Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học tthcm tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền và việc vận dụng những tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.72 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
Chương 1..................................................................................................................4
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN..4
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước hợp hiến........................................4
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý đất nước bằng pháp luật, kết hợp với giáo
dục đạo đức............................................................................................................6
1.2.1.Quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực
trong thực tế......................................................................................................6
1.2.2 Tăng cường giáo dục đạo đức..................................................................8
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức về phẩm chất chính trị, đạo đức và
chun mơn.........................................................................................................10
1.3.1 Về phẩm chất chính trị, đạo đức............................................................10
1.3.3 Về trình độ chun mơn, nghiệp vụ........................................................11
Chương 2................................................................................................................13
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.......................................................................13
2.1 Những quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam............................................................................. 13
2.2 Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay............................................................................................. 16
2.2.1 Những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam....................................................16
1


2.2.2 Những hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.......................................................19
2.3. Một số giải pháp nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay......................................................21
2.3.1. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp


quyền.......................................................................................21
2.3.2 Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.............24
2.3.4. Tích cực phịng ngừa và kiên quyết đấu tranh phịng, chống tham
nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.................................................26
2.3.5. Thể chế hóa quyền lực của nhân dân thành pháp luật...................26
KẾT LUẬN......................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................30

2


MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế
giới, nhà cách mạng lỗi lạc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, Đảng ta và quân đội ta. Tư tưởng, đạo đức lối sống,
tác phong của Người là hình mẫu về trí tuệ, đạo đức, nhân văn, không chỉ cho quá
khứ, mà còn cho hiện tại và tương lai. Dân tộc ta tự hào sinh ra Người và chính
Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông đất nước ta. Tư tưởng của Người đã soi
sáng cho Đảng ta, cho cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vĩ đại trong các
cuộc chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước trước đây và sẽ tiếp tục soi
đường, chỉ lối cho công cuộc đổi mới của Đảng hiện nay để xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước
(CQNN) được Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt và vận dụng trong suốt quá
trình lãnh đạo đất nước đã gặt hái những thành quả to lớn góp phần xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, xây dựng nhà nước Việt Nam giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vây, em chọn vấn đề ”Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước pháp quyền và việc vận dụng những tư tưởng đó trong giai đoạn hiện
nay” làm tiểu luận kết thúc môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và

Chính quyền nhà nước.

3


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa truyền thống
văn hóa và những kinh nghiệm xây dựng, quản lý nhà nước của ông cha ta, là kết
quả của sự trải nghiệm, nghiên cứu, khảo sát nhiều cuộc cách mạng, nhiều nhà
nước điển hình như Mỹ, Pháp, Liên Xơ..., đồng thời, sự thấm nhuần và vận dụng
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước kiểu mới vào điều kiện
nước ta. Mặc dù Hồ Chí Minh khơng dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng
tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thể hiện không chỉ trong các bài viết,
bài phát biểu của Người về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mà cịn
trong tồn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của Hồ Chí Minh với tư cách
là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người trực tiếp chỉ đạo
việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt
Nam mới, phấn đấu để Nhà nước ta thực sự trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
  Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được thể hiện trên những
quan điểm cơ bản sau:
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước hợp hiến
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân
đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhờ đó, Chính phủ lâm thời do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên có được địa vị
hợp pháp. Hồ Chí Minh vừa biểu dương lực lượng, ý chí của toàn dân, vừa nêu
quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do. Tun ngơn độc lập có đoạn: “Một dân tộc đã
4



gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe
Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó
phải được độc lập. Vì những lẽ trên, chúng tơi, Chính phủ lâm thời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”1.
Ngày 3-9-1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh
xác định 6 nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, trong
đó, nhiệm vụ thứ 3 ba là "chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tơi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu để sớm có một nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra”.
Để sớm có một Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra, ngày 17/9/1945, Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyển cử. Ngày 20-9-1945, Người ký Sắc
lệnh số 34 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh làm trưởng ban.
Sau ngày cách mạng thành công, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ. Ở Bắc
Bộ, quân đội Tưởng và tay sai tìm mọi cách gây rối, tạo cớ để tiêu diệt chính phủ Hồ
Chí Minh. Tình hình đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”. Vấn đề đặt ra là phải tổ chức
Tổng tuyển cử để có Quốc hội quản lý, điều hành đất nước bằng Hiến pháp và pháp
luật. Trong hoàn cảnh khó khăn thù trong, giặc ngồi hết sức phức tạp, ngày 6-11946 cuộc Tổng tuyển cử vẫn được tiến hành trong cả nước. Toàn dân đi bầu cử với
tỷ lệ hơn 90% cử tri đi bỏ phiếu. Người dân lần đầu tiên trong lịch sử được thực hiện
quyền dân chủ của mình, được quyền ứng cử và lựa chọn các đại biểu đủ đức đủ tài
thay mặt mình tham gia Quốc hội. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, một cuộc phổ
thông đầu phiếu được tổ chức chỉ 4 tháng sau khi lật đổ được ách thống trị của ngoại
bang, giành chính quyền về tay nhân dân.
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3-4


5


Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1 thành công tốt đẹp. Quốc hội được thành lập
qua tổng tuyển cử, 333 đại biểu đã trúng cử. Ngày 2-3-1946, theo đề nghị của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội đồng ý mở rộng thêm 50 ghế cho Việt Nam quốc dân
đảng và 20 ghế cho Việt Nam cách mạng đồng minh hội không qua bầu cử. Chủ
tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp
kháng chiến, một Chính phủ hợp hiến đầu tiên ra đời do đại biểu của nhân dân bầu
ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề nội trị và ngoại
giao của nhà nước Việt Nam mới.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý đất nước bằng pháp luật, kết
hợp với giáo dục đạo đức
1.2.1.Quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu
lực trong thực tế
Hồ Chí Minh có ý thức sớm về tầm quan trọng của pháp luật. Ngay từ năm
1919, khi còn là một người yêu nước nhiệt thành, thay mặt những người Việt Nam
yêu nước sống ở Pháp, Nguyễn Aí Quốc đã gửi tới Hội nghị Vécxây Yêu sách của
nhân dân An Nam. Tám điểm trong bản yêu sách chứa đựng nhiều nội dung về
quản lý đất nước bằng pháp luật như “cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng
cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật
như người Âu châu; xóa bỏ hồn tồn các tịa án đặc biệt dùng làm công cụ để
khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”; “tự do báo
chí và tự do ngơn luận”; “tự do lập hội và họp hội”; “tự do cư trú ở nước ngoài và
tự do xuất dương”; “tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp
ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”: “thay đổi chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra
các đạo luật”.
Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý xã
hội bằng pháp luật. Bởi vì, trong một nhà nước dân chủ, mọi quyền dân chủ của

6


người dân phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật và hệ thống pháp
luật phải đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong
thực tế. Dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, dân chủ trong pháp
luật và pháp luật tạo điều kiện để phát huy dân chủ. Tự do, dân chủ thật sự chỉ có
thể có được khi hiểu rõ và tuân thủ pháp luật. Hồ Chí Minh có cơng lớn trong sự
nghiệp lập hiến và lập pháp. Người hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp
1946 và 1959, ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới
luật.
Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng cơ chế bảo đảm cho pháp luật
được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà
nước và trong nhân dân. Với nhận thức có luật và công bố luật là điều cần thiết đầu
tiên nhưng vấn đề quan trọng hơn là pháp luật phải được thi hành, Hồ Chí Minh
quan tâm đến việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo được việc
thực hiện quyền lực của nhân dân.
Muốn pháp luật đi vào cuộc sống thì phải tăng cường tuyên truyền giáo dục
nhận thức cho người dân. Hồ Chí Minh coi trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý
thức làm chủ, phát triển kinh tế, văn hố, chính trị, khuyến khích nhân dân tham
gia vào các cơng việc của nhà nước, “biết làm chủ tập thể, làm chủ hợp tác xã, vì
nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói” 2, khắc phục dân
chủ hình thức, “làm cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ
của mình, dám nói, dám làm”3.
Hồ Chí Minh không chỉ chú trọng xây dựng Hiến pháp, pháp luật, mà còn
thực hiện nghiêm minh luật pháp. Trong thi hành pháp luật, cái khó nhất là phải
bảo đảm được tính khách quan, cơng bằng, bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp
luật. Hồ Chí Minh địi hỏi pháp luật của ta phải xét xử theo đúng pháp luật, "phải
2
3


