là hoạt động tìm kiếm
lợi nhuận bằng con đường kinh doanh của chủ đầu tư. Bởi thế đầu tư quốc tế mang đầy đủ những đặc trưng
của đầu tư nói chung. Tuy nhiên, nó có thêm một số đặc điểm riêng quan trọng khác so với đầu tư nội đia:
- Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài. Đặc điểm này có liên quan đến các khía cạnh về quốc tịch,
luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán…Nói chung, đây là yếu tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu
tư của các chủ đầu tư ở nước ngoài.
- Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới. Đặc điểm này có liên quan chủ yếu đến các khía
cạnh chính sách, pháp luật, hải quan và cước phí vận chuyển.
- Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ. Đặc điểm này có liên quan đến vấn đề tỷ giá hối đoái và các
chính sách tài chính - tiền tệ của các nước tham gia đầu tư.
Khi quyết định đầu tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư phải xem xét rất kỹ các đặc điểm nói trên và
chính từ các đặc điểm khác biệt này thường làm nảy sinh nhiều vấn đề cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu
tư ở nước ngoài.
2. Đầu tư quốc tế và các nguồn vốn nước ngoài khác
Cùng với đầu tư quốc tế, còn có một số dòng lưu chuyển vốn khác giữa các nước như viện trợ phát
triển chính thức (ODA), tín dụng thương mại, vay nợ, dịch vụ…Các nguồn vốn này ngày càng phát triển và
đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, của các nước và đặc biệt là đối với
việc thực hiện công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển.
Viện trợ phát triển chính thức là tất cả các khoản trợ giúp không hoàn lại và có hoàn lại với lãi suất
ưu đãi thấp, thời gian trả nợ dài của chính phủ, các tổ chức của Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức tài chính quốc tế dành cho chính phủ và nhân dân các nước nhận viện trợ.
Mặc dù nguồn vốn viện trợ có mục đích giúp đỡ, không thu lợi nhuận như đầu tư quốc tế, nhưng nó
thường đi kèm theo một số điều kiện nhất định đối với những nước nhận viện trợ và có thể gây ra những
gánh nặng nợ nần cho các nước này. Tuy nhiên, nguồn vốn này lại có vai trò hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của các nước nhận viện trợ. Thông thường, nguồn vốn ODA được sử dụng như những biện pháp
cần thiết hỗ trơ thúc đẩy đầu tư quốc tế ở các nước nhận viện trợ thông qua các hoạt động xây dựng cơ sở hạ
tầng, xúc tiến đầu tư và các trợ giúp kỹ thuật khác. Mặt khác, chiến lược đầu tư của các nước phát triển vào
các nước đang phát triển là cơ sở quan trọng thúc đẩy các nhà tài trợ cung cấp viện trợ cho nước đang phát
triển. Bởi thế, giữa nguồn vốn ODA và đầu tư quốc tế có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và nguồn vốn
này có vai trò to lớn trong thúc đẩy đầu tư quốc tế vào các nước đang phát triển.
Tín dụng thương mại là các khoản tiền vay với lãi suất mềm từ các nước phát triển, các tổ chức tài
chính quốc tế để trợ giúp các hoạt động xuất nhập khẩu của các nước đang phát triển và các bạn hàng của
các nước này. Nguồn vốn này thường tác động trực tiếp đến thúc đẩy thương mại. Tuy nhiên, các hoạt động
đầu tư thường đi kèm với các hoạt động thương mại, nên nguồn vốn này cũng tác động hỗ trợ và thúc đẩy
các hoạt động đầu tư quốc tế.
Các khoản tiền vay giữa các nước, trong đó nhất là nợ tư nhân cũng là nguồn lưu chuyển vốn quốc tế
quan trọng. Thông qua hệ thống ngân hàng, các chính phủ và công ty ở các nước vay tiền lẫn nhau để bù
đắp thiếu hụt cán cân thanh toán, trả lãi suất vay đến kỳ hạn thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất… Nguồn
6
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
vốn này không những thúc đẩy đầu tư quốc tế, mà còn gián tiếp góp phần quan trọng làm ổn định tình hình
kinh tế vĩ mô ở nước nhận đầu tư có mức thâm hụt cán cân, nhờ đó, góp phần tạo ra môi trường đầu tư hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
3. Đầu tư quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế
Nền kinh tế thế giới được hình thành và phát triển thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó
trước hết là thương mại quốc tế. Chính nhờ thương mại quốc tế mà các yếu tố sản xuất có tính lợi thế so
sánh giữa các nước được khai thác có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, hình thức quan hệ kinh tế quốc tế này cũng
có những hạn chế của nó, trong đó nhất là chưa khai thác một cách trực tiếp tiềm năng về lợi thế của các yếu
tố đầu tư ở các nước. Hơn nữa, thương mại quốc tế còn bị ngáng trở bởi hàng rào thuế quan ở nhiều quốc
gia, nhất là ở các nước đang phát triển. Bởi vậy, hình thức đầu tư quốc tế đã ra đời từ nhu cầu vượt qua
những hạn chế và ngáng trở này.
Đầu tư và thương mại là các khâu của quá trình tái sản xuất. Thương mại hoạt động trong khâu lưu
thông, còn đầu tư hoạt động trong khâu sản xuất. Chúng là các khâu nối tiếp nhau trong một quá trình tái
sản xuất. Ở phạm vi ngoài quốc gia, các hoạt động này có mối quan hệ bổ sung hơn là thay thế lẫn nhau.
Bởi thế, khi xem xét các hoạt động đầu tư quốc tế thì không thể không đặt trong mối quan hệ với thương
mại quốc tế. Đặc điểm này càng được biểu hiện rõ khi xem xét tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp
FDI ở các nước đang phát triển.
Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay, rất khó tách bạch giữa chức năng của
các nhà đầu tư và nhà xuất nhập khẩu. Thông thường, các nhà đầu tư đồng thời cũng là các nhà xuất nhập
khẩu và phần lớn các nhà xuất nhập khẩu đều có liên quan trực tiếp đến các hoạt động đầu tư thông qua các
mô hình công ty thương mại tổng hợp. Do đó, việc tách đầu tư ra khỏi thương mại để nghiên cứu có ý nghĩa
ở trạng thái tĩnh với mục đích làm rõ bản chất của đầu tư. Còn trong thế giới hiện thực, ở trạng thái động,
muốn hiểu rõ được các hoạt động đầu tư thì cần phải xem xét trong mối quan hệ với thương mại và các hoạt
động kinh tế quốc tế khác.
Cũng như quan hệ với thương mại quốc tế, các hoạt động đầu tư không thể tách rời với các định chế
tài chính và thị trường vốn quốc tế. Mỗi sự thay đổi định chế về quản lý ngoại hối, lãi suất… của các nước.
đặc biệt ở các nước đang phát triển, sẽ ảnh hưởng đến động thái dòng vốn đầu tư quốc tế. Chẳng hạn, cuối
thập kỷ 80, Nhật Bản và các nước phát triển tăng giá đồng bản tệ và nới lỏng các chính sách quản lý thị
trường vốn của họ đã thúc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài của các nước này. Mặt khác, thông qua thị trường
tài chính quốc tế mà các chủ đầu tư huy động được vốn đầu tư và nhận biết được tín hiệu của thị trường để
quyết định đầu tư. Đặc điểm này được biểu hiện rất rõ trước tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực.
