Câu 3: Những vấn đề cơ bản, mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam trong
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng ta? Giá trị lý luận, thực tiễn của Cương
lĩnh.
Liên hệ thực tế
Đã 93 năm trôi qua, nhưng những giá trịlý luận và thực tiễn to lớn của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên vẫn là ngọn cờ soi sáng, định hướng cho sự phát triển của
đất nước và chỉ đường cho mọi hoạt động của Đảng tavà nhân dân ta. Điều này
được thể hiện rõ từ chính thực tiễn sự vận động của lịch sử dân tộc, của cách
mạng Việt Nam kể từ năm 1930 đến nay.
Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu của Đảng. Thực hiện Cương lĩnh năm 1930,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian
khổ, vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ
đại. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945, đập tan ách thống trị của
thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đưa dân tộc ta
tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống
xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sau chiến tranh, đất nước ta gặp mn vàn khó
khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai
cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở
vật chất của CNXH, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu
cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mơ hình, cơ
chế tập trung bao cấp khơng cịn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược
điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng XHCN, có lúc,
có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những
năm
đầu
cả
nước
đi
lên
chủ
nghĩa
xã
hội.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, trước những biến động của tình hình
quốc tế và những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, Đảng ta
nhận thấy rằng đổi mới là đòi hỏi bức thiết của tự thân trong nước, có ý nghĩa
sống cịn, đồng thời cũng là xu thế của thời đại. Chính tư duy lạc hậu của chúng
ta đã cản trở phát triển kinh tế, khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng. Vậy thì muốn phát triển kinh tế ta phải đổi mới tư duy lạc hậu, bảo thủ,
đổi
mới
"nhận
thức
và
cách
suy
nghĩ".
Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực
tiễn của nhân dân, tìm tịi, hoạch định đường lối đổi mới. Tại Đại hội VI (1986 )
đặc biệt là sau Hội nghị TW 6, khóa VI, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật,
Đảng ta đã phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và khẳng định
việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần; đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa; đảm bảo cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế được tự do kinh
doanh hợp pháp; thừa nhận nền kinh tế nước ta có 2 đặc trưng là tính kế hoạch
và quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm
1987-1988, tình hình kinh tế-xã hội nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, giá cả leo thang, lạm phát vẫn ở mức cao, lương thực và hàng tiêu
dùng thiếu nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục
tình trạng đó, vấn đề cấp bách đặt ra là phải thể chế hoá, cụ thể hố đường lối đổi
mới thành pháp luật và các chính sách, chủ trương, giải pháp cụ thể để hiện thực
hoá đường lối, quan điểm của Đảng. Ngày 14/11/1987, Hội đồng Bộ trưởng ra
Quyết định số 217/HĐBT về quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của các
đơn vị kinh tế quốc doanh. Ngày 29/12/1987, Quốc hội khố VIII thơng qua
Luật Đầu tư nước ngoài hiệu lực từ ngày 01/01/1988. Bộ Chính trị ra Nghị quyết
số 10/NQ-TW ngày 05/4/1988 (khốn 10) về đối mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân và xác định vai trị
kinh tế hộ nơng dân. Cuối năm 1988, thực hiện bù giá vào lương, xoá bỏ chế độ
phân phối bao cấp, tem phiếu. Ngày 29/3/1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khoá VI đề ra 12 chủ trương chính sách lớn, cụ thể hố những
quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, giải quyết nhiều vấn đề
bức bách về kinh tế, xã hội thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, chống lạm
phát, đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, giữ vững con đường và
mục tiêu XHCN, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và vai trị quản lý của Nhà
nước.