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.12, tr.225.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.12, tr.223.

7


thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp
gì"4. Ngày 27 tháng 11 năm 1945 người ký sắc lệnh ấn định hình phạt đưa và nhận
hối lộ sẽ bị phạt 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26 tháng 1 năm 1946 người ký "quốc lệnh" khép tội tham ô, trộm cắp của
cơng vào tội tử hình. Với Hồ Chí Minh, pháp luật bất vị thân, công tội phân minh,
"không vì cơng mà qn lỗi, vì lỗi mà qn cơng". Không lẫn lộn công và tội.
Công bằng trong thưởng và phạt.
Cuối năm 1945, khi giao cho đồng chí Lê Giản sang phụ trách ngành Cơng
an, Hồ Chí Minh dặn rằng do tính chất cơng việc nên chú phải “thiết diện vô tư”,
tức là phải kiên quyết, cứng rắn, công bằng, công minh, không thiên vị.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Cục trưởng Cục Quân nhu, đại tá
Trần Dụ Châu lợi dụng chức vụ, ăn bớt vật tư, quân trang quân dụng của bộ đội để
sống xa hoa, lãng phí. Tịa án qn sự kết án tử hình. Trần Dụ Châu và gia đình
kháng án, xin được khoan hồng. Hồ Chí Minh suy nghĩ, trăn trở nhiều đêm. Theo
Người đây là hành vi của loài sâu mọt đục khoét nhân dân, nếu khơng diệt bỏ thì
ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến và mất lòng tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo
của Đảng. Cuối cùng Người đã ký lệnh bác đơn chống án của Trần Dụ Châu.
Tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I (tháng 11-1946), có đại biểu chất vấn
Chính phủ về trường hợp Bộ trưởng Bộ kinh tế Chu Bá Phượng, đại biểu của Việt
Nam Quốc dân đảng trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến mang vàng đi buôn
trong dịp đi dự Hội nghị Phôngtennơblô, bị các nhà chức trách Pháp bắt được.
Thay mặt Chính phủ, Hồ Chí Minh trả lời khẳng định rằng Chính phủ hiện thời đã
cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng Chính phủ đơng lắm, phức tạp lắm. Chính phủ đã

hết sức làm gương, nếu làm gương khơng xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những
kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết.
1.2.2 Tăng cường giáo dục đạo đức
4

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.5, tr.641.

8


Đạo đức và pháp luật có vai trị riêng nhưng lại quan hệ khăng khít với
nhau, nương tựa vào nhau. Pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định
một chuẩn mực đạo đức nào đó và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực đạo đức
càng cao bao nhiêu thì vai trị của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Chỉ có đức
nhân khơng đủ cai trị, chỉ có pháp luật cũng khơng thể thi hành. Những người theo
thuyết “nhân trị” cũng khơng thể loại bỏ hình luật. Ngược lại, những người theo
thuyết “pháp trị” vẫn đề cao đạo đức.
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị đạo đức. Đạo đức và chính trị cao nhất của
Người là phục vụ nhân dân. Người hết lòng thương yêu, dạy bảo, kêu gọi thực
hành đạo đức, nặng về giáo dục, nhẹ về xử phạt. Đối với kẻ phạm tội như trộm cắp,
gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, Người yêu cầu nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa
pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lương thiện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Triết lý sống của Người là ở đời và làm người, tức phải thương nước, thương dân,
thương nhân loại đau khổ, bị áp bức. Nhưng những tư tưởng và hành vi có hại đến
tính mạng và tài sản của nhân dân, xâm phạm đến lợi ích của Tổ quốc thì bất kỳ
địa vị, chức vụ gì cũng phải xử lý theo đúng pháp luật.
Để giải quyết mối quan hệ giữa “đức trị” và “pháp trị”, Hồ Chí Minh xuất
phát từ nhận thức con người khơng phải thánh thần, có thiện có ác trong lịng.
Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm. Theo Người, trừ

