Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

quan điểm của lênin về xây dựng chính quyền nhà nước sự vận dụng của đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.78 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những đóng góp to lớn của V.I.Lê-nin đối với lý luận về nhà nước không chỉ ở
việc làm sáng tỏ những quan điểm căn bản của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nhà nước,
đem lại vũ khí lý luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, giành lấy,
tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, cũng như đấu tranh chống lại mọi âm mưu
hòng xuyên tạc, bẻ cong và nhằm bác bỏ lý luận mác-xít về nhà nước; mà còn thể
hiện ở việc đi sâu, phát triển lý luận mác-xít về nhà nước trên một số phương diện,
phù hợp với trình độ phát triển mới của thực tiễn. Nghiên cứu quan điểm của
V.I.Lênin về nhà nước đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng mô hình nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay, bởi lẽ những quan điểm ấy đã được hiện thực hóa, trở
thành một thực thể sống động trong thực tiễn đời sống.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin tiếp tục khẳng
định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy
thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai
cấp” và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp
khác”.
Vì thế việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước luôn được xác định là vấn đề
quan trọng trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Đặc biệt từ khi
tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng đã có nhiều nghị quyết đặt vấn đề về xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chính thức
xác định rõ quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Báo cáo chính trị của hai
kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng tiếp theo (Đại hội X năm 2006, Đại hội XI
năm 2011).
Bên cạng đó nền kinh tế của chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế,...đã có rất
nhiều sự thay đổi, từ nội dung, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động,
1



cho đến yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người vận hành trong bộ máy nhà
nước. Sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta đang đứng trước những cơ hội và
thách thức chưa từng có, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra rất nhanh chóng trên tất cả
các lĩnh vực, mở ra cơ hội cho các nước chậm phát triển, đồng thời cũng chứa đựng
nhiều vấn đề phức tạp. Trong tình hình đó, nếu không có một nhà nước thật sự trong
sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, tranh thủ nắm lấy vận hội, đưa
đất nước vượt qua nguy cơ, thách thức thì chủ nghĩa xã hội sẽ không có mà độc lập
dân tộc cũng khó được bảo vệ.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu những quan điểm của Lênin về nhà nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng nói trên, tôi chọn đề tài “quan điểm
của Lênin về xây dựng chính quyền nhà nước. Sự vận dụng của Đảng ta trong xây
dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu tiểu
luận.
2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài chỉ nghiên cứu nội dung quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng chính
quyền nhà nước và sự vận dung của Đảng ta trong xây Nhà nước Pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục tiêu: Làm rõ và khẳng định tính khoa học của quan điểm V.I.Lênin về
nhà nước và xây dựng chính quyền nhà nước.
* Nhiệm vụ:
- Trình bày những vấn đề cơ bản về nhà nước và xây dựng chính quyền nhà
nước theo quan điểm của V.I.Lênin.
- Sự vận dụng của Đảng ta trong xây Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.

2



4. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần tiếp tục làm rõ và khẳng định giá trị quan điểm của V.I.Lênin
về xây dựng chính quyền nhà nước và sự vận dung của Đảng ta trong xây Nhà nước
Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng
hợp các phương pháp như phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, so sánh…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Tiểu luận được kết cấu
gồm 03 chương, 12 tiết

3


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 Lý luận chung về nhà nước
1.1. Khái niệm và bản chất của nhà nước
* Khái niệm: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ
máy chuyên trách để cưỡng chế và quản lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết
lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong xã hội xã hội
chủ nghĩa.
* Bản chất của Nhà nước: Nhà nước xét về bản chất, là một hiện tượng thuộc
thượng tầng kiến trúc, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định; là công cụ để duy
trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một tổ chức quyền lực đặc
biệt, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm
thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng.

Bản chất của nhà nước thể hiện dưới hai đặc tính cơ bản:
Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà nước. Thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ
thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ
trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà
nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp
nào?
Thứ hai, là tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai
cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công
cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
Như vậy, vai trò kinh tế - xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà
nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau
giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt động của nhà nước phụ thuộc
vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước, song phải luôn
tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
4


Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là cơ
bản, cần thiết để tác động. Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ mang lại hậu
quả xấu cho xã hội.
1.2. Sơ lược lịch sử hình thành và vai trò của nhà nước đối với xã hội
*Về lịch sử hình thành nhà nước, có rất nhiều quan điểm khác nhau. Theo
thuyết Thần học, cho rằng nhà nước là do thượng đế sinh ra để quản lý xã hội, quyền
lực nhà nước là vĩnh cửu và vô tận nên việc phục tùng quyền lực ấy là cần thiết và tất
yếu.
Theo thuyết khế ước xã hội, nhà nước là một sản phẩm của một bản hợp đồng
(khế ước) giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước.
Khi đó, nhà nước phải phục tùng xã hội, phục vụ mọi thành viên của xã hội. Khi nhà
nước không thực hiện được chức năng của nó, các thành viên trong xã hội sẽ huỷ bỏ

khế ước cũ lập ra một khế ước mới, một nhà nước tiến bộ hơn sẽ ra đời. Ngoài ra còn
có thuyết gia trưởng, thuyết tâm lý, thuyết bạo lực...
Còn theo học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước ra đời trên cơ sở của
sự tan rã chế độ công xã nguyên thuỷ. Có hai nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chế
độ công xã nguyên thuỷ, đó là sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (nguyên
nhân kinh tế) và sự mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng trong xã hôị, mâu thuẫn
này ngày càng trở nên gay gắt đến mức không thể điều hoà được nữa (nguyên nhân xã
hội).
Chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc, bộ lạc, bào tộc là cách thức tổ chức đầu
tiên của loài người trong buổi bình minh. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, mọi
người đều bình đẳng như nhau trong lao động và hưởng thụ, trong quyền lợi và nghĩa
vụ. Khi lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động ngày càng tăng lên,
đặc biệt khi có công cụ lao động bằng kim loại xuất hiện cùng với những kinh nghiệm
đã tích luỹ được đã tạo nên bước phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề thủ
công. Dẫn đến sự phân công lao động lần thứ nhất, trồng trọt tách khỏi chăn nuôi. Sau
đó, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh tạo ra sự phân công lao động lầ thứ hai :
5


thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sau hai lần phân công lao động, xã hội đã có
sự phân tầng. Sự chuyên môn hoá của các ngành sản xuất đã làm cho nhu cầu trao đổi
hàng hoá giữa các bộ phận dân cư ngày một tăng cao. Điều này dẫn đến sự phân công
lao động lần thứ ba, giao lưu hàng hoá tăng nhanh và thương nghiệp xuất hiện. Sau
lần phân công lao động thứ ba này, xã hội đã bị phân hoá một cách sâu sắc. Do sự
phân công lao động nên các ngành kinh tế phát triển mạnh, làm cho sản phẩm lao
động ngày càng nhiều lên dẫn đến dư thừa. Lúc này trong xã hội đã xuất hiện một số
người có quyền lực công nhiên đi chiếm đoạt phần sản phẩm dư thừa đó và biến nó
thành của riêng. Chế độ tư hữu về tài sản dần dần xuất hiện. Những người này dần
dần trở thành những người chuyên đi bóc lột còn bộ phận đông dân cư trở thành
những người bị bóc lột cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Chế độ tư hữu

ngày càng được củng cố và phát triển tất yếu dẫn đến việc hình thành các tập đoàn
người trong xã hội có địa vị kinh tế khác hẳn nhau đó là tập đoàn những người giàu có
(chủ nô), tập đoàn nông dân - thợ thủ công với chút ít tài sản (bình dân) và tập đoàn
thứ ba là tù binh chiến tranh và nô lệ (nô lệ). Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị
bóc lột ngày càng trở nên gay gắt, làm cho chế độ công xã nguyên thuỷ trước đây với
thị tộc, bộ lạc không thể kiểm soát, quản lý xã hội được nữa, mà cần một tổ chuác mới
ra đời, đó chính là nhà nước. Nhà nước ra đời, đó là sự thay đổi hẳn về lượng. Đó là
một bộ máy bạo lực, gồm có quân đội, cảnh sát, nhà tù...để đàn áp những người lao
động.
*Về vai trò của nhà nước đối với xã hội, thì chỉ thông qua nhà nước giai cấp
thống trị mới tổ chức, thực hiện quyền lực chính trị của mình; xây dựng được hệ tư
tưởng của mình trở thành hệ tư tưởng thống trị xã hội; quyền lực kinh tế mới đủ sức
mạnh để duy trì quan hệ bóc lột.