Đầu tư quốc tế có mối quan hệ mật thiết với các hoạt động dịch vụ quốc tế thu ngoại tệ. Cũng giống
như thương mại quốc tế, các hoạt động đầu tư luôn đòi hỏi phải có các dịch vụ hỗ trỡ, trong đó nổi bật nhất
là các dịch vụ về ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, viễn thông, điện nước, cung ứng lao động Nhờ có sự phát
triển của các dịch vụ này mà quá trình đầu tư được tiến hành thông suốt. Ngược lại, đầu tư quốc tế luôn tạo
cầu cho sự ra đời và phát triển của các hoạt động dịch vụ.
Chất lượng dịch vụ là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với thúc đẩy phát triển của
đầu tư quốc tế. Điều này được phản ánh rất rõ tại sao đầu tư quốc tế chỉ hình thành và phát triển khi lực
lượng sản xuất của nền kinh tế thế giới phải phát triển đến một trình độ phát triển nhất định và nó hình thành
muộn hơn thương mại quốc tế. Đầu tư quốc tế là xuất khẩu trực tiếp các yếu tố sản xuất, trong khi thương
7
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
mại quốc tế chỉ xuất khẩu gián tiếp các yếu tố này. Bởi vậy sự phát triển đầu tư quốc tế phụ thuộc rất nhiều
vào số lượng và chất lượng dịch vụ đi kèm.
Như vậy, trên đây chúng ta có thể nhận thấy được một cách rõ ràng là đầu tư quốc tế có mối quan hệ
rất chặt chẽ với các hình thức quan hệ kinh tế quốc tế khác và mối quan hệ giữa chúng có tính chất bổ sung,
hỗ trợ lẫn nhau.
II. Vai trò, hậu quả của hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với nước xuất khẩu vốn
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội cho nước xuất khẩu vốn và cho
những doanh nghiệp hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Đối với quốc gia:
− Giúp củng cố vai trò chính trị và vị thế kinh tế của nước đầu tư trong khu vực và trên thế giới. Nền
kinh tế quốc gia sẽ có điều kiện thuận lợi thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy
nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước đầu tư.
− Khi nước đầu tư xuất khẩu vốn sẽ làm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và công nghệ vì khi đó, họ có
thể khai thác tối đa nguồn vốn và công nghệ này tại các nước nhận đầu tư. Bên cạnh đó, nước đầu tư
còn có thể giảm chi phí xuất khẩu tới thị trường nước đầu tư, tận dụng được lợi thế của nước nhận
đầu tư.
− Thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, quốc gia sẽ có thêm nguồn nguyên liệu, nhiên liệu…
phục vụ cho sự phát triển kinh tế trong nước. Các doanh nghiệp thường tận dụng quy mô và công
nghệ sản xuất của các nước khác, đầu tư vào quá trình sản xuất tại những nước này, để tạo ra nguồn
nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước, trong điều kiện nước đầu tư bị
thiếu công nghệ hoặc không có thế mạnh về loại nguyên liệu, nhiên liệu đó.
− Đầu tư ra nước ngoài tạo tiền đề cho hoạt động kinh tế đối ngoại của nước đầu tư đa dạng và phong
phú, hoạt động ngoại giao đi vào chiều sâu.
− Đầu tư ra nước ngoài thành công sẽ tác động ngược lại nền kinh tế trong nước theo hướng thúc đẩy
công cuộc cải tổ nền kinh tế: về thể chế chính sách, về thuế, về thủ tục hành chính, về hệ thống
thông tin đối ngoại, về chính sách điều hành vĩ mô. Đầu tư nước ngoài còn tạo nguồn thu cho ngân
sách nhà nước thông qua thuế thu nhập, thuế đầu tư
− Đầu tư ra nước ngoài góp phần tạo đội ngũ thương nhân năng động, có kinh nghiệm kinh doanh
quốc tế, góp phần làm tăng năng lực quốc gia.
− Đầu tư ra nước ngoài góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của nước đầu tư theo hướng
ổn định và có hiệu quả hơn vì chính cơ sở sản xuất và dịch vụ ở nước ngoài là điểm đến của hàng
hóa, thiết bị, bí quyết công nghệ (y khoa, chế biến thực phẩm…), nhân công
Đối với doanh nghiệp:
− Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, tìm kiếm cơ hội
đầu tư tốt hơn, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
− Đầu tư ra nước ngoài giúp mở rộng thị trường do khi xuất khẩu ra nước ngoài, các doanh nghiệp có
thể gặp phải những rào cản của nước tiếp nhận đầu tư nhưng khi xuất khẩu thông qua đầu tư trực
tiếp lại không gặp phải trở ngại này ngoài ra còn được hưởng những ưu đãi từ nước tiếp nhận đầu tư.
8
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
− Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp tăng nội lực kinh doanh: tích lũy kinh nghiệm trên
thương trường quốc tế; học hỏi tiếp thu công nghệ và bí quyết công nghệ; sử dụng đội ngũ quản lý
và khoa học kỹ thuật bản xứ…và áp dụng những thành công ở nước ngoài vào hoạt động kinh doanh
của công ty mẹ trong nước.
− Đầu tư ra nước ngoài tạo ra khả năng cho doanh nghiệp thực hiện ”chuyển giá” để giảm thiểu mức
thuế đóng góp cho toàn bộ hệ thống công ty đóng ở các nước khác nhau. Nhờ đó mà tối đa hóa lợi
nhuận thu được.
− Đầu tư ra nước ngoài giúp các công ty phát triển vốn vô hình của mình: thương hiệu, công nghệ, bí
quyết công nghệ. Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh tại thị
trường nước nhận đầu tư do có được ưu đãi từ phía nước này.
− Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp có điều kiện phân tán rủi ro kinh doanh, điều này có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong thế giới đầy biến động về kinh tế – chính trị như hiện nay.
Tóm lại, hoạt động đầu tư ra nước ngoài mang lại rất nhiều lợi ích không chỉ cho doanh nghiệp mà còn
cho đất nước đầu tư, trong hiện tại và tương lai. Vì vậy cần có những giải pháp mang tính chủ động làm cho
hoạt động này phát triển có hiệu quả, và làm giảm tác động hạn chế, những hậu quả của hoạt động đầu tư ra
nước ngoài, cụ thể là:
− Đầu tư ra nước ngoài làm phân tán nguồn lực về tài chính, về con người, giảm nguồn vốn đầu tư và
khả năng tạo việc làm ở trong nước, tăng tỷ lệ thất nghiệp nội địa, không đạt mục đích hiệu quả xã
hội.
− Việc chảy máu chất xám cũng xảy ra do nguồn nhân lực chất lượng cao di chuyển sang nước nhận
đầu tư.
− Quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài không tốt có thể dẫn tới chảy máu ngoại tệ, tạo kẻ hở cho
hoạt động rửa tiền.
− Về mặt nào đó, đầu tư ra nước ngoài làm cho hoạt động kinh tế đối ngoại phức tạp hơn, tốn kém
hơn.
− Đối với doanh nghiệp, đầu tư ra nước ngoài là hoạt động đầu tư phức tạp, nhiều rủi ro, liên quan đến
luật lệ khác biệt, văn hóa, ngôn ngữ, chính trị, xã hội, sắc tộc… Các doanh nghiệp đầu tư thường
phải đối mặt với rủi ro lớn tại nước tiếp nhận đầu tư do hệ thống luật pháp chính sách khác nhau và
các rủi ro về đạo đức.
