Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài thu hoạch, quyền con người một số quan điểm, giải pháp của đảng về quyền con người và bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.43 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................4
1. Khái niệm quyền con người................................................................4
2. Thực tiễn việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay..........4
3. Một số thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ và phát
triển quyền con người tại Việt Nam.......................................................6
4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay..........8
5. Một số giải pháp bảo đảm các quyền con người ở nước ta............11
KẾT LUẬN................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................18

1


MỞ ĐẦU
Quyền con người không được xác lập đồng thời cùng với sự xuất
hiện của loài người trên thế giới, trong lịch sử phát triển đã chứng minh
quyền con người khơng tự nhiên mà có mặc dù nó là quyền “tạo hóa” của
con người, ví dụ như ở thời kỳ chiếm hữu nô lệ con người ở tầng lớp nô lệ
chỉ được coi như hàng hóa mua đi bán lại… Họ khơng được coi là con
người thì làm sao có thể nói đến việc hưởng quyền con người. Vì vậy, vấn
đề thực hiện quyền con người là cả một quá trình đấu tranh giải phóng áp
bức lâu dài, để quyền con người được tôn trọng, thừa nhận và hưởng thụ
một cách đầy đủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt Nam mới, lúc sinh
thời ln có một ước vọng: "Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Ý
nguyện đó của Người phản ánh khát vọng của nhân dân Việt Nam, thực


hiện những giá trị thiết yếu về quyền con người, là mục đích, tơn chỉ hoạt
động xuyên suốt của Nhà nước Việt Nam. Dân tộc Việt Nam, không phân
biệt già trẻ, gái trai, sắc tộc, tơn giáo đã đồn kết một lịng, vượt qua mọi
thử thách, gian khổ, hy sinh để giành  và giữ các quyền cơ bản đó.
Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền
công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 và sau đó tiếp tục
được khẳng định với những nội hàm rộng, hẹp khác nhau trong các Hiến
pháp năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Hiến pháp năm 2013, tại Điều 14
khẳng định một cách rõ ràng rằng, ở Việt Nam, “các quyền con người,
quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng
nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. 
Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp xây dựng đất nước, khẳng định con người là trung tâm của
2


các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân
tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó việc nắm vững thêm Một số quan
điểm, giải pháp của Đảng về quyền con người và bảo đảm quyền con
người ở nước ta hiện nay là rất cần thiết để có nhận thức đầy đủ về chính
sách, quan điểm của Đảng, nhà nước ta trong việc tôn trọng, bảo đảm và
thực hiện quyền con người.

3


NỘI DUNG
1. Khái niệm quyền con người
Từ nửa sau thế kỷ XX, với sự hình thành của Hiến chương Liên hợp

quốc và Bộ luật nhân quyền quốc tế, quyền con người đã trở thành một
khái niệm tồn cầu, có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều quốc gia, ở Việt
Nam, khái niệm quyền con người đã được ghi nhận trong một số Hiến
pháp, điển hình như Hiến pháp 2013, quy định: Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, tất cả các quyền của con người về chính trị, dân sự,
kinh tế, xã hội và văn hóa được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Có nhiều khái niệm về quyền con người như Tuyên bố Viên và
Chương trình hành động (1993) định nghĩa: “Quyền con người và tự do cơ
bản là quyền bẩm sinh của mọi người được hưởng; việc thúc đẩy và bảo vệ
các quyền đó là trách nhiệm trước tiên của Chính phủ”. Hoặc theo Văn
phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (1994): “Quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại
đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”…
Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những
quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là
quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp
khơng được xâm hại.
Dù cịn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng có thể hiểu: Quyền con
người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phầm giá vốn có của tất cả
mọi người, được ghi nhận, bảo đảm bằng pháp luật quốc gia và quốc tế.
2. Thực tiễn việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay
Sự nghiệp đổi mới đã tạo ra bước phát triển quan trọng cho đất nước,
thành quả đạt được có vai trị, đóng góp to lớn của việc đổi mới nhận thức
4


và thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Từ việc đáp ứng các
quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, tiến trình đổi mới đã đặt ra những
yêu cầu mới về quyền con người.