6


Chương 2. Quan điểm của V.I.Lênin về nhà nước và xây dựng chính quyền nhà
nước
Đối với V.I.Lê-nin, khái niệm “nhà nước” là để chỉ bộ máy nhà nước trong xã
hội có giai cấp. Ông viết: “đặc trưng của nhà nước là sự tồn tại của một giai cấp đặc
biệt, tập trung quyền lực trong tay. Dĩ nhiên, không ai có thể dùng hai tiếng nhà nước
để gọi một cộng đồng, trong đó tất cả mọi thành viên đều thay phiên nhau quản lý “tổ
chức của trật tự”. Chính sự tập trung quyền lực chính trị trong tay một giai cấp đặc
biệt là đặc trưng để phân biệt nhà nước với mọi hình thức tổ chức xã hội khác. V.I.Lênin vạch rõ: “Nếu quyền lực chính trị trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền
lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mới có thể thực hiện việc điều khiển công
việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính
trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với quyền lợi của đa số, thì việc điều
khiển công việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa
gạt, hoặc đưa đến chỗ đàn áp đa số ấy”. Ông giải thích: “Quyền chính trị là gì, nếu

không phải là cách diễn đạt, là việc ghi nhận so sánh lực lượng?” (5). Đây chính là sự
phát triển quan điểm: quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ
chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác của C.Mác và Ph.Ăng-ghen.
Về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ
đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấpkhông
thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước
chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.
Nếu như xã hội đã từng tồn tại không cần có nhà nước, thì cùng với sự phát
triển của sản xuất, xã hội loài người sớm muộn cũng sẽ đạt tới trình độ loại bỏ nhà
nước. V.I.Lê-nin viết: “Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ tiêu nhà
nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo lực, nói chung,
đối với con người. Chúng ta không mong có một chế độ xã hội mà trong đó nguyên
tắc thiểu số phục tùng đa số sẽ không được tuân theo. Nhưng khi hướng đến chủ
7


nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng
sản, và do đó, nói chung sẽ không còn cần thiết phải dùng bạo lực đối với con người,
không cần thiết phải buộc người này phục tùng người khác, bộ phận dân cư này phục
tùng bộ phận dân cư khác, vì người ta sẽ quen tuân theo những điều kiện thông
thường của đời sống tập thể, mà không cần có bạo lực và không cần có phục tùng”.
Nghĩa là, khi đó nhà nước sẽ tự tiêu vong.
Tuy nhiên, để nhà nước có thể tự tiêu vong, cần có nhiều điều kiện, trong đó,
quan trọng nhất là, nhà nước phải trải qua một hình thức tồn tại đặc biệt của nó: Nhà
nước chuyên chính vô sản. Nhưng để có được nhà nước chuyên chính vô sản, tất yếu
phải dùng đến bạo lực cách mạng. V.I.Lê-nin chỉ rõ: “Không có cách mạng bạo lực
thì không thể thay nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. Việc thủ tiêu nhà
nước vô sản, nghĩa là việc thủ tiêu mọi nhà nước, chỉ có thể thực hiện được bằng con
đường “tiêu vong” thôi”. Bạo lực cách mạng là phương thức duy nhất để một giai cấp

mới, tiến bộ giành lấy quyền lực chính trị. Điều đó đúng đối với giai cấp vô sản và
hơn thế, với giai cấp vô sản, bạo lực cách mạng còn phải thực hiện một nhiệm vụ
quan trọng nữa, đó là đập tan bộ máy nhà nước cũ trước khi bắt tay xây dựng nhà
nước kiểu mới.
2.1 Về nguồn gốc và bản chất của nhà nước.
Trong tác phẩm “nhà nước và cách mạng” V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về nguồn gốc nhà nước. Nhà nước là một hiện
tượng lịch sử ra đời gắn với sự xuất hiện của giai cấp và chế độ tư hữu. “bất cứ ở đâu,
hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được thì nhà nước xuất hiện”. Người khẳng định sự cần thiết phải “đập tan”
nhà nước bóc lột để giành chính quyền về tay nhân dân, giai cấp vô sản phải xây dựng
chính đảng để lãnh đạo cách mạng và tự trở thành giai cấp thống trị. V.I.Lênin chỉ ra
rằng nhà nước nào cũng có bản chất giai cấp sâu sắc, là công cụ của giai cấp thống trị,
“nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của một giai cấp này đối với
giai cấp khác”. Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa nhà nước là tổ chức chính trị của nhân
8