Tuy có những hạn chế, nhưng tất cả các lợi ích mà hoạt động đầu tư ra nước ngoài mang lại cho đất nước,
cho các doanh nghiệp là không thể phủ nhận. Nếu có những biện pháp khắc phục, phòng tránh những rủi ro,
hạn chế của hoạt động này thì nền kinh tế của đất nước sẽ phát triển rất tốt. Đầu tư ra nước ngoài mang lại
lợi ích cho các nước đi đầu tư lẫn nước tiếp cận đầu tư, cho nên hoạt động này vẫn phát triển và ngày càng
khẳng định vai trò đối với quá trình toàn cầu hóa về kinh tế ở tất cả các nước.
9
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Chương 2: Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
I. Cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài:
1. Một số nét tổng quan về hệ thống pháp luật, chính sách quy định hoạt động Đầu tư ra
nước ngoài của Việt Nam
Trong xu hướng toàn cầu, cùng với việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là phương thức không thể thiếu được của một quốc gia thực hiện chính sách mở cửa để hội nhập kinh
tế quốc tế. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một xu thế tất yếu của các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới nhằm mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tiếp cận gần khách hàng
hơn, tận dụng nguồn tài nguyên bên ngoài để bổ sung cho những thiếu hụt trong nước, tiết kiệm chi phí vận
chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng được quota xuất khâủ của
nước sở tại để mở rộng thị trường; tiếp cận khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ quản lý. Do sớm nhận thức
được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư ra nước ngoài nên chính phủ và các cơ quan quản lý chức năng
đã sớm ban hành các văn bản pháp lý để điều chỉnh hoạt động này nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi
cho các nhà đầu tư và công tác quản lý có hiệu quả hơn.
1.1. Giai đoạn từ năm 1999 đến trước năm ban hành Luật đầu tư chung 2005
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài là một hướng đi mới của các doanh nghiệp Việt Nam, mang lại
nhiều tiềm năng cho doanh nghiệp. Hoạt động này đã bắt đầu diễn ra vào những năm 90, đi tiên phong trong
đầu tư ra nước ngoài là một số doanh nghiệp tư nhân của một số địa phương tại vùng biên giới với một số
nước bạn ( Lào, Campuchia) đã thực hiện dự án đầu tư tại nước bạn theo thoả thuận hợp tác song phương
giữa chính quyền hai nước.
Trước thực tế đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 quy định
đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam để hướng dẫn và quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Như vậy, sau hơn 10 năm thực thi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam pháp luật về đầu tư ra nước ngoài
tại Việt Nam đã bắt đầu hình thành, mở đường cho các hoạt động đầu tư ra nước ngoài sau này. Mặc dù
hành lang pháp lý cho đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam mới được ban hành đầu năm 1999,
thế nhưng trước thời điểm này một số doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Theo Nghị định 22/1999/NĐ-CP thì tại điều 1 nêu rõ: " Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là
việc doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước
ngoài". Nghị định cũng nêu rõ các doanh nghiệp muốn đầu tư ra nước ngoài phải đáp ứng được các điều
kiện là: Dự án đầu tư ra nước ngoài có tính khả thi; Doanh nghiệp không nợ nghĩa vụ tài chính, thuế với nhà
nước. Tại điều 6 có nêu: " Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhưng
có vốn đầu tư ra nước ngoài có giá trị từ 1 triệu đô la Mỹ trở lên phải tuân thủ quy định xin phép đầu tư ra
nước ngoài" – nghĩa là khi muốn đầu tư ra nước ngoài, hai đối tượng nêu trên phải gửi bộ hồ sơ đầu tư ra
nước ngoài dến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xin được xét duyệt cấp giấy phép đầu tư; còn đối với những
doanh nghiệp không thuộc hai đối tượng nêu trên thì chỉ cần đăng ký tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thời hạn
xét duyệt để chấp nhận đăng ký đầu tư hoặc cấp phép đầu tư ra nước ngoài là 30 ngày.
Để triển khai Nghị định 22/1999/NĐ-CP, các Bộ, ngành liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ
thể hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Các văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đó là:
- Thông tư số 01/2001/TT- NHNN ngày 19/01/2001 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn
quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
10
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
- Quyết định số 116/2001/QĐ- TTg ngày 02/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số ưu đãi khuyến
khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí.
- Thông tư số 05/2001/TT- BKH ngày 30/8/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
- Thông tư số 97/2002/TT- BTC ngày 24/10/2002 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
- Thông tư sửa đổi, bổ sung khoản 6, mục III Thông tư số 01/2001/TT-NHNN ngày 19/01/2001 của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam về hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn chịu sự điều chỉnh
của các văn bản pháp lý sau:
- Quyết định số 158 QĐ- CTN ngày 26/01/1994 của Chủ tịch nước về việc phê chuẩn Công ước thành
lập tổ chức Đảm bảo đầu tư đa biên ( MIGA).
- Công ước thành lập tổ chức Đảm bảo đầu tư đa biên ( MIGA).
- Nghị định số 63/1998- NĐ/CP ngày 17/08/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
- Thông tư số 01/1999 TT/ NH- NN ngày 16/04/1999 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi
hành Nghị định số 63/1998- NĐ/CP ngày 17/08/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
- Nghị định số 05/2001/NĐ- CP ngày 17/01/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 63/1998 NĐ-CP ngày 17/08/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
- Quyết định số 61/2001/QĐ-TTg ngày 25/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về nghĩa vụ bán và quyền
mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức.
- Thông tư số 05/2001 TT/ NH- NN ngày 31/05/2001 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi
hành Quyết định số 61/2001/ QĐ- TTg ngày 25/04/2001 của Thủ tướng chính phủ về nghĩa vụ bán và quyền
mua ngoại tệ cảu người cư trú là tổ chức.
- Quyết định số 10/76/2001/QĐ/NH-NN ngày 27/08/2001 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc bổ
sung, sửa đổi một số điểm tại Thông tư số 05/2001/TT/NH-NN ngày 31/05/2001 của Ngân hàng nhà nước
Việt Nam hướng dẫn thi hành Quyết định số 61/2001/QĐ- TTg ngày 25/04/2001 của Thủ tướng chính phủ
về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức.
- Nghị định số 05/2001/NĐ-CP ngày 03/03/2000 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân
Việt Nam.
Ngoài ra còn một số văn bản khác liên quan đến hoạt động xuất, nhập cảnh của công dân Việt Nam do Bộ
công an và Bộ ngoại giao ban hành.