Trong quá trình đổi mới, đồng thời có những tác động đan xen cả
tiêu cực và tích cực đến thực hiện quyền con người, như: gia tăng khoảng
cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, tiềm ẩn những bất
bình đẳng trong quá trình bảo đảm quyền con người; sự bộc lộ một cách đa
dạng, có khi gay gắt, nhiều vấn đề cũ đồng thời xuất hiện những vấn đề
mới liên quan đến công tác bảo đảm quyền con người (quyền sở hữu đất và
bất động sản; bảo vệ quyền có việc làm và nghề nghiệp; bảo vệ quyền của
người tiêu dùng; quyền về mơi trường; quyền sở hữu trí tuệ; quyền của
kiều dân nước ngoài định cư tại Việt Nam và Việt kiều; gia tăng vai trò của
các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế trong việc giải quyết các vấn
đề quyền con người; quyền của người đồng tính,...). Sự tác động của biến
động kinh tế, nhất là của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn
cầu vừa qua, đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam; sự tác động đa chiều
của truyền thông và dư luận xã hội trong điều kiện tồn tại, phát triển các
mạng xã hội; sự tác động của pháp luật và cơ chế nhân quyền quốc tế, khu
vực đến công tác bảo đảm quyền con người,... cũng tác động đến thực hiện
quyền con người. 
Trong điều kiện như vậy, công tác bảo đảm quyền con người ở nước
ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do
các chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, trước hết và chủ yếu là
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đã tích cực và từng bước chủ
động thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người; hệ thống thiết chế và
thể chế bảo đảm quyền con người từng bước được xây dựng theo hướng
hồn thiện; sự tham gia tích cực của người dân và các tổ chức xã hội vào
công tác bảo đảm quyền con người.
5


3. Một số thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ và
phát triển quyền con người tại Việt Nam

Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng một lần nữa khẳng định quan điểm của Đảng ta về quyền con người
được thể hiện một cách tập trung và tồn diện hơn, trong đó quyền con
người được nhìn nhận là giá trị chung của nhân loại, là kết quả cuộc đấu
tranh lâu dài của loài người; xem xét vấn đề này không thể tách rời phạm
trù quyền dân tộc, chủ quyền quốc gia cũng như truyền thống văn hóa, lịch
sử và trình độ phát triển của dân tộc.
Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước trên mọi lĩnh vực, đất nước đã
có nhiều thay đổi to lớn, gặt hái nhiều thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã
hội… trong đó vấn đề tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người đã có
nhiều bước tiến quan trọng.
Trước hết, Đảng và Nhà nước ta coi việc xây dựng và hồn thiện hệ
thống pháp luật có ý nghĩa then chốt đối với việc bảo đảm và phát triển
quyền con người. Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam năm 1946
mới chỉ gồm 70 điều, nhưng đã dành 18 điều cho việc quy định các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân, được trình bày tập trung tại một chương:
“Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” và đặt trang trọng ở vị trí ưu tiên, ngay
tại Chương II. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14). Đây chính là điều kiện để
bảo đảm tính hiện thực của quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự
cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa
Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với các công ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên; hạn chế tối đa bất
cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn chế các quyền và tự do
vốn có của mọi người bởi các cơ quan nhà nước.
6



Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,các quyền và nghĩa vụ học
tập; quyền và nghĩa vụ lao động; quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức
khỏe; quyền về nhà ở; quyền sở hữu, tự do kinh doanh,... đều được cụ thể
hóa trong các luật như: Luật Giáo dục; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân; Bộ luật Lao động; Luật Bình đẳng
giới; Luật Nhà ở... Trong các quyền nêu trên, tự do kinh doanh là một
quyền rất cơ bản được quy định trong Hiến pháp. Ðể cụ thể hóa vấn đề này,
Quốc hội cũng đã ban hành nhiều văn bản luật, như: Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Lao động, Luật Ðầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật
Hàng hải...
Về các quyền liên quan đến phụ nữ và trẻ em,đã được quy định trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, góp phần quan trọng vào những thành
tựu về bảo đảm và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em. Luật Bình
đẳng giới cùng với các quy định về quyền được chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe bà mẹ, trẻ em; chế độ thai sản, chế độ đối với lao động nữ,... đã tạo
điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trị người cơng dân, người lao động,
người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; đồng thời, góp phần phịng,
chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ, trẻ em. Các quyền cơ bản của trẻ em như: quyền được chăm
sóc sức khỏe; quyền được học tập, được phát triển; quyền được vui chơi,
giải trí;... đều được cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật.
Về các quyền nhân thân, Quốc hội đã quy định khá cụ thể trong
nhiều văn bản pháp luật.Trong nhóm các quyền này, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể là quyền tự do cá nhân đặc biệt quan trọng, được các bản
Hiến pháp nước ta quy định. Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm. Khơng ai bị bắt, nếu khơng có quyết định của Tòa án nhân dân,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ những trường
7