những người cố ý phá hoại, ngồi ra khơng ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì khơng
hiểu, khơng biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên cho rằng họ
muốn như thế, mà cơng kích họ. Trái lại, ta phải dùng thái độ thân thiết, giúp họ
tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm? Sai lầm như thế, sẽ có hại đến cơng việc thế nào?
Làm thế nào mà sửa chữa? Nhấn mạnh giáo dục nhưng không quên kỷ luật, Hồ Chí
Minh viết: “Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm
hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to
9


việc nhỏ. Nếu nhất luật khơng xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho
bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hồn tồn khơng dùng xử phạt là khơng đúng. Mà chút
gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng”5.
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức về phẩm chất chính trị, đạo
đức và chun mơn
1.3.1 Về phẩm chất chính trị, đạo đức
Sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng xét
đến cùng vẫn là nhân tố con người. “Đức trị” hay “pháp trị” và việc xây dựng bộ
máy đều liên quan đến con người, hạt nhân là con người, do con người.
Nói đến đội ngũ cán bộ, cơng chức, trước hết Hồ Chí Minh địi hỏi phẩm
chất chính trị. Theo Người, chính trị là linh hồn, chun mơn là cái xác. Có chun
mơn mà khơng có chính trị thì chỉ cịn cái xác khơng hồn. Phải có chính trị trước
rồi có chun mơn. Chính trị nói tới ở đây là lập trường giai cấp, lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội; là nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng, mục tiêu cách mạng
của Đảng và dân tộc.
Gắn liền với phẩm chất chính trị là phẩm chất đạo đức. Có khi Hồ Chí Minh
gọi “chính trị là đức, chun mơn là tài”. Cần phải nhấn mạnh ở đây khi bàn về
đạo đức công vụ, trước hết là nêu cao tinh thần trách nhiệm công chức đối với Tổ
quốc và nhân dân, phải “chí cơng vơ tư”, tức là đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân

lên trên hết, trước hết. Đồng thời phải trung thực, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính,
làm người cơng bộc tận tụy, trung thành, gắn bó với nhân dân, đời tư trong sáng,
cuộc sống riêng giản dị.
Xây dựng đạo đức cách mạng gắn liền với chống suy thoái về đạo đức. Theo
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là thứ giặc nội xâm nguy hiểm nhất. Nó là thứ vi
5

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.5, tr.284.

10


trùng rất độc đẻ ra hàng trăm căn bệnh khác nhau; là trở lực trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước. Vì chủ nghĩa cá nhân mà dẫn đến
thối hóa biến chất, thiếu tinh thần trách nhiệm, lãng phí, tham ơ, tham nhũng, nói
khơng đi đơi với làm. Vì vậy, vấn đề khơng phải chỉ là nâng cao đạo đức cách mạng
mà trước hết là phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Không làm tốt điều này, nó sẽ đục
khoét tổ chức, làm tha hóa nhân cách, mà đổ vỡ nhân cách là đổ vỡ tất cả. Hồ Chí
Minh dạy: “Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ cơng cuộc kháng chiến
và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ
ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính… Tội lỗi ấy
cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”6.
Tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân còn được nhận diện ở chỗ so với kẻ
thù bên ngồi thì kẻ thù bên trong đáng sợ hơn, vì nó khơng mang gươm mang súng,
khơng có hình thù rõ rệt, nhưng nó phá ta từ trong phá ra; nó tiếp tay cho kẻ thù bên
ngoài, là mảnh đất màu mỡ cho kẻ thù bên ngoài bám sâu rễ bền gốc.
Trong ba chứng bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu thì bệnh quan liêu là gốc. Về
căn bệnh này, Hồ Chí Minh viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ
cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán

bộ, khơng gần gũi quần chúng. Đối với cơng việc thì trọng hình thức mà khơng xem
xét khắp mọi mặt, khơng vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo
trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn. Nói tóm lại vì những người và
những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà khơng thấy suốt,
có tai mà khơng nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm
vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ơ, lãng phí. Thế
là bệnh quan liêu đã ấp ủ dung túng che chở cho nạn tham ơ, lãng phí. Vì vậy, muốn
trừ sạch nạn tham ơ, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”.
6

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.490.

11


1.3.3 Về trình độ chun mơn, nghiệp vụ
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân
chủ, phải có một đội ngũ cán bộ cơng chức kiểu mới theo tinh thần "phụng cơng
thủ pháp, chí công vô tư”. Cán bộ phải nắm vững kiến thức quản lý nhà nước. Có
trình độ văn hố, am hiểu pháp luật. Thành thạo nhiệm vụ hành chính. Làm nghề gì
cũng phải học. Làm nghề gì phải thơng thạo nghề đó. Cán bộ phải được tuyển dụng
qua một kỳ thi tuyển các mơn chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử, ngoại
ngữ.
Nhà nước mạnh, có hiệu lực hay khơng, một mặt phụ thuộc vào tính nghiêm
minh của việc thi hành pháp luật, mặt khác, dựa vào sự gương mẫu, trong sạch về
đạo đức và trình độ chun mơn nghiệp vụ, tính chun nghiệp của đội ngũ cán bộ
cơng chức, viên chức nhà nước.

Chương 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP

QUYỀN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

12


Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới, hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng trong điều kiện tồn cầu hóa, việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền đặt ra nhiều vấn đề cần có sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp
quyền không chỉ đề cao tính thượng tơn pháp luật mà cịn đảm bảo và phát huy hơn
nữa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là sự phát triển tư
tưởng của V.I Lênin về xây dựng một Nhà nước của giai cấp công nhân. Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là
việc tự thân của Nhà nước mà trước hết là việc của Đảng Cộng sản Việt Nam cần
quyền rồi sau mới đến trách nhiệm của các thành viên của hệ thống chính trị.
Nhưng bao trùm hơn cả là trách nhiệm của toàn dân tộc. Đường lối lãnh đạo của
Đảng phải được thể chế hóa thành luật pháp thơng qua hoạt động của Nhà nước.
2.1 Những quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh đã được Đảng cộng sản
Việt Nam quán triệt và phát triển sáng tạo trong điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam qua từng giai đoạn khác nhau. Điều đó được thể hiện trong các văn kiện
của Đảng thơng qua các kì Đại hội đại biểu tồn quốc, từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, qua các nghị
quyết thấy rõ quan điểm của Đảng ta về việc thực hiện quyền dân chủ nhân dân,
mọi quyết định đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc đều do nhân dân quyết
định. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội, thường xuyên đổi mới cách
thức hoạt động để nhân dân đóng vai trị tích cực trong việc xây dựng pháp luật,

kiểm tra giám sát.
13


Thuật ngữ “xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân, dân, vì
nhân dân” đã xuất hiện lần đầu trong văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII năm 1994. Tiếp đến, quan điểm về xây dựng nhà nước pháp
quyền được Đảng ta chính thức xác định khái niệm từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII: “Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức.” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng
định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng:
“Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”. Qua các kì Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ X và lần thứ XI vừa qua, Đảng ta vẫn thể hiện quan điểm kiên định là xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng xác định: “ Nhà nước nước ta
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần Xây dựng cơ chế vận hành của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
[5, tr126]. Đặc biệt trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