Nhờ những chính sách, giải pháp, ngun tắc đó mà cơng cuộc đổi mới phát
triển đúng hướng và từ năm 1989 có được những thành tựu bước đầu. Năm 1989
Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới. Chính trị xã hội ổn định,
vượt qua thách thức do tác động của khủng hoảng và sự sụp đổ của chế độ
XHCN ở các nước Đơng Âu. Trước bối cảnh mơ hình CNXH hiện thực ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống XHCN thế giới tạm thời lâm vào thoái trào,
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt
để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định
hướng XHCN. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất
nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Dưới ngọn cờ của Cương lĩnh
năm 1991, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vững vàng vượt qua nhiều sóng gió,
thử thách, giành nhiều thắng lợi trong cơng cuộc đổi mới, tiến hành cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước ta tiếp tục từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực
tiễn
Việt
Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được
những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN tiếp tục phát triển. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
(1996); vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục
có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu
hiện nay; thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và
Chính phủ, bước đầu thực hiện được mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển, đứng vào nhóm
các nước có thu nhập trung bình. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc
phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày
càng
nâng
cao.
Hiện nay, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có nhiều
biến đổi to lớn và sâu sắc với đặc điểm nổi bật của thời đại là các nước với chế
độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội dù gặp
nhiều khó khăn, thử thách nhưng sẽ có những bước tiến mới. Con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là con đường mới mẻ, chưa có tiền lệ, chúng ta
phải vừa đi vừa dị đường, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm; khơng ít vấn đề mới
nảy sinh cần được nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Bối cảnh quốc tế và thực
tiễn cách mạng nước ta đòi hỏi Đảng ta phải giữ vững định hướng, đồng thời bổ
sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất
nước trong thời kỳ mới. Với tinh thần đó, Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã
quyết định phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh
năm 1991 cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới (bổ
sung phát triển năm 2011). Đồng thời, Đại hội XI của Đảng cũng đã đề cập đến
nhiều vấn đề, hiện trạng của nước ta hiện nay. Cơ sở hạ tầng là một trong những
trở ngại lớn nhất của phát triển kinh tế tại Việt Nam. Chất lượng tăng trưởng
thấp thể hiện qua chỉ số ICOR cao, cơ cấu trong nền kinh tế thiếu tính bền vững
và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những trở ngại của nền kinh tế Việt Nam là thiếu nguồn nhân lực có
trình độ. Chất lượng nhân lực không cao và chậm áp dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ khiến cho năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa kém,
giá trị gia tăng của các sản phẩm chưa cao. Nguồn nhân lực giá rẻ khơng cịn
được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp
nhất là ở khu vực nông thôn trở thành một rào cản phát triển kinh tế, ảnh hưởng
đến việc thực hiện các mục tiêu quốc gia như thực hiện chương trình xây dựng
nơng thôn mới, mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đến
năm 2020. Mặt khác tâm lý thỏa mãn với những kết quả đạt được bước đầu trong
công cuộc đổi mới (thốt khỏi nhóm các nước nghèo) là nguy cơ Việt nam mắc
phải bẫy thu nhập trung bình mà rất nhiều quốc gia khác mắc phải. Bên cạnh đó
tệ tham nhũng trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ lãnh đạo làm ảnh hưởng đến
uy tín của Đảng. Vì vậy chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn thấp
và chưa đạt được độ bền vững. Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp thể hiện ở sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tính hiệu quả của kinh tế thấp, đồng thời, sức
cạnh tranh của nền kinh tế cịn yếu. Vì vậy Nghị quyết TW 3 khóa XI đã tập
trung vào vấn đề tái cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt là bộ phận kinh tế nhà nước
(cả hệ thống ngân hàng và các tập đoàn, tổng cơng ty Nhà nước) nhằm minh
bạch hóa tài chính của kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
kinh tế Nhà nước và của nền kinh tế. Nghị quyết TW 4 khóa XI về “Một số vấn
đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” nhằm chỉ ra những tồn tại, hạn chế
cần kịp thời tháo gở nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì thế cần phát huy
việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo Cương lĩnh của Đảng trong từng giai đoạn
cách mạng để Cương lĩnh của Đảng thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta
nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế thị trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
hiện
nay
ở
nước
ta.
Câu 4: Lý luận về xây dựng khối đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng cảu
Đảng ta? Kháng chiến chống mỹ, cứu nước, ở nước ta có những hình thức mặt
trận dân tộc thống nhất nào?
Liên hệ thực tế.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh
của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát
triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta trải qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch
họa, để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Thực hiện
đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước
ta. Đảng ta khẳng định, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước phải phản ánh được nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân
chúng để có thể tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng cho cách mạng.