dân, thể hiện ý chí của nhân dân, theo V.I.Lênin với việc sở hữu những tư liệu sản
xuất chủ yếu nhà nước Xã hội chủ nghĩa không còn là nhà nước nguyên nghĩa nữa, nó
chỉ có chức năng trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ mà còn
có vai trò quan trọng hơn là tổ chức xây dựng xã hội mới, trong đó quan trọng hơn là
chức năng tổ chức quản lý kinh tế. Đến giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa xã hội,
khi không còn giai cấp nữa thì cũng không cần nhà nước, nhà nước sẽ tự “tiêu vong”.
Người chỉ ra rằng bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ ngĩa xã hội sẽ xuất hiện
nhiều hình thức chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản. Người chỉ rõ điều cốt lõi
trong học thuyết của C.Mác là đấu tranh giai cấp, những “kẻ nào chỉ thừa nhận có đấu
tranh giai cấp không thôi, thì kẻ đó vẫn chưa phải là một người mác-xít… Chỉ những
người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên
chính vô sản thì mới là người mác-xít”. Theo người “chuyên chính vô sản… không

phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở
kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo đảm sức sồng và thắng lợi của nó chính là
một giai cấp vô sản đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao
hơn so với chủ nghĩa tư bản”. “Xét đến cùng năng suất lao động là cái quan trọng
nhất, chủ yếu nhât cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”.
Trong khi nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước kiểu mới, V.I.Lênin cũng
chỉ ra bản chất dân chủ thực sự của nhà nước Xô viết ở nga: “Các Xô-viết là do chính
bản thân những người lao động thiết lập ra bằng nghị lực và sức sáng tạo cách mạng
của họ, đó là cái bảo đảm duy nhất cho sự tận tụy vô biên của họ đối với quyền lợi
của quần chúng. Khi cử đại biểu của mình vào Xô-viết, mỗi người nông dân cũng đều
có thể bãi miễn họ, và đó chính là tính chất nhân dân chân chính của các Xô-viết”.
Người chỉ rõ: “Chính quyền Xô-viết là một kiểu nhà nước mới, không có bộ máy
quan liêu… một kiểu nhà nước trong nền dân chủ tư sản được thay thế bằng nền dân
chủ mới - một nền dân chủ đang đưa đội tiên phong của quần chúng lao động lên
hàng đầu, làm cho quần chúng đó trở thành những người lập pháp và hành pháp,
thành những đội vũ trang bảo vệ và thiết lập một bộ máy có khả năng cải tạo quần
9


chúng”. V.I.Lênin phản đối định kiến cho rằng người nông dân do trình độ hạn chế
không thể tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Tư tưởng này chúng ta thấy thể hiện
đậm nét ở Montexkie khi hạn chế quyền của người lao động tham gia quản lý nhà
nước và xã hội. V.I.Lênin cho rằng “Chính quyền mới” với tính cách là chuyên chính
của tuyệt đại đa số, đã có thể duy trì và đã được duy trì chỉ nhờ vào sự tín nhiệm của
quần chúng đông đảo, chỉ bằng lôi cuống một cách tự do nhất, rộng rải nhất và mạnh
mẽ nhất toàn thể quần chúng tham gia chính quyền… Đó là chính quyền công khai
đối với mọi người, làm mọi việc trước mắt quần chúng, quần chúng dễ dàng gần gũi
nó, nó trực tiếp sinh ra từ quần chúng, là cơ quan trực tiếp đại biểu cho quần chúng
nhân dân và cho ý chí của họ”. Người còn chỉ rõ khả năng tham gia quản lý nhà nước
và xã hội của những người lao động bình thường nếu họ được học tập quản lý và trực

tiếp tham gia quản lý: “Chính quyền Xô-viết là một bộ máy, nhờ bộ máy này quần
chúng có thể bắt tay ngay vào việc học tập quản lý nhà nước và tổ chức sản xuất trên
quy mô toàn quốc”. Như vậy tư tưởng về chủ quyền nhân dân của Montexkiơ và Rutxô đã được V.I.Lênin phát triển toàn diện và triệt để, nhân dân không chỉ tham gia,
góp ý trong các công việc của nhà nước mà còn là người trực tiếp thực hiện những
công việc ấy.
2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
V.I.Lênin đặc biệt coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong
mọi tổ chức, hoạt động của nhà nước. Người khẳng định tính tất yếu khách quan về sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bởi vì “chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng công nhân,
là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính
quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một
chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường lãnh đạo tất cả những người lao
động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ mà không
cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”. Và “Về nguyên tắc Đảng Cộng
sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không phải nghi ngờ gì nữa”. V.I.Lênin chỉ
rõ Đảng thực hiện lãnh đạo nhà nước là lãnh đạo một cách toàn diện về cả phương
10