Sự ra đời của các văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã tạo ra một
khung pháp lý cần thiết cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời tạo môi trường ổn
định, thông thoáng nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
Các văn bản pháp lý đưa ra điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài một mặt nhằm kiểm
soát hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này như tại thông tư số 05/2001/TT-BKH
ngày 30/08/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp
11
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Việt Nam có quy định: đối với những dự án đầu tư ra nước ngoài mà chủ đầu tư không thuộc thành phần
kinh tế nhà nước và có vốn đầu tư dưới 1 triệu đô la Mỹ được quy định tại khoản 2 điều 6 Nghị định
22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 của chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam phải lập hồ sơ dự án theo quy trình
đăng ký cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư; còn đối với các dự án đầu tư ra
nước ngoài (không phân biệt quy mô và mục đích đầu tư) và các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế
khác có vốn đầu tư từ 1 triệu đô la Mỹ trở lên phải lập hồ sơ dự án theo quy trình thẩm định cấp giấy phép
đầu tư ra nước ngoài gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tại Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/08/1998 của
chính phủ về quản lý ngoại hối tại chương IV các giao dịch vốn có nêu rõ: " Nhà đầu tư Việt Nam được
chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài. Vốn đầu
tư ra nước ngoài bằng tiền phải chuyển qua tài khoản mở tại ngân hàng". Theo thông tư số 01/2001/TT-
NHNN ngày 19/01/2001 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với đầu tư
ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam quy định về việc mở và sử dụng tài khoản. Để thực hiện dự án
đầu tư ra nước ngoài doanh nghiệp phải mở một tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng được phép hoạt
động ngoại hối. Mọi giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của doanh nghiệp phải thực hiện hông qua tài khoản này; đồng thời trường hợp doanh nghiệp sử
dụng lợi nhuận để tái đầu tư hoặc kéo dài thời hạn đầu tư ở nước ngoài thì sau khi có văn bản chấp thuận
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư doanh nghiệp phải đăng ký với chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố
nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Hàng năm trong thời hạn 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính của
nước tiếp nhận đầu tư, doanh nghiệp phải gửi cho chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố nơi doanh
nghiệp đặt trụ sở chính ( trong đó có bảng tổng kết tài sản và kết quả kinh doanh lãi- lỗ của doanh nghiệp)
có chứng nhận của cơ quan kiểm toán hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư.
Mặt khác, các văn bản pháp lý này cũng đưa ra một số ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư ra nước ngoài như tại thông tư số 97/2002/TT-BTC của bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ
thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Đó là, máy móc, thiết bị, bộ phận rời xuất khẩu
ra nước ngoài để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư tại nước ngoài khi thanh lý hoặc kết thúc dự án và
được nhập khẩu trở lại vào Việt Nam, được miễn thuế nhập khẩu và thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị
gia tăng. Còn đối với thuế thu nhập doanh nghiệp ( hoặc một loại thuế có bản chất tương tự như thuế thu
nhập doanh nghiệp) ở nước ngoài, khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại Việt Nam, doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư ra nước ngoài được trừ số thuế đã nộp ở nước ngoài hoặc đã được đối tác nước tiếp nhận
đầu tư trả thay ( kể cả đối với tiền lãi cổ phần) nhưng số thuế được trừ không vượt quá số thuế thu nhập tính
theo quy định của Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam.
Riêng đối với lĩnh vực dầu khí, theo Quyết định số116/2001/QĐ-TTg ngày 2/8/2001 của Thủ tướng
chính phủ về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí. Chính phủ
áp dụng một số ưu đãi, khuyến khích đối với hình thức đầu tư 100% vốn hoặc góp vốn theo tỷ lệ tham gia
trong lĩnh vực hoạt động dầu khí bao gồm: tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí; kể cả các
hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động dầu khí và khi xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp tại Việt Nam đối với các dự án dầu khí đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp được trừ số thuế thu nhập
doanh nghiệp đã nộp ở nước ngoài hoặc đã được nước tiếp nhận đầu tư trả thay ( có chứng từ hợp lệ).
Các văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho các
doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời nó cũng khơi thông một dòng chảy mới về vốn đầu tư. Song, do được
ban hành ngay sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam đang giảm sút, pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nhìn chung mang tính thận trọng, tính kiểm soát
hơn là tính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, cụ thể là:
12
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
- Trong giai đoạn này, Nghị định số 22/1999/NĐ-CP là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy định về
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam; chủ trương khưyến khích đầu tư ra nước ngoài
chưa được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và pháp luật. Chính vì vậy, nội dung chính của Nghị định
số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành là quy định về các trình tự thủ tục để phục vụ cho
công tác quản lý nhà nước.
- Thủ tục hành chính trong việc cấp phép đầu tư ra nước ngoài tương đối phức tạp, kéo dài nhất là đối
với trường hợp sử dụng vốn nhà nước. Mặc dù Nghị định số 22/1999/NĐ-CP quy định quy trình đăng ký và
thẩm định cấp giấy phép đầu tư nhưng phạm vi áp dụng quy trình thẩm định rất rộng; nhiều trường hợp phải
trình thủ tướng chính phủ trước khi cấp giấy phép đầu tư.
- Ngoại trừ một số quy định liên quan đến nguyên tắc tránh đánh thuế trùng và chính sách ưu đãi đầu tư
ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí, pháp luật về đầu tư ra nước ngoài không quy định chính
sách khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài
- Trong giai đoạn này, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc chuyển vốn ra nước ngoài để
thực hiện đầu tư cũng như việc chuyển lợi nhuận về nước. Đối với những doanh nghiệp muốn đầu tư ra
nước ngoài nhưng hạn chế về nguồn vốn thì lại chưa có một cơ chế nào quy định về việc cho vay ngoại tệ
để đầu tư ra nước ngoài.
- Đối tượng được phép đầu tư ra nước ngoài chỉ bao gồm các doanh nghiệp Việt Nam; các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài tuy không bị cấm đầu tư ra nước ngoài nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh
của Nghị định 22/1999/NĐ-CP mà theo quy định riêng của chính phủ. Tuy nhiên trên thực tế, Chính phủ
cũng không ban hành bất cứ một văn bản pháp lý nào quy định về việc đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Khung pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nói trên phù hợp với giai đầu khi ta đầu tư ra nước ngoài chưa có
kinh nghiệm và số lượng dự án đầu tư ra nước ngoài còn ít, quy mô vốn chưa lớn. Tuy nhiên, trước yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế, Đại Hội IX của Đảng tháng 4 năm 2001 đã chính thức xác định chủ trương: "
Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài", nhà nước có vai
trò " Tạo ra khuôn khổ pháp lý nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài để phát huy lợi thế so
sánh của đất nước". Chủ trương nêu trên đã nhanh chóng tác động đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, khi số lượng các dự án cũng như quy mô các dự án tăng lên thì khung
pháp luật trên đã bộc lộ những hạn chế gây khó khăn, lúng túng cho nhà đầu tư khi đem vốn, tài sản đi đầu
tư ở nước ngoài; mặt khác không đảm bảo thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động này.
1.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Trước những khó khăn của các doanh nghiệp đang gặp phải cũng như công tác quản lý của nhà nước
không được đảm bảo. Năm 2005 Luật đầu tư được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005,
thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư đã dành hẳn một chương quy định về hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Đến năm 2006, nhằm kế thừa và phát huy có chọn lọc
những mặt tích cực và khắc phục hạn chế của hệ thống luật hiện hành về đầu tư ra nước ngoài và nâng cao
quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp, Nghị định 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam được Chính phủ ban hành ngày 09/8/2006 ( thay thế Nghị định số
22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999) với mục tiêu chính là:
13
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
- Phù hợp với thực tiễn hoạt động và yêu cầu của hoạt động đầu tư ra nước ngoài; cho phép các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động đầu tư ra nước ngoài bình đẳng như các doanh
nghiệp Việt Nam.