14


Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy
đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng
trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền
dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo ngun tắc tập trung dân
chủ, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của
Trung ương.
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hồn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay để thực sự
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh
thần Đại hội XI của Đảng cần tập trung hoàn thiện chức năng quản lý kinh tế, quản
lý xã hội của Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa. Khơng
ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết
cho thành công của việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn
hiện nay. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là
nhiệm cụ then chốt không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân Đảng mà cịn là quan
trọng đối với sự tồn tại hoạt động của Nhà nước pháp quyền. Vấn đề là phải luôn
luôn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước để sao cho vừa bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước
để tập trung mọi quyền lực vào tay nhân dân.
Trên tinh thần vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I Lê nin và tư tưởng của Hồ
Chí Minh, Đảng phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm nhiệm vụ lãnh
đạo Nhà nước Pháp quyền. Bản chất Nhà nước vô sản theo tư tưởng

15

V.I Lênin


gắn liền với vai trò làm chủ của nhân dân. Nhà nước là tổ chức cai trị của một giai
cấp. nhưng, trong xã hội hiện đại và ở nước ta, Nhà nước pháp quyền là tổ chức
được ủy quyền của giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam quản lý xã hội, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ, có quyền lợi và nghĩa vụ làm chủ Nhà
nước và kiểm soát, giám sát mọi hoạt động của Nhà nước. Vận dụng và phát triển
tư tưởng của V.I Lênin về vấn đề giám sát, kiểm soát ở nước ta theo sự chỉ dẫn của
V.I Lênin, không những được thể hiện trong việc ban hành các nghị quyết, quyết
định, pháp luật mà còn trong cả quá trình thực hiện thực tế.
2.2 Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay
2.2.1 Những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn
liền với quá trình phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. ngay từ khi ra đời, Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và này là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã là Nhà nước mang bản chất của nhà nước kiểu mới được xây dựng
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của
Nhà nước được thể hiện trong nhiều văn kiện Đảng và thể hiện ngày càng rõ nét
hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1946,1959,
1980. Bản chất này của Nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh,
các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hóa rõ trong Hiến Pháp
1992 và Nghị quyết sửa đổi bổ sung Hiến Pháp 1992, gần đây là Hiến pháp (sửa

đổi và bổ sung 2013). Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đòi hỏi phải dựa
16


trên hệ thống lý luận phù hợp với chính điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam. Tư
tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong các văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong các bản Hiến pháp thể hiện quá trình nhận thức ngày càng đúng
đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn của Đảng, Nhà nước ta về tư tưởng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản ở
nước ta hiện nay. Những nhận thức cơ bản này là một đảm bảo quan trọng cho quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đạt được kết quả
thắng lợi.
Thứ nhất, về xây dựng, củng cố, cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của Nhà nước. Thời gian qua trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng của bộ máy
nhà nước ta và yêu cầu của tình hình mới Đảng và Nhà nước đã đưa ra những kết
luận quan trọng, vạch ra những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp nhằm xây
dựng kiện tồn bộ máy nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó kết
quả đạt nổi bật được thể hiện như: Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ của
nhà nước, tạo điều kiện cho nhân dân lao động thực hiện ngày càng tốt hơn quyền
làm chủ của mình thơng qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp,
tham gia tích cực vào xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiệm toàn một bước bộ máy
nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh hoạt động có hiệu lực và
hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân.
Các thể chế hành chính nhà nước và tổ chức hành chính nhà nước đều được tăng
cường, nền hành chính nhà nước đang đổi mới theo xu hướng dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, từng bước hiện đại hóa. Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Các kết quả lớn cụ thể đạt được của quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian qua gồm: Đổi mới và
nâng cao một bước chất lượng hoạt động của Quốc hội ( các kỳ họp Quốc hội, chất
lượng và hoạt động của đại biểu Quốc hội, vị thế của Quốc hội trong bộ máy nhà