diện tổ chức và hoạt động của nhà nước: “trong nước Cộng hòa của chúng ta không
có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan nhà nước giải
quyết mà lại không có chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Tuy nhiên,
Người cũng chỉ rõ để thực hiện vai trò lãnh đạo ấy Đảng phải được xây dựng, củng cố
để thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân: “nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ
tính vững chắc, tính kiên định, tính trong sạch của đảng ta. Chúng ta phải cố gắng làm
cho danh hiệu và ý nghĩa của đảng viên ngày càng cao hơn lên mãi”. Mặt khác, điều
quan trọng hơn trong điều kiện Đảng cầm quyền “cần phân định một cách rõ ràng,
hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng và Ban Chấp hành Trung ương của nó với nhiệm
vụ của chính quyền Xô-viết, tăng thêm trách nhiệm và tính chủ động cho cán bộ Xôviết và các cơ quan Xô-viết, còn về Đảng thì dành quyền lãnh đạo chung, “công tác
của tất cả các cơ quan nhà nước gộp chung lại, mà không can thiệp một cách quá

thường xuyên, không chính quy và thường là nhỏ nhặt như hiện nay”.
2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ của nhà nước kiểu mới
V.I.Lênin đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của
nhà nước đủ năng lực và phẩm chất cách mạng. Người yêu cầu những người lãnh đạo
“phải là những người có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất”, “trong
lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo
ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Người yêu cầu bộ máy Đảng, Nhà
nước phải thành thạo trong việc của mình, phải có uy tín chuyên môn cao, Người chỉ
ra rằng “Làm sao các đồng chí có thể quản lý được nếu không có được uy tín chuyên
môn... nếu không có kiến thức đầy đủ nếu không tinh thông khoa học quản lý”.
Để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước V.I.Lênin hết sức quan tâm về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người chỉ rõ “Muốn đổi mới bộ máy nhà nước của chúng
ta phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba
là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy
hoặc là một lời nói theo mốt nữa... phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào trí
11


não, hoàn toàn thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống”. V.I.Lênin
nhấn mạnh yêu cầu tự giác học tập rèn luyện trong nhà trường, trong thực tiễn công
tác, thi viết sách giáo khoa về quản lý, cử công nhân và hồng quân ưu tú ra nước
ngoài học tập, nghiên cứu.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước V.I.Lênin cũng dành sự quan tâm thích đáng
đối với công tác tuyển chọn, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ. Người yêu cầu khi tuyển
chọn, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải đánh giá theo các tiêu chuẩn: “a) về mặt trung
thực; b) về lập trường chính trị; c) về mặt hiểu biết công việc; d) về năng lực quản lý”
và không chần chừ, do dự phải mạnh dạn thay đổi những cán bộ năng lực yếu kém,
không chịu học tập.
2.4. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nhà nước kiểu mới

Gắn với vấn đề đào tạo, rèn luyện cán bộ V.I.Lênin kịch liệt đấu tranh với lề
thói quan liêu, bệnh tham nhũng, lãng phí trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Người viết “kẻ thù bên trong tệ hại nhất của chúng ta chính là anh chành quan liêu”
và cảnh báo “Những người cộng sản đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì
sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”. Đầu tranh chống quan liêu phải gắn với
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và những lề thói của người sản xuất nhỏ. Người
căn dặn “chỉ có làm cho bộ máy của chúng ta trong sạch đến tột mực, chỉ có giảm bỏ
đến tối đa tất cả những cái không tuyệt đối cần thiết chúng ta mới có thể đứng vững
được. Và đứng vững như thế không phải là đứng vững ở trình độ một nước tiểu nông,
ở trình độ eo hẹp về mọi mặt đó, mà là trình độ ngày càng vương lên nề đại công
nghiệp cơ khí”. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo về sự thất bại của chủ nghĩa xã hội
nếu như không đấu tranh chống lại quan liêu, tham nhũng, lãng phí cũng như bệnh
“kêu ngạo cộng sản” coi thường việc học tập, rèn luyện. Để đấu tranh có hiệu quả với
những văn bệnh ấy, vấn đề mấu chốt là kiểm tra, kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà
nước và cán bộ, công chức nhà nước. Người nhấn mạnh: “kiểm tra nhân viên công tác
và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn
bộ chính sách hiện nay là ở đây, vẫn ở đây và chỉ có ở đây”.
12