- Quy định rõ ràng, cụ thể và minh bạch hơn các vấn đề liên quan đến thủ tục đầu tư theo hướng giảm
thiểu sự can thiệp của nhà nước và tăng quyền chủ động cho doanh nghiệp;
- Tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước và xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
Tinh thần chung của Nghị định 78/2006/NĐ-CP là quy định các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đều có quyền đầu tư ra nước ngoài, có
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, được lựa chọn hay thay đổi hình thức tổ chức quản
lý nội bộ, hình thức đầu tư thích ứng với yêu cầu kinh doanh và được pháp luật Việt Nam bảo hộ; giảm
thiểu các quy định mang tính "xin- cho" hoặc "phê duyệt" bất hợp lý, trái với nguyên tắc tự do kinh doanh,
gây phiền hà cho hoạt động đầu tư, nhưng có tính đến lộ trình cam kết trong các thoả thuận song phương và
đa phương trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc.
Như vậy, khuôn khổ pháp lý của hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã dần được hoàn thiện hơn thông
qua ban hành Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài được
hướng dẫn cụ thể, rõ ràng tại Quyết định số 1175/2007/QĐ-BKH ngày 10/10/2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP, ngày 21/12/2006, Ngân hàng nhà nước
Việt Nam (NHNN) đã ban hành thông tư số 10/2006/TT- NHNN hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho khách
hàng vay vốn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các tổ chức tín
dụng được phép hoạt động ngoại hối được cho vay để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với điều kiện: dự án
đầu tư không thuộc danh mục các lĩnh vực bị cấm, hạn chế đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do Thủ tướng
Chính phủ quy định; có vốn chủ sở hữu ( bao gồm: vốn của chủ sở hữu, các quỹ và lợi nhuận chưa phân
phối) tham gia vào tổng mức vốn đầu tư của dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của tổ chức
tín dụng. Các tổ chức tín dụng cũng được xem xét, quyết định cho khách hàng vay vốn để đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm
về quyết định của mình. Trường hợp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của khách hàng vay hoặc bên thứ ba ở
nước ngoài, tài sản của pháp nhân được hình thành từ dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì các bên thực
hiện theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư ( nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng
không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam); tổ chức tín dụng nhận bảo đảm bằng tài sản
ở nước ngoài phải có khả năng quản lý tài sản trong quá trình cho vay, xử lý được tài sản đó để thu hồi nợ,
khi khách hàng vay không trả được nợ.
Ngày 25/7, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 121/2007/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài trong hoạt động dầu khí. Theo đó, Thủ tướng chấp thuận đầu tư với các dự án dầu khí sử dụng
vốn Nhà nước từ 1000 tỷ đồng trở lên hoặc vốn của các thành phần kinh tế khác từ 3000 tỷ đồng trở lên.
Các dự án dầu khí không thuộc quy định trên do đại diện chủ sở hữu hoặc nhà đầu tư quyết định.
Với việc ban hành, sửa đổi bổ sung một số văn bản đã tạo ra khung pháp luật thông thoáng hơn, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam vững bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
14
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
2. Cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài
2.1. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài
Cơ sở pháp lý:
- Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
- Luật Đầu tư năm 2005.
- Luật của nước tiếp nhận đầu tư
- Nghị định 108/2006/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều Luật Đầu Tư.
Điều kiện đầu tư ra nước ngoài:
Theo quy định tại điều 76 Luật Đầu tư, để được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp, nhà
đầu tư phải có các điều kiện sau đây:
- Có dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam.
- Tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đối với các trường hợp sử dụng
vốn nhà nước để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Cơ quan thụ lý:
Nhà đầu tư làm thủ tục đầu tư tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cụ thể tại Cục Đầu tư Nước ngoài- Bộ Kế hoạch
và Đầu tư.
Quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư:
Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt Nam
o Hồ sơ dự án đầu tư gồm:
- Dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Văn bản đăng ký dự án đầu tư.
- Bản sao có công chứng: Giấy chứng nhận đầu tư; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;hoặc
Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; hoặc Giấy phép đầu tư.
- Hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc hợp tác
đầu tư đối với dự án đầu tư có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
- Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông về việc
đầu tư trực tiếp ra nước.
o Thủ tục đăng ký và thời gian cấp Giấy chứng nhận đầu tư:
- Hồ sơ: 03 bộ (có 01 bộ hồ sơ gốc)
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản
đề nghị nhà đầu tư giải trình về nội dung cần phải được làm rõ (nếu có).
15
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
- Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp
Giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời sao gửi các Bộ, ngành và địa phương liên quan.
- Trường hợp hồ sơ dự án đầu tư không được chấp thuận, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản thông
báo và nêu rõ lý do gửi nhà đầu tư.
Đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên
o Hồ sơ dự án đầu tư gồm:
- Dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Văn bản đề nghị thẩm tra dự án đầu tư.
- Bản sao có công chứng: Giấy chứng nhận đầu tư; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; hoặc Giấy phép đầu tư.
- Văn bản giải trình về dự án đầu tư gồm các nội dung sau: mục tiêu đầu tư; địa điểm đầu tư; quy
mô vốn đầu tư; nguồn vốn đầu tư; việc sử dụng lao động Việt Nam (nếu có); việc sử dụng nguyên
liệu từ Việt Nam (nếu có); tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
- Hợp đồng hoặc bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc cùng hợp tác
đầu tư đối với trường hợp có đối tác khác cùng tham gia đầu tư.
- Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông về việc
đầu tư ra nước ngoài.
o Thời gian thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư:
- Đối với các dự án đầu tư phải được sự chấp thuận đầu tư của Thủ tướng Chính phủ: Trong thời
hạn 25 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng
Chính phủ ý kiến thẩm định bằng văn bản kèm theo hồ sơ dự án đầu tư và ý kiến bằng văn bản của
các cơ quan có liên quan để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
- Đối với các dự án đầu tư không quy định phải được sự chấp thuận đầu tư của Thủ tướng Chính
phủ: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy
chứng nhận đầu tư.
Xem PHỤ LỤC các văn bản sau:
o PHỤ LỤC 1: NGHỊ ĐỊNH 78/2006/NĐ-CP : QUY ĐỊNH VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
2.2. Cơ chế chuyển tiền ra nước ngoài trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Theo Nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam và
Thông tư số 01/2001/TT-NHNN ngày 19/1/2001 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn về quản lý ngoại hối
với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, để thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài,
doanh nghiệp phải mở một tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng Việt Nam được phép hoạt động ngoại
hối. Mọi giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp phải thực hiện thông qua tài khoản này trong đó có việc góp vốn đầu tư.
16
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Doanh nghiệp phải đăng ký với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở chính về việc
mở tài khoản ngoại tệ và tiến độ chuyển vốn ra nước ngoài. Hồ sơ gồm:
- Đơn đăng ký tài khoản và chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài (theo mẫu);
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (bản sao có công chứng);
- Giấy phép đầu tư ra nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (bản sao có công chứng);
- Văn bản chấp thuận đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư cấp (kèm bản dịch tiếng Việt có dấu và chữ ký xác
nhận của giám đốc hoặc tổng giám đốc);
- Văn bản quy định tiến độ góp vốn đầu tư (ghi trong điều lệ hoặc hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác
kinh doanh đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư phê duyệt (nếu có) hoặc bản dự kiến
tiến độ góp vốn đầu tư của doanh nghiệp được phép đầu tư ra nước ngoài).