Quan điểm mới của Đảng về tăng cường đại đoàn kết dân tộc trong giai
đoạn cách mạng mới
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước theo tinh
thần Nghị quyết mà Đại hội XIII của Đảng đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta những nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang. Đảng ta chỉ rõ:
“Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ
và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề,
phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; địi hỏi tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn ta phải đồn kết một lịng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy;
có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình;
chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy
mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; khơng ngừng gia tăng tiềm lực mọi
mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã
đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”4.
Trong đó, “Các thế lực thù địch cấu kết với các phần tử phản động, cơ hội chính
trị trong nước chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là phá
hoại nền tảng chính trị, tư tưởng, nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng
sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”5.
Ngày nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi
mới; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển
kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; giữ
vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; giữ vững mơi
trường hồ bình, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên,
chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, nhất là tác động của suy thối
kinh tế, tài chính, những tiêu cực và tệ nạn xã hội, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển,
đảo... làm ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng và đời sống các tầng lớp Nhân dân.
Tại buổi Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Đại đoàn kết dân
tộc là chủ trương chiến lược, có ý nghĩa sống cịn, quyết định sự thành bại của
cách mạng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng của
Đảng ta. Là biểu trưng sinh động của tư tưởng đoàn kết thống nhất tồn dân tộc.
Bởi vậy, địi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao hơn nữa, nỗ lực lớn hơn nữa,
đoàn kết thống nhất chặt chẽ hơn nữa để phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Với vai trò là tổ chức đại diện của Nhân dân, là một bộ phận cấu thành quan
trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên cần làm tốt hơn nữa vai trị là nịng cốt chính trị, có trách nhiệm vẻ
vang trong xây dựng khối đại đồn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động Nhân dân
đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, xây dựng đồng
thuận xã hội để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính trị của đất nước
trong giai đoạn mới. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải
là ba chân kiềng vững chắc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta, Tổ
quốc ta.
Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Tăng cường xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi
mọi tầng lớp Nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đây vừa là nhiệm vụ vừa là định hướng cơ bản nhằm nâng cao nhận thức trách
nhiệm và quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo: Cách mạng là sự nghiệp của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và chính Nhân dân là người làm nên những
thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nhiệm vụ bao trùm, quan
trọng hàng đầu của Mặt trận Tổ quốc là tiếp tục xây dựng và tăng cường củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp Nhân dân, bảo đảm sự
thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng và hành động: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính
trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh
mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”6. Đồng thời “Có kế sách ngăn ngừa
các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”7.
Đại đoàn kết dân tộc là chủ trương chiến lược, có ý nghĩa sống còn, quyết định
sự thành bại của cách mạng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược
cách mạng của Đảng ta. Là biểu trưng sinh động của tư tưởng đoàn kết thống
nhất toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc cần động viên, phát huy tốt hơn nữa vai trị
đồn kết các giai tầng, nêu cao vai trị của các cá nhân tiêu biểu trong các giới
đồng bào, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tăng
cường phát huy dân chủ, tinh thần thân ái, trao đổi, bàn bạc, bảo đảm sự bình
đẳng, tơn trọng, thơng cảm lẫn nhau; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ,
thành phần, giai cấp; chấp nhận những điểm khác nhau khơng trái với lợi ích
chung của dân tộc để Mặt trận các cấp thực sự là trung tâm đoàn kết, tập hợp
mọi lực lượng xã hội, đóng góp trí tuệ, cơng sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tiếp tục thể chế hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” thành những chính sách, quy chế, quy định cụ thể để Nhân dân phát
huy quyền làm chủ và thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà
nước và xã hội
Xây dựng cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức để Nhân dân được phát
huy quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát triển tài năng, sức
sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích
cho mình và cho đất nước. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “gần
dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận
tụy với cơng việc, “nói đi đơi với làm”, thực sự là công bộc của Nhân dân. Khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của
nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài. “Phát triển
con người toàn diện và xây dựng nền văn Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn
hóa dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”8.