2.5. Xây dựng quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân
V.I.lênin quan tâm củng cố mối liên hệ máu thịt giữa tổ chức, bộ máy của
Đảng, Nhà nước với quần chúng, coi đây là điểm khác biệt cơ bản giữa chế độ tư bản
với chế độ xã hội chủ nghĩa. Người yêu cầu tổ chức, bộ máy đảng và Nhà nước phải
“Lên hệ với quần chúng. Sống trong lòng quần chúng. Bết tâm trạng quần chúng. Biết
tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng. Giành được lòng tin tuyệt đối của
quần chúng. Những người lãnh đạo không được tách rời khỏi quần chúng được lãnh
đạo, đội quân tiên phong không được tách rời khỏi toàn bộ đội quân lao động”. Giữ
mối liên hệ với quần chúng, phát huy tối đa quyền làm chủ của họ sẽ tạo nên sức
mạnh vô địch của nhà nước và chế độ mới. Người yêu cầu phải “phát triển dân chủ

đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình
thức ấy trong thực tiễn... đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu
tranh vì cách mạng xã hội”.
2.6. Các nguyên tắc tổ chức hoạt động của nhà nước kiểu mới
V.I.lênin còn quan tâm đến các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước
kiểu mới. Trong đó đáng chú ý là nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước; nguyên tắc nhân dân tham gia xây dựng nhà nước, tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; nguyên tắc công khai, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên
tắc tập trung dân chủ, nhất là vấn đề quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ
trách. Người cho rằng “lãnh đạo tập thể là điều cần thiết cho việc giải quyết các công
việc của nhà nước công nông. Nhưng mọi sự thái quá về lãnh đạo tập thể, mọi sự lệch
lạc đưa đến tình trạng chậm chạp, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, biến các cơ
quan lãnh đạo tập thể thành chổ bàn cải suông, điều là tai họa rất lớn, cần phải chấm
dứt cho bằng được, hết sức mau chóng không được ngại dù bất cứ biện pháp nào”.
Người đòi hỏi “một người nhất định hoàn toàn chịu trách nhiệm về thực hiện một
công việc nhất định”. “nếu chế độ tập thể lãnh đạo là cần thiết trong việc thảo luận
các vấn đề căn bản thì cũng cần thiết có chế độ trách nhiệm cá nhân và cá nhân điều
khiển để tránh hiện tượng lề mề và hiện tượng trốn trách nhiệm”.
13


2.7. xây dựng hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa
Trong hoạt động của nhà nước Xô-viết, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm vấn đề xây
dựng pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp
luật là ý chí của nhà nước và của nhân dân lao động. Theo V.I.Lênin “nếu nó là ý chí
của nhà nước thì phải được biểu hiện dưới hình thức một đạo luật do chính quyền đặt
ra, nếu không thế thì hai tiếng “ý chí” chỉ là một sự rung động không khí do những
âm thanh rỗng tuếch gây nên”. Người cho rằng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã
hội, do tác động của nhiều yếu tố liên quan đến văn hóa, đến trình độ phát triển kinh
tế - xã hội, đến tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ... nên người ta chưa thể

tức khắc tự giác tuân theo mọi luật lệ của chính quyền Xô-viết, vì vậy “chúng ta cần
có nhà nước, chúng ta cần có cưỡng bức. Các tòa án Xô-viết phải là những cơ quan
của nhà nước vô sản thực hiện sự cưỡng bức đó. Và nhiệm vụ to lớn của tòa án là phải
giáo dục dân chúng về kỷ luật lao động”. V.I.Lênin yêu cầu phải chấp hành nghiêm
túc pháp luật của chính quyền Xô-viết, nhất là cơ quan, cán bộ, cán bộ Đảng, Nhà
nước. Khi cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật phải xử nặng hơn vì lỗi lớn hơn là
người ít hiểu biết pháp luật. Pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện thống nhất
trên phạm vi toàn quốc nghĩa là mọi vi phạm pháp luật phải xử lý nghiêm minh,
không thể “dung túng quan điểm muôn thuở của nước nga và những tập quán mang rợ
muốn duy trì pháp chế của ca-lu-ga cho khác với pháp chế của tỉnh ca-dan”. Khi thực
hiện chính sách kinh tế, dân sự được mở rộng thì càng đòi hỏi phải quan tâm hoàn
thiện pháp luật, tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương, tạo môi trường pháp lý thuận
lợi cho các hoạt động kinh tế. Người chỉ rõ “hiện nay chúng ta phải phát triển sự trao
đổi của dân chúng, chính sách kinh tế mới đòi hỏi điều đó, mà cái đó lại đòi hỏi phải
có pháp chế cách mạng rộng lớn hơn... Điều kiện của một chính quyền vững vàng và
chắc chắn càng tiến bộ, sự trao đổi của dân chúng càng phát triển, thì lại càng cấp
bách đề ra khẩu hiệu kiên quyết phải có pháp chế cách mạng rộng lớn hơn”.
Trên đây là những tư tưởng, quan điểm cơ bản của V.I.Lênin về nhà nước và
pháp luật kiểu mới. Khác với C.Mác và ph.Ăngghen, V.I.Lênin là người trực tiếp lãnh
14