Doanh nghiệp chỉ được phép sử dụng nguồn ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của mình mở tại ngân hàng
được phép để chuyển ra nước ngoài góp vốn đầu tư trên cơ sở quy định tại giấy phép đầu tư do cơ quan có
thẩm quyền cấp.
Xem PHỤ LỤC các văn bản sau:
o PHỤ LỤC 2: THÔNG TƯ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Số: 01/2001/TT-NHNN
HƯỚNG DẪN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
o PHỤ LỤC 3: THÔNG TƯ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM SỐ 04/2005/TT-NHNN
NGÀY 26 THÁNG 8 NĂM 2005 VỀ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG KHOẢN 6 MỤC III THÔNG TƯ SỐ
01/2001/TT-NHNN NGÀY 19/1/2001 HƯỚNG DẪN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
o PHỤ LỤC 4: THÔNG TƯ 10/2006/TT-NHNN HƯỚNG DẪN VIỆC TỔ CHỨC TÍN DỤNG CHO
KHÁCH HÀNG VAY ĐỂ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
2.3. Nghĩa vụ thuế đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
2.3.1. Thuế xuất nhập khẩu:
• Máy móc, thiết bị, bộ phận rời, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu do nhà đầu tư xuất khẩu ra nước ngoài để
tạo tài sản cố định của dự án đầu tư tại nước ngoài thực hiện theo quy định của Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu hiện hành.
• Hàng hóa xuất khẩu dưới hình thức tạm xuất, tái nhập để thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài, khi xuất
khẩu thực hiện kê khai, nộp thuế xuất khẩu theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, nếu tái nhập thì không phải nộp thuế nhập khẩu và được xét hoàn lại số thuế xuất khẩu đã nộp
(nếu có) tương ứng với số hàng hóa thực tế đã tái nhập khẩu.
• Máy móc, thiết bị, bộ phận rời xuất khẩu ra nước ngoài để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư tại nước
ngoài, khi thanh lý hoặc kết thúc dự án nếu được nhập khẩu trở lại Việt Nam thì được xét hoàn thuế xuất
khẩu đã nộp (nếu có) tương ứng với số lượng hàng hóa thực tế tái nhập và không phải nộp thuế nhập
khẩu.
17
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
• Hàng hóa được chia khi thanh lý hoặc kết thúc dự án đầu tư tại nước ngoài do đầu tư bằng tiền; hàng
hóa là phần được chia doanh thu hoặc lợi nhuận của dự án đầu tư tại nước ngoài nhập khẩu vào Việt
Nam là đối tượng áp dụng thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
2.3.1. Thuế giá trị gia tăng:
• Hàng hóa là máy móc, thiết bị, bộ phận rời và vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu (trừ tài nguyên, khoáng sản
khai thác chưa qua chế biến thành sản phẩm khác) xuất khẩu ra nước ngoài để tạo tài sản cố định của dự
án đầu tư tại nước ngoài được áp dụng thuế giá trị gia tăng với thuế suất 0%, được khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào như hàng hóa xuất khẩu theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
• Hàng hóa xuất khẩu dưới hình thức tạm xuất, tái nhập để thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài thuộc đối
tượng không chịu thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu.
• Hàng hóa là máy móc, thiết bị, bộ phận rời xuất khẩu ra nước ngoài để tạo tài sản cố định của dự án đầu
tư ra nước ngoài, khi thanh lý hoặc kết thúc dự án nếu được phép nhập khẩu trở lại Việt Nam; hàng hóa
được chia khi thanh lý hoặc kết thúc dự án đầu tư tại nước ngoài do đầu tư bằng tiền; hàng hóa là phần
được chia doanh thu hoặc lợi nhuận của dự án đầu tư tại nước ngoài, nhập khẩu vào Việt Nam, là đối
tượng áp dụng thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành như đối với
hàng hóa nhập khẩu thông thường khác.
2.3.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp:
• Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để tính và kê khai thuế đối với các khoản thu nhập từ nước
ngoài là 25%, không áp dụng mức thuế suất ưu đãi (nếu có) mà doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài đang được hưởng theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành.
• Trường hợp khoản thu nhập từ dự án đầu tư tại nước ngoài đã chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (hoặc
một loại thuế có bản chất tương tự như thuế thu nhập doanh nghiệp) ở nước ngoài, khi tính thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp tại Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài được trừ số
thuế đã nộp ở nước ngoài hoặc đã được đối tác nước tiếp nhận đầu tư trả thay (kể cả thuế đối với tiền lãi
cổ phần), nhưng số thuế được trừ không vượt quá số thuế thu nhập tính theo quy định của Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp của Việt Nam. Số thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài được
miễn, giảm đối với phần lợi nhuận được hưởng từ dự án đầu tư ở nước ngoài theo luật pháp của nước
doanh nghiệp đầu tư cũng được trừ khi xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại Việt Nam.
Hồ sơ đính kèm khi kê khai và nộp thuế của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đối
với khoản thu nhập từ dự án đầu tư tại nước ngoài bao gồm:
- Văn bản của doanh nghiệp về việc phân chia lợi nhuận của dự án đầu tư tại nước ngoài hoặc xác nhận của
chủ doanh nghiệp về mức phân chia lợi nhuận của dự án đầu tư ra nước ngoài.
- Báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận.
- Tờ khai thuế thu nhập của doanh nghiệp thuộc dự án đầu tư tại nước ngoài (bản sao có xác nhận của đại
diện có thẩm quyền của dự án đầu tư tại nước ngoài);
- Biên bản quyết toán thuế đối với doanh nghiệp (nếu có);
- Xác nhận số thuế đã nộp, số thuế được trả thay, số thuế được miễn, giảm của cơ quan thuế tại nước ngoài
hoặc chứng từ chứng minh số thuế đã nộp, số thuế được trả thay, số thuế được miễn, giảm ở nước ngoài.
18
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Trường hợp dự án đầu tư tại nước ngoài chưa phát sinh thu nhập chịu thuế (hoặc đang phát sinh lỗ), khi kê
khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài chỉ
phải nộp Báo cáo tài chính có xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập hoặc của cơ quan có thẩm quyền của
nước doanh nghiệp đầu tư và Tờ khai thuế thu nhập của dự án đầu tư tại nước ngoài (bản sao có xác nhận
của đại diện có thẩm quyền của dự án đầu tư tại nước ngoài). Số lỗ phát sinh từ dự án đầu tư ở nước ngoài
không được trừ vào số thu nhập phát sinh của doanh nghiệp trong nước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Khoản thu nhập từ dự án đầu tư tại nước ngoài được kê khai vào quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp của
năm tiếp sau năm tài chính phát sinh khoản thu nhập tại nước ngoài hoặc kê khai vào quyết toán thuế thu
nhập doanh nghiệp của năm tài chính cùng với năm phát sinh khoản thu nhập tại nước ngoài nếu doanh
nghiệp có đủ cơ sở và chứng từ xác định được số thu nhập và số thuế thu nhập đã nộp của dự án đầu tư tại
nước ngoài.
Cơ quan thuế có quyền ấn định thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đối với các trường hợp vi phạm quy định về kê khai, nộp thuế
theo quy định tại Điều 37 của Luật Quản lý thuế.