Phát huy sức mạnh sáng tạo to lớn của các tầng lớp Nhân dân, đồn viên,
hội viên góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước
Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh
mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Muốn làm được như vậy,
Mặt trận Tổ quốc cần thực hiện tốt hơn nữa vai trị nịng cốt trong việc chủ trì
hiệp thương, phối hợp với các tổ chức thành viên và các cấp chính quyền động
viên, phát huy tốt hơn nữa vai trị đồn kết các giai tầng, nêu cao vai trị của các
cá nhân tiêu biểu trong các giới đồng bào, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài. Quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng và lợi ích thiết thực
của mỗi tầng lớp Nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi và vận động, lôi cuốn để
Nhân dân tham gia mạnh mẽ vào các phong trào thi đua, các cuộc vận động do
Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động; phát huy mọi nguồn lực, khả năng
sáng tạo, đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung của đất nước.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài
học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện
thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bài học kinh nghiệm này còn nguyên
giá trị và cần tiếp tục phát huy nhằm khơi dậy sức mạnh to lớn của tồn dân tộc
thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh.
Nâng cao tinh thần yêu nước và phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân
tộc, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”
Đồn kết là một truyền thống và bài học cực kỳ quý báu của dân tộc Việt
Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ khi
ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln xác định “đồn
kết” là giá trị cốt lõi và “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là
cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,
trước những biến động lớn của thời cuộc hiện nay, đòi hỏi tinh thần yêu nước
Việt Nam, một mặt, phải duy trì, củng cố những đặc trưng làm nên sức mạnh
truyền thống của dân tộc; mặt khác, phải xây dựng và củng cố thêm những nền
tảng lý luận và sức mạnh mới nhằm thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”, phòng
chống dịch Covid-19 như “chống giặc”. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất cao, đòi hỏi phải tiếp tục vận
dụng, phát huy truyền thống, đổi mới tư duy, hành động, quyết tâm thực hiện
thắng lợi quan điểm, phương châm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
bằng biện pháp hịa bình.
Qn triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng
cường đồng thuận xã hội; cần tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Giữ vững độc lập, tự chủ,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường
tiềm lực quốc phòng, an ninh. phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại; phát huy ý chí tự cường dân tộc, hiện thực hóa khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để tập hợp các tầng lớp Nhân dân
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn vững chắc trong
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Câu 7: Những thành tựu thực tiễn trong quá trình Đảng lãnh đạo cơng cuộc đổi
mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế( từ năm 1986- đến nay)
Liên hệ thực tế:
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và đạt được
những thành tựu to lớn. 35 năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan
trọng đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Sự nghiệp đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải
biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành công. Việt Nam đã đạt được những
thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và
tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng
trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có
bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ
vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế,
nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới
trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi
mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%[1], thì
giai đoạn 1991-1995 GDP bình qn đã tăng gấp đơi, đạt 8,2%/năm[2]; các giai
đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016-2019 đạt mức bình
quân 6,8%[3]. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong
top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi
thành công nhất [4]. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có
mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho
GDP trong 5 năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ
tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Quy mơ, trình độ nền kinh tế
được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã
đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm[5]. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần
được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/
năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm[6]. Các cân đối lớn của nền
kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao
động - việc làm,… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng
kinh tế vĩ mô. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700
USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ
hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá)[7].
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131
nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập[8]. Xếp hạng về phát
triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm
2020 [9], cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường
toàn cầu của Việt Nam. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến
lược về kinh tế. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược, tồn diện với nhiều nước, trong đó có tất cả các nước P5 (Mỹ,
Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh) và hầu hết các nước chủ chốt trong trong khu vực
và trên thế giới; đã có trên 70 nước cơng nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường. Các đối tác FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu
lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó
có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của
Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và
Đông Á. Năm 2020 phê chuẩn và triển khai có hiệu quả EVFTA; tham gia ký
Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và ký FTA Việt Nam Anh)…
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu
đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch Covid-19. Y tế
đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ
sinh giảm từ 32,6 năm 1993 xuống còn 16,7 năm 2020 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi
thọ trung bình tăng từ 70,5 năm 1990 lên 75,4 năm 2019, cao nhất giữa các quốc
gia trong khu vực có mức thu nhập tương đương. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức
khỏe tồn dân là 73, cao hơn trung bình khu vực và trung bình thế giới. Theo báo
cáo của BHXH Việt Nam, tính đến hết tháng 7/2021, tồn quốc có khoảng 16
triệu người tham gia BHXH (chiếm 32% lực lượng lao động). Trong đó có hơn
14,7 triệu người tham gia BHXH bắt buộc; gần 1,2 triệu người tham gia BHXH
tự nguyện; hơn 13 triệu người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp; hơn 85 triệu người
tham gia BHYT (đạt tỷ lệ bao phủ 87,1% dân số)[10].