đạo dành chính quyền và xây dựng nhà nước kiểu mới - nhà nước Xô viết, nhà nước
của giai cấp công nhân và nhân dân Nga. Vì vậy những tư tưởng, quan điểm của
Người hết sức phong phú và còn nguyên giá trị, ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

15



Chương 3 Sự vận dụng quan điểm Lênin về nhà nước của Đảng ta trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề chính quyền và
việc xây dựng, hoàn thiện một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ ở Việt Nam luôn
luôn là mối quan tâm hàng đầu, một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng.
Đối với nước ta, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Để thành công, chúng ta vừa phải
đứng vững trên lập trường lý luận Mác - Lênin, vừa phải kế thừa được những thành
quả xây dựng nhà nước pháp quyền đã có trên thế giới, vừa phải xuất phát từ thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Những tư tưởng ấy chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn quan trọng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đang được đặt ra như một
tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan.
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt
nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập
và trong quá trình phát triển, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một
nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy
định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các
Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được
sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động
của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc
lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với
nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một
tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.
16



Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ
xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức
sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ,
phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu
khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà
nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực
để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ,
củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
3.2. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài việc bảo đảm các tiêu
chí của nhà nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
riêng, còn có một số đặc điểm sau:
Về quá trình hình thành và phát triển, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở đánh đổ chế độ phong kiến, thực
dân, không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây là đặc điểm lịch
sử rất quan trọng cho chúng ta thấy rõ điểm xuất phát của quá trình xây dựng nhà
nước cùng với những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc
xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và
hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu
tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư
17



sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của nhà nước ta. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định
phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm
đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể
hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương thức tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để
kiểm nghiệm. Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm
quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền,
tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản nhất của nguyên
tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập
trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền lực
nhà nước. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này cần cân nhắc, xem xét các điều kiện
cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực của nguyên tắc này; đặc biệt phải
lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy
công quyền hiện nay.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình
đối với nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa nhà nước với công dân, giữa dân
chủ với kỷ cương trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do
pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một đặc điểm quan trọng, xuyên suốt trong


18


toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay và phải được thực hiện
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành pháp và tư
pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đây là đặc
điểm nổi bật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Hiến pháp
ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua
cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng pháp luật. Đảng không làm thay
nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Đảng không
ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà
nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức
và xây dựng bộ máy để bảo đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo nhà nước, nhưng
không chồng chéo với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy của Quốc hội,
Chính phủ và các cơ quan tư pháp.
3.3. Một số nội dung về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Để tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng
ta cần tập trung vào một số vấn đề sau đây:
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải dựa vào lực
lượng nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phải xuất phát từ nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và phân công
quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện ba quyền
19


thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động và
sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững
mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước vững mạnh, cần tiếp tục
đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách
tư pháp; xác định rõ tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức
của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục nghiên cứu làm rõ mô
hình tổ chức các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) cho phù hợp
với yêu cầu mới; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ quan
nhà nước thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, bảo đảm sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế. Theo đó: Quốc hội phải thật sự là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; thực hiện chức năng lập
hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Tổ chức và hoạt động của
Quốc hội cần được đổi mới mạnh hơn nữa theo hướng tăng cường chất lượng và vị
thế của đại biểu Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội; tăng cường số đại biểu Quốc hội chuyên trách đến tỷ lệ hợp
lý (khoảng 40% hoặc 50% tổng số đại biểu Quốc hội); tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn
nữa quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, đổi mới phương thức giám sát và cách thức
quyết định ngân sách nhà nước.
Chính phủ phải nâng cao hiệu lực hoạt động của mình, thực sự là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện mọi chính sách,
20