Đối với khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của dự án đầu tư tại nước đã ký Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần với Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài kê khai và nộp thuế theo quy
định tại Hiệp định.
Xem PHỤ LỤC các văn bản sau:
o PHỤ LỤC 5: THÔNG TƯ CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 11/2010/TT-BTC VỀ HƯỚNG DẪN THỰC
HIỆN NGHĨA VỤ THUẾ ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ VIỆT NAM ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
o PHỤ LỤC 6: NGHỊ ĐỊNH SỐ 87/2010/NĐ-CP NGÀY 13 THÁNG 8 NĂM 2010 CỦA CHÍNH
PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ
NHẬP KHẨU ( tham khảo các hàng hóa được miễn, giảm thuế xuất nhập khẩu)
o PHỤ LỤC 7: LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số
13/2008/QH12 ngày 3/6/2008
2.4. Quy định về đưa lao động ra nước ngoài trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam:
Điều kiện đưa người lao động đi làm việc tại cơ sở sản xuất, kinh doanh do tổ chức, cá nhân
đầu tư thành lập ở nước ngoài:
Tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư ra nước ngoài được đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài khi có
đủ các điều kiện sau đây:
• Được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho phép;
• Chỉ được đưa người lao động đi làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh do tổ chức, cá nhân đầu
tư thành lập ở nước ngoài;
• Có phương án sử dụng và quản lý người lao động ở nước ngoài; có phương án tài chính đưa người
lao động về nước trong trường hợp bất khả kháng;
19
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
• Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người lao động làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh do tổ
chức, cá nhân đầu tư thành lập ở nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước mà người lao động đến
làm việc và pháp luật Việt Nam.
Báo cáo đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
• Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức, cá
nhân đầu tư ra nước ngoài phải gửi Báo cáo đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài kèm theo
bản sao Giấy chứng nhận đầu tư và tóm tắt nội dung dự án đầu tư ra nước ngoài, danh sách người lao
động ký Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội.
• Báo cáo đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bao gồm các nội dung sau đây:
Phương án sử dụng và quản lý người lao động, trong đó nêu rõ số lượng người lao động đưa đi,
ngành, nghề, thời hạn làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, điều kiện sinh
hoạt, chế độ khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã hội và các chế độ khác có liên quan đến
người lao động;
Phương án tài chính đưa người lao động về nước trong trường hợp bất khả kháng.
• Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được Báo cáo đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phải xem xét và trả lời bằng văn bản cho tổ chức, cá
nhân đầu tư ra nước ngoài, nếu không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài
Tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
• Tổ chức bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài;
• Trực tiếp tổ chức đưa đi, quản lý người lao động làm việc ở nước ngoài;
• Ký kết và thanh lý Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người lao động.
• Bảo đảm quyền lợi của người lao động, giải quyết các vấn đề phát sinh theo Hợp đồng đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài;
• Bảo đảm điều kiện lao động, điều kiện sinh hoạt, bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật của nước
mà người lao động đến làm việc và pháp luật Việt Nam;
• Bảo đảm để người lao động được kiểm tra sức khỏe định kỳ và khám bệnh, chữa bệnh trong trường
hợp người lao động bị ốm đau, tai nạn. Trường hợp người lao động không còn khả năng tiếp tục làm
việc ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải tổ chức và
chịu chi phí đưa người lao động về nước;
• Tổ chức đưa di hài hoặc thi hài người lao động chết trong thời gian làm việc ở nước ngoài về nước
và chịu mọi chi phí liên quan; thực hiện các chế độ bồi thường, trợ cấp khác theo pháp luật của nước
mà người lao động đến làm việc và quy định của pháp luật Việt Nam;
• Báo cáo và phối hợp với cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài quản lý và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài;
20
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
• Định kỳ hằng năm, đột xuất báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về tình hình đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
XEM PHỤ LỤC:
o PHỤ LỤC 8: LUẬT NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI THEO
HỢP ĐỒNG (NĂM 2006)
21
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
II. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam:
1. Khái quát tình hình đầu tư ra nước ngoài giai đoạn trong những năm gần đây
1.1. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
Năm
Số dự
án
Tổng vốn
đầu tư (USD)
Tốc độ
tăng trưởng
số lượng (%)
Tốc độ
tăng trưởng
giá trị (%)
1989 1 563,380 - -
1990 1 - - -
1991 3 4,000,000 200.00 -
1992 3 5,282,051 - 32.05
1993 5 690,831 66.67 -86.92
1994 3 1,306,811 (40.00) 89.17
1998 2 1,850,000
(33.33) 41.57
1999 10 12,337,793 400.00 566.91
2000 15 7,165,370 50.00 -41.92
2001 13 7,696,452 (13.33) 7.41
2002 15 191,459,576 15.38 2387.63
2003 24 62,390,970 60.00 -67.41
2004 17 12,463,114 (29.17) -80.02
2005 37 437,905,179 117.65 3413.61
2006 36 349,106,156 (2.70) -20.28
2007 80 911,819,885 122.22 161.19
2008 103 2,386,201,934 28.75 161.70
2009 89 2,051,938,651 (13.59) -14.01
Tổng cộng 457 6,444,178,153
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài
22
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Hành lang pháp lý cho đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam được ban hành từ đầu năm
1999, tuy trước thời điểm này một số doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài
nhưng số dự án và tổng vốn đầu tư không nhiều, mỗi năm chỉ thực hiện được một vài dự án. Sau thời điểm
1999, đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đã có sự gia tăng vượt trội về số lượng và giá trị các dự án đầu tư
đăng kí cấp mới, tuy nhiên xét về mặt quy mô vẫn chưa lớn, tổng giá trị 10 dự án trong năm 1999 đạt hơn
12 triệu USD.
Khuôn khổ pháp lý của hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã dần dần được hoàn thiện hơn thông qua
việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005 cùng các quyết định có liên quan của bộ kế hoạch và đầu tư ban hành
năm 2007. Năm 2005 chứng kiến sự bùng nổ về giá trị đầu tư ra nước ngoài với mức tăng trưởng gấp hơn 3
lần về giá trị và gấp đôi về số lượng dự án đầu tư, kết quả này đạt được một phần cũng nhờ vào sự minh
bạch và hoàn thiện hơn về pháp lý đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Trong giai đoạn 2006 – 2009, cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, đầu tư ra nước ngoài tiếp
tục tăng trưởng cao với tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng là 33.7% về giá trị là 72.2%. Năm 2008 và
2009 giá trị đăng ký dự án mới đầu tư ra nước ngoài lần đầu tiên vượt qua mốc 1 tỉ USD và giữ vững ở mức
trên 2 tỷ USD qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Đây quả là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động đầu tư
ra nước ngoài của Việt Nam. Thời gian tới, nhiều văn bản pháp quy sẽ được ban hành và có hiệu lực, lĩnh
vực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam hứa hẹn những thành công mới trên con đường hội nhập.
Đến hết năm 2009, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài đạt 7,2 tỷ USD với 457 dự án,
tại hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, bằng hơn 143% kế hoạch và bằng 214% cả quá trình đầu tư ra nước
ngoài từ năm 1989 đến năm 2008.