nước và trong đời sống xã hội). Quốc hội đang thực sự là cơ quan quyền lực nhà
17


nước cao nhất, có khả năng thực hiện tốt nhất quyền lập pháp, quyền quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của bộ máy nhà nước. Củng cố, kiện toàn hội đồng nhân dân các cấp
làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Cải cách một bước nền hành chính
nhà nước, trước hết đã tập trung cải cách thủ tục hành chính, từng bước cải cách
thể chế hành chính trên các lĩnh vực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện hội nhập quốc tế; xây dựng
một hệ thống hành chính thơng suốt, rõ về chức năng, nhiệm vụ, tinh giản gọn nhẹ
( đổi mới chức năng, nhiệm vụ của chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban
nhân dân các cấp). Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân
các cấp). Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực hồn
thiện hồn thành nhiệm vụ được giao. Việc quản lý, sử dụng, được đổi mới một
bước theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức. Coi trọng gắn kết hợp chế
độ trách nhiệm, khen thưởng và kỷ luật. Cải cách một bước chế độ tiền lương để
nâng cao đời sống. Quan tâm đầu tư cho cán bộ cấp cơ sở. Đổi mới tổ chức và hoạt
động của cơ quan tư pháp đảm bảo dân chủ, khách quan, minh bạch, chống và
giảm bớt oan sai. Củng cố đồng bộ hệ thống cơ quan tòa án, viện kiểm sát, điều tra,
thi hành án, bổ trợ tư pháp. tiến hành kiên quyết thường xuyên công tác đấu tranh
tham nhũng, quan liêu, xử lý nghiêm những người vi phạm đồng thời tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà
nước.
Thứ hai, về xây dựng, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật. trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật được quan tâm
hơn, cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đã có
những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình hình và
nhiệm vụ mới của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc

tế. luật pháp được sửa đổi và thích ứng với địi hỏi của tình hình. Các văn bản luật
18


được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các lĩnh vực : tổ
chức, hoạt động của Nhà nước ( Luật Hiến pháp, Luật tổ chức quốc hội, Luật tổ
chức chính phủ, Luật tổ chức tịa án, viện kiểm sát…); trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc; tỏng lĩnh vực kinh doanh ( Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật
kinh doanh bảo hiểm…); trong bảo vệ quyền của cơng dân và các chủ thể…. Ngồi
ra, hoạt động tun truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà nước đã dần
thực sự dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
2.2.2 Những hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, thực hiện đường lối của Đảng, việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đẩy mạnh, đạt được kết quả tích cực, tổ chức
bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức hoạt động của Nhà
nước được tự đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật pháp, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước, giảm bớt các
mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc
đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và quản lý đất nước. Năng lực xây
dựng thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ,
thống nhất. Cơng tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt còn yếu.
Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa hợp lý, chức năng, nhiệm vụ
của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận tổ quốc và các đồn thể nhân dân cịn một số khâu chậm đổi mới.

19


Quốc hội còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng giám sát. Bộ máy quản lý
nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Tình trạng
nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một số bộ phận công chức, nhất là ở
các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp, chậm được
khắc phục. Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là tổ chức Hội đồng
nhân dân, còn những điểm bất hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt u cầu để ra,
cịn nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Cải cách tư pháp còn chậm,
chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp
chưa chính xác, tình trạng án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều. Cơng tác
phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu tham
nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Hơn nữa,
công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đổi với nhân dân còn hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã gây ra những khó khăn, cản trở, làm hạn chế thành tựu của đất
nước, trong một số lĩnh vực còn tạo nên bức xúc xã hội. Sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc của đất nước ta trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tiếp tục đẩy
mạnh, thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
2.3. Một số giải pháp nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.3.1. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước
pháp quyền
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc cũng như xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng cộng
20




×