biện pháp hữu hiệu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn
hóa, tinh thần của nhân dân; xác định rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ và từng Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong việc quản lý ngành, lĩnh vực phụ trách;
cải tiến việc phân định, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền
theo hướng phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương kết hợp với quản lý theo ngành
và theo lãnh thổ. Chính phủ khẩn trương hoàn thiện hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy của
mình theo hướng quản lý vĩ mô và mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; từng bước
sắp xếp, tổ chức lại các bộ, ngành ở trung ương, bảo đảm tinh gọn, hợp lý và được
hiện đại hóa.
Tiếp tục quán triệt chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước một
cách sâu rộng, toàn diện, đồng bộ từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tập trung cải
cách thể chế hành chính; cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa các thủ
tục trong các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của
nhân dân; loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết; công khai các quy
định, thủ tục hành chính; triển khai trong các cấp hành chính của cả nước thực hiện cơ
chế "một cửa"; chấn chỉnh việc ban hành các thủ tục hành chính và quy định lệ phí,
bảo đảm chặt chẽ; nâng cao chất lượng giải quyết các khiếu kiện của nhân dân; chấn
chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất
lượng cả về phẩm chất và năng lực, kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu,
tham nhũng, thoái hóa, biến chất và các tiêu cực khác trong hệ thống hành chính; loại
bỏ cán bộ, công chức kém phẩm chất và năng lực ra khỏi bộ máy hành chính nhà
nước. Thực hiện cơ chế bãi miễn những người không xứng đáng. Có những giải pháp
đồng bộ để khắc phục cho được thái độ vô trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Đó là thái độ làm việc thụ động, né tránh

khó khăn, sợ va chạm, cốt sao giữ yên được vị trí trong cơ quan nhà nước. Kiên quyết
xóa bỏ mọi rào cản đối với công cuộc cải cách hành chính.

21


Đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp để xây dựng một nền tư pháp Việt Nam
vững mạnh, minh bạch, bảo đảm công lý, công bằng, dân chủ, tận tụy phục vụ nhân
dân. Phải xuất phát từ mục tiêu lấy tổ chức và hoạt động của tòa án làm trung tâm của
cải cách tư pháp. Chính quy hóa lực lượng điều tra, nghiên cứu tổ chức lại cơ quan
điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, có thể thành hệ thống cơ quan độc lập thuộc
Chính phủ hoặc thuộc hệ thống cơ quan công tố. Đổi mới công tác thi hành án theo
hướng tập trung thống nhất quản lý vào một đầu mối.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng việc định hướng về tổ chức bộ máy
nhà nước, lựa chọn, giới thiệu cán bộ để giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà
nước, lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng thành
pháp luật; tăng cường quản lý và kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hoạt động
trong bộ máy nhà nước, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy được tính
chủ động, năng động và tự chịu trách nhiệm của những người đứng đầu của các cơ
quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng quan điểm tích
cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình
đẳng trong xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của
các thành viên. Mặt trận có vai trò to lớn trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền

của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khối đại đoàn kết
toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc phải được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở
liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ
22


cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước, góp phần rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa
thực hiện quyền dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan Nhà nước, các đại biểu
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Đảng và Nhà nước
xây dựng và hoàn thiện các quy chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, qua
đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã
hội.

23


KẾT LUẬN
Qua thực tiễn tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, qua nghiên cứu các
quan điểm tư tưởng về tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy nhà nước qua các
thời kỳ lịch sử, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền
dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Nói cách khác,
nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính
tối cao của pháp luật được tôn trọng. Tương ứng với mỗi kiểu nhà nước (chủ nô,
phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa) đều có một hệ thống pháp luật tương ứng và đạt
mức độ phát triển khác nhau. Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và

điều kiện để xuất hiện nhà nước pháp quyền.
Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc
thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. Các yếu
tố này, về thực chất, là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các
điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi dân tộc.
Chúng không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình
dựng nước, giữ nước và phát triển mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các
giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước
pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp
quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị
chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể
có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung, thống nhất cho mọi quốc gia,
dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp
quyền thích hợp.
Kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ đó của nhân loại, Đảng ta cho rằng
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân phải
phù hợp với chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối của nền kinh tế thị
trường với định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
24


phải phù hợp với tính chất xã hội hoá theo hướng phát huy cao độ sáng kiến của cá
nhân, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tự do sáng tạo trong mọi hoạt động của mình.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đảm bảo thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân là một cuộc đấu tranh lâu dài phức tạp, vừa phải chống
tư tưởng bảo thủ, vừa phải chống tư tưởng cực đoan và phải đi từng bước vững chắc,
giữ vững ổn định chính trị. Cần kiên định các nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã đúc kết được, kiên quyết vạch trần và nghiêm
khắc phê phán những luận điệu xuyên tạc của những phần tử thù địch. Với quyết tâm
cháy bỏng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm đầu của

thế kỷ XXI vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
với sự lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta tin
tưởng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân sẽ tiếp tục
giành được những thành tựu mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

25


×