23
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
1.2. Tình hình đầu tư ra nước ngoài phân theo nước tiếp nhận đầu tư
Bảng 2: ĐTTTRNN phân theo nước tiếp nhận đầu tư (tính tới 4/2012)
STT Nước tiếp nhận Số dự án TVĐT (triệu USD)
1 Lào 221 3.799,90
2 Campuchia 123 2.566,42
3 Mỹ 92 305,71
4 Singapore 46 86,863
5 Hàn Quốc 20 8,49
6 Liên bang Nga 16 1.709
7 Nhật Bản 16 3,52
8 Australia 11 108,18
9 Malaysia 10 469,28
10 Hồng Kông 9 12,70
11 57 nước khác 154 3.982,3
Tổng cộng 718 13.052,36
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư
20 năm thực hiện đầu tư ra nước ngoài 1989-2009. Các doanh nghiệp Việt Nam đã không chỉ duy
trì, mở rộng những thị trường truyền thống mà còn khai phá thành công một số thị trường mới. Không chỉ
thay đổi về lượng mà đầu tư ra nước ngoài còn chuyển biến về chất khi nhiều dự án chuyển từ quy mô nhỏ,
ngành nghề đơn giản, sang các dự án quy mô lớn, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, kinh nghiệm quản lý và hoạt
động
Lào, Campuchia, Nga, Angiêri… vẫn là điểm đến thu hút doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh những
điểm đến lâu nay, các doanh nghiệp Việt Nam cũng hướng đến những thị trường khác phát triển hơn, thậm
chí là quốc gia vốn là các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam như Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn
Quốc, Mỹ Đề án Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài do Chính phủ phê duyệt đã tạo ra một động
lực mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp. Theo các chuyên gia về đầu tư nước ngoài, trong khoảng 5-10 năm
nữa, những thị trường mới cũng như thị trường truyền thống sẽ chứng kiến sự bùng nổ của các doanh
nghiệp Việt Nam…
Tuy nhiên có sự phân hóa rõ rệt tại các thị trường đầu tư, tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam. Với các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư khá nhiều dự án quy mô nhỏ mang tính chất thăm dò thị trường, thuộc lĩnh
vực dịch vụ. Ngược lại, tại các nước có trình độ phát triển thấp hơn, doanh nghiệp Việt có nhiều dự án đầu
tư quy mô lớn, có vốn đăng ký tới 1 tỷ USD. Đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam cũng mạnh dạn đi vào
các ngành có khả năng cạnh tranh cao như khai khoáng; sản xuất nông, lâm, thủy sản; thủy điện; xây
dựng…, đặc biệt là tại hai nước láng giềng Lào, Campuchia và một số nước châu Phi.
24
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
2012
Tình hình đầu tư tại Lào và Campuchia:
* Lào:
Các lĩnh vực đầu tư:
Số liệu thống kê cho hay tại Lào, tính đến hết tháng 9/2012, Việt Nam có 214 dự án đầu tư được cấp
giấy chứng nhận đầu tư sang Lào còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam
đạt trên 3,45 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam tại Lào tập trung chủ yếu vào lĩnh vực năng lượng, dịch vụ, hạ
tầng, nông lâm nghiệp, Riêng, trong hai năm 2007, 2008, Việt Nam là nước đầu tư lớn nhất vào Lào,
trong đó, triển vọng nhất về lĩnh vực nông lâm sản, đặc biệt là cao su. Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đang
đứng đầu trong lĩnh vực này. Thủy điện được xếp vào hàng triển vọng thứ 2, với kỳ vọng giúp khai thác,
phục vụ phát triển kinh tế tại Lào, đồng thời bổ sung vào lưới điện của Việt Nam. Lĩnh vực khoáng sản,
Việt Nam cũng có nhiều doanh nghiệp thế mạnh. Ngoài ra, bất động sản, vật liệu xây dựng, dịch vụ
khách sạn là những ngành hấp dẫn, hứa hẹn có thêm nhiều doanh nghiệp Việt Nam góp vốn.
Các dự án lớn:
Năm 1998, Chính phủ hai nước Việt Nam - Lào đã ký kết Hiệp định hợp tác về phát triển năng
lượng điện nhằm khai thác thế mạnh và bổ sung nguồn năng lượng điện giữa hai nước. Trên cơ sở triển khai
việc thực hiện hiệp định, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ Việt Nam, ngày 11/7/2003, Công ty cổ
phần điện Việt Lào _ thành viên của Tổng công ty Sông Đà, chính thức được thành lập với nhiệm vụ
chính là đầu tư, xây dựng các dự án thủy điện tại Lào để bán điện về Việt Nam. Công ty cổ phần điện
Việt Lào hiện đang làm chủ đầu tư, triển khai 4 dự án thủy điện lớn tại Nam Lào bao gồm: dự án Xêkaman
3; dự án Xêkaman 1; dự án Xêkaman 4; và dự án Dak E Moule tổng vốn đầu tư lên tới trên 1 tỷ USD, với
sản lượng điện hàng năm bình quân ước đạt khoảng 4 tỷ kwh. Riêng công trình thủy điện Xêkaman 3 khởi
công từ 5/2006 có tổng vốn hơn 270 triệu USD là một trong những dự án lớn của Việt Nam đầu tư vào Lào.
2008, Viettel đã thực hiện dự án đầu tư phát triển mạng viễn thông Unitel tại Lào, với tổng vốn
đầu tư hơn 83,7 triệu USD.
Công ty cổ phần đầu tư Sài Gòn đang triển khai hai dự án thủy điện tại Lào là Nậm Ngừng 4
và Nậm Sâm ký kết từ năm 2009, có tổng đầu tư 800 triệu USD. Thủy điện Nậm Sâm dự kiến hoàn thành
vào năm 2013 và sẽ bán điện về Việt Nam. Công ty cổ phần đầu tư Sài Gòn còn là chủ đầu tư một khách sạn
4 sao ở Sầm Nưa, kinh phí 5 triệu USD giai đoạn 1.
Công ty cao su Đắk Lắk thành lập công ty con tại huyện Paksê, tỉnh Chămpasak, Lào, để thực
hiện dự án phát triển 10.000 ha cao su và cây công nghiệp khác ở 4 tỉnh thuộc phía Nam nước Lào.
Tổng vốn đầu tư của dự án này năm 2009 là 50 triệu USD, hiện đã giải ngân 32 triệu USD.
Công ty golf Long Thành vừa khởi công dự án xây dựng sân golf và khách sạn vốn đầu tư một
tỷ USD vào 1/2010. Dự án bao gồm một khách sạn 5 sao, sân golf 18 lỗ, khu biệt thự cao cấp, trường học,
bệnh viện và khu nghỉ dưỡng với tổng diện tích 557,4ha tại Khu Đông Phô Sĩ, huyện Hạt Sai Phong, thủ đô
Vientiane. Thời gian xây dựng 12 năm kể từ ngày khởi công.
Cơ hội mở rộng đầu tư tại Lào:
Có thể nói cơ hội đầu tư vào Lào còn rất lớn, nhưng nếu doanh nghiệp Việt Nam không nhanh chân,
cơ hội đó sẽ thuộc về nhà đầu tư Trung Quốc, Thái Lan, Nga. Theo Trung tâm Xúc tiến đầu tư thuộc Bộ Kế
hoạch đầu tư Lào, một số lĩnh vực tiềm năng mà Lào đang khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư gồm xây dựng cơ sở hạ tầng; khách sạn, nhà hàng, du lịch; trồng trọt, chế biến nông nghiệp
25