hợp phạm tội quả tang. Việc bắt hoặc giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của cơng dân. Hiến pháp cịn quy định: “Khơng ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tịa án đã có hiệu lực
pháp luật”. Ðể bảo đảm thực thi những quy định đó, Quốc hội đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật liên quan nhiều đến các quyền tự do dân chủ, tự do
cá nhân của công dân. Trong các văn bản pháp luật này, ngoài việc quy
định cụ thể về quyền bất khả xâm phạm của cơng dân, cịn thể hiện tính
chất nhân đạo của Ðảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, như về
việc đặc xá; bảo đảm quyền bào chữa, quyền khiếu nại, tố cáo của bị can,
bị cáo; về chế độ thăm nuôi, nhận quà và đặc biệt là về chế độ ăn, mặc, ở,
học tập, khám chữa bệnh cho phạm nhân.
Việt Nam đã tham gia Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948
và đã ký, phê chuẩn 7 trong số 9 công ước cơ bản về quyền con người.
Việt Nam cũng đã ký và phê chuẩn 2 Nghị định thư tùy chọn của Công ước
về quyền của trẻ em là Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em vào xung
đột vũ trang và Nghị định thư tùy chọn của Công ước về quyền của trẻ em,
về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em.
Ngồi các cơng ước do Liên Hợp quốc thơng qua, cịn có các công
ước do các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc ban hành. Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) kể từ khi thành lập đến nay đã thông qua hơn 190 cơng
ước, trong đó có 8 cơng ước được coi là cơ bản.
4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay
Một là, quyền con người là giá trị chung của nhân loại, quyền con
người bắt nguồn từ phẩm giá của con người. Nhưng để có nội hàm phong
phú như ngày này là thành quả chung của cả nhân loại trong việc chinh
phục tự nhiên và giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, khơi phục bản
8



thể vốn có của con người. Là thành quả đấu tranh lâu dài, gian khổ của
Nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức qua mọi thời kỳ phát triển của
lịch sử. Quyền con người vừa là sản phẩm của văn minh nhân loại, vừa là
sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người chống lại áp bức, làm
chủ thiên nhiên và tự hồn thiện mình. Đảng ta chủ trương: “Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong
nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân
chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá của con người…”.
Hai là, trong xã hội có giai cấp, khái niệm quyền con người mang tính
giai cấp sâu sắc. Từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, Đảng ta chỉ rõ: “Trong
xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con người mang
tính giai cấp sâu sắc”. Để các các nhu cầu, phẩm giá của con người trở
thành quyền thì những nhu cầu ấy cần phải được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ. Trong xã hội Việt Nam, quyền lợi của giai cấp công nhân và Nhân dân
lao động gắn liền với quyền lợi của đất nước, dân tộc; tính giai cấp của
quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ biến của quyền con
người. Nói một cách cụ thể, trong xã hội Việt Nam, quyền con người của
tất cả mọi người đều được tôn trọng và bản đảm, không phân biệt giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, tôn giáo…
Ba là, quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia. Đảng ta cho rằng : “Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và
thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia”. Thực tiễn lịch sử Việt Nam và nhiều
nước từng trải qua quá trình đấu tranh giành độc lập đã cho thấy, đất nước
bị nơ lệ thì người dân khơng thể có tự do, các quyền con người sẽ bị chà
đạp nghiêm trọng. Có thể nói, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều
kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người; khơng có độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, khơng thể nói đến các quyền con người. Độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia là đòi hỏi hàng đầu trong việc bảo đảm và thực thi