Về triển vọng, Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mơ và đang
trong xu hướng phục hồi theo hình chữ V; là một trong những nền kinh tế tăng
trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Giai đoạn 2021-2025, Việt Nam tiếp tục
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều sâu, hồn thiện mơ hình tăng
trưởng đồng bộ trên cả phương diện kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội và kinh tế
- sinh thái, thúc đẩy phát triển trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất
lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế.
Trong 35 năm đổi mới, các thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được
thể hiện qua chỉ số HDI có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt
đối cũng như thứ hạng. “Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt
Nam là 0,704. Với kết quả này Việt Nam đã lọt vào danh sách các nước phát
triển con người cao và được xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ”[11].
Chỉ số phát triển con người vừa thể hiện tính nhân văn, vừa là thước đo tổng hợp
phản ánh sự phát triển của con người trên các phương diện: sức khỏe tri thức và
thu nhập. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc
gia, dựa vào năm tiêu chí: 1) con người là trung tâm của sự phát triển; 2) người
dân là mục tiêu của sự phát triển; 3) việc nâng cao vị thế của người dân (bao
gồm cả sự hưởng thụ và cống hiến); 4) chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho
người dân về mọi mặt (thí dụ như tơn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch,...); 5)
tạo cơ hội để lựa chọn tốt nhất cho người dân về kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa...”[12].
Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã
gia nhập WTO, thiết lập được 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược tồn
diện; có quan hệ ngoại giao, kinh tế với 190/200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đặc
biệt, WTO cùng với hơn hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên
nhiều lĩnh vực mà Việt Nam tham gia, là những cánh cửa lớn, đa chiều để Việt
Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và tự
tin hội nhập ngày càng đầy đủ, hiệu quả hơn.
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các
tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), các tổ
chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và
vai trị ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tơn trọng. Bên cạnh
đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp
quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản Thế giới
của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp
quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam đã hoàn thành tốt cùng lúc cả ba trọng trách: Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và
Chủ tịch AIPA. điều này góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu
vực và trên thế giới. Việc Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bỏ phiếu bầu 5 nước
ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020 - 2021, ngày
7/6/2020, tại trụ sở Liên hợp quốc tại New York (Mỹ), với số phiếu kỷ lục chưa
từng có (192/193 phiếu) trong 75 năm phát triển của Liên Hợp quốc đã tiếp tục
khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam. Có thể khẳng định, Việt Nam đã thực
sự chủ động, tích cực tham gia hội nhập quốc tế với một vị thế mới, bắt kịp với
xu thế của thời đại.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình phấn
đấu liên tục, bền bỉ của tồn Đảng, tồn dân và toàn quân ta. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Những thành tựu đó là sản phẩm
kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên
tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với
quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại;
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh
chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững
vàng tiếp tục đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; là nền tảng để
Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới”[13]. Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 90 năm thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 – 2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú trọng đã nhấn mạnh: “Thực tiễn phong phú, sinh động của
cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn
và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam”[14].
Những thành tựu to lớn qua 35 năm đổi mới đánh dấu một bước tiến chưa từng
thấy trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, minh chứng thuyết phục cho
tính chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng. Ý nghĩa to lớn của những thành tựu đó khơng đơn thuần ở những con số
mà quan trọng hơn là ở những nỗ lực cao nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã tập
trung một cách hiệu quả trong một thời gian khơng dài, trong những điều kiện rất
khó khăn, phức tạp, để cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho
nhân dân. Đó cũng là cơ sở niềm tin để khơi dậy khát vọng của nhân dân ta về
một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, vì hạnh phúc của nhân dân.