9


nhân quyền, nhưng điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là nhà nước phải sử
dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên
của quốc gia.
Bốn là, quyền con người gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia. Đảng ta
cho rằng: “Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy
khơng thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước
này cho nước khác”. Quyền con người là giá trị kết tinh từ những thành
tựu, kinh nghiệm đặc sắc trong việc bảo vệ quyền con người của mỗi quốc
gia, tính đặc thù của quyền con người cịn bắt nguồn từ sự phát triển
“khơng đều” về mọi mặt của thế giới, nên quyền con người cũng không thể
đáp ứng như nhau giữa các quốc gia, mà luôn phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi nước.
Năm là, quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã
hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ hoạt động nghiên cứu lý
luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã đi đến kết luận: “Đối với
chúng ta, vần đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta”; “Giải phóng con người gắn
liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Chỉ
dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới
được bản đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất”… Tại Đại hội lần thứ XII,
Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân
tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc”…
Sáu là, quyền con người, quyền công dân được ghi nhận và bảo vệ
bằng hiến pháp, pháp luật. Thực tiễn Việt Nam và thế giới cho thấy, đảm

bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các
10


quyền con người được thực hiện. Mọi nhu cầu hay yêu sách về quyền nếu
không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì khơng thể có bất cứ một
quyền con người nào. Pháp luật bảo vệ quyền con người thể hiện ở việc ghi
nhận các quyền con người, quyền cơng dân trong pháp luật, hồn thiện các
thiết chế, bộ máy nhằm bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người. Mặc dù
luôn nhận mạnh là “quyền bẩm sinh” nhưng ngày nay, ở mọi quốc gia,
quyền con người đều được ghi nhận và bảo vệ bằng các hình thức pháp luật
khác nhau.
Bảy là, quyền của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách
nhiệm công dân. C.Mác viết: “Không có quyền lợi nào mà khơng có nghĩa
vụ, khơng có nghĩa vụ mà khong có quyền lợi”. Trên thực tế, ở bất cứ quốc
gia nào, người dân cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định, theo quy
định của pháp luật. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người cũng ghi nhận:
“Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng mà chính trong đó
nhân cách của bản thân có thể phát triển tự do và đầy đủ”.
5. Một số giải pháp bảo đảm các quyền con người ở nước ta
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát
từ mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và
đặc trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà
chúng ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và
hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền
tự do cơ bản của cá nhân công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn
nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện
thực hóa quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các
nhóm giải pháp.
Thứ nhất là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở

pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền
công dân
11


Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã
hội và văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội
như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm
được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết tồn diện và sâu sắc hệ
thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy
định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt
ra trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính
trị cần được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp; tiến tới
mỗi quyền trong Hiến pháp cần được quy định trong một đạo luật cụ thể.
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu
và tổng kết thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải
được quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền
khác. Theo đó, cần hồn thiện pháp luật cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp
1992, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, công dân tự kiểm sốt, bảo
vệ tài sản của mình và Nhà nước thơng qua cơng cụ pháp lý và bộ máy
chun chính có trách nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân. Chỉ khi
quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào sản
xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người
dân nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ
em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải
được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc

hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Khơng
được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật;
quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế. Đồng thời, từ chủ nghĩa
12


nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”, sớm hoàn thiện nâng lên thành luật
định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách mạng và người có cơng với đất
nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội và những tác động
tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai là xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, cơng chức nhà
nước và hồn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia
thực sự công việc nhà nước
Đối với cán bộ, công chức nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân
(quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ trách nhiệm bảo
đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực cá nhân;
đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, cơng chức
nhà nước trong q trình thực thi cơng vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm
phạm quyền của cơng dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ
giữa cá nhân, cơng dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền,
nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do
đó xác định cụ thể các quyền của cơng dân theo hướng cơng dân có quyền
được làm tất cả những gì luật pháp khơng cấm, cịn cán bộ, cơng chức nhà
nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách
nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người;
và cơng dân cũng phải làm trịn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ
các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và cơng dân bảo đảm tính
ràng buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ,
công chức là phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”.

Trong điều kiện nước ta hiện nay, địi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính
cai trị sang nền hành chính phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và
tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công việc nhà
13


nước, cơng việc xã hội, trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám
sát hoạt động của Nhà nước, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước.
Kiểm tra và giám sát hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức nhà
nước – những người phục vụ nhân dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt
động trước nhân dân, bảo đảm quyền của công dân được cung cấp thơng tin
một cách chân thực và chính xác từ phía cơ quan cơng quyền. Những người
trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức nhà nước, tăng
cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố nơi
cán bộ, vợ con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.
Thứ ba là xóa đói, giảm nghèo, thực hiện cơng bằng xã hội, giảm sự
phân hóa giàu nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền
XHCN tự bản thân đã địi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản.
Điều đó cho thấy, bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng
trong lĩnh vực kinh tế, địi hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện
công bằng xã hội và dần dần giảm sự phân cách giàu nghèo là rất quan
trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người
giàu với số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng
giảm. Để thực hiện được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước
với vai trị điều tiết vĩ mơ, quản lý nền kinh tế, dùng cơng cụ, sức mạnh
thơng qua chính sách thuế, thực hiện việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo

đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến các đối tượng hưởng chính
sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến lược phát triển kinh
tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các thành phố,
đô thị…

14


Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và
ly khai có những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự
phân bổ khơng cơng bằng về lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và sự phân
cách giàu nghèo quá lớn trong xã hội. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên,
cần thực hiện tốt chiến lược xóa đói, giảm nghèo. Trong đó, việc đào tạo
nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo dục, đào tạo, trong đầu tư… đối với
đối tượng nghèo, gia đình khó khăn, gia đình thuộc diện chính sách, con
em nơng dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số
phải là bước đi đầu tiên trong hoạch định chính sách cả ở tầm vĩ mô và vi
mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên tắc trong hoạch định
chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
Thứ tư là tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp
hình sự
Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đó là trong
q trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, cải
tạo phạm nhân, bảo đảm rằng mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh, và suốt quá trình tiến hành tố tụng không được
làm oan người vô tội. Người phạm tội phải bị đưa ra xét xử, chịu hình phạt
tương ứng với hành vi phạm tội. Những mục đích của hình phạt lại không
phải chỉ là trừng trị mà giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm là
mục đích ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm quyền
con người trong nhà nước pháp quyền XHCN.

Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội
ngũ cán bộ tư pháp tận tâm, có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có khả
năng hồn thành nhiệm vụ; đồng thời hồn thiện kể cả về tổ chức với một
cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà
nước, đoàn thể, nhân dân là rất cần thiết.

15


- Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư
pháp. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường
lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác
cán bộ…
- Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
đối với cơ quan tư pháp.
- Tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức
chính trị xã hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh
vực đấu tranh phát giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử (cơ chế hội
thẩm).
- Cuối cùng, nhưng chiếm vị trí quan trọng là nâng cao vị trí, vai trò
của luật sư trong hoạt động tư pháp. Luật sư phải là người đại diện thực sự
cho thân chủ. Sự tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong q trình tiến hành tố tụng, nhanh chóng làm sáng tỏ bản
chất thật sự của vụ án, tránh và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan sai,
không vô tư, khách quan trong hoạt động tố tụng.

16



KẾT LUẬN
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời nói bất
hủ ấy trong bản Tun ngơn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa được mở đầu bằng trích đoạn trong bản Tun ngơn Độc lập năm
1776 của nước Mỹ, không chỉ là tư tưởng lớn về độc lập, tự do của dân tộc
mà còn là tư tưởng cơ bản về quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Có thể nói, vấn đề quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước đề
cao, nhận thức tích cực và áp dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Nhờ đó, từ một dân tộc bị tước đoạt cả những quyền tự do cơ bản
nhất, người dân Việt Nam đã được thụ hưởng ngày một đầy đủ và tồn diện
hơn các quyền của mình. Mặc dù hiện nay, trên thế giới còn nhiều quan
điểm khác nhau về vấn đề quyền con người và thậm chí một số thế lực thù
địch đã lợi dụng điều này để vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại
Việt Nam, song những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đạt được trong
những năm qua là bằng chứng không thể phủ nhận cho những nỗ lực của
Việt Nam trong lĩnh vực này.
Bảo đảm tốt các quyền con người sẽ tạo thêm động lực mới cho mọi
quá trình phát triển và sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, thành tựu của thời kỳ đổi mới không tách rời việc
tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

2. Bộ Ngoại giao, Báo cáo quốc gia kiểm định định kỳ việc thực hiện quyền
con người ở Việt Nam.
3. Chỉ thị số 12/CT-TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
“Về vấn đề quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta”.
4. Chỉ thị số 44/CT-TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư trung ương Đảng
“Về cơng tác nhân quyền trong tình hình mới”.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI,
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật.
6.  Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII,
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật.
7.  Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Hỏi đáp về Quyền con
người, Nxb. Hồng Đức.
8. Một số tài liệu tham khảo khác.

18



×