Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài thu hoạch, gioi trong ldql những khó khăn trong việc thực hiện bình đẳng giới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.13 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................2
I. Một số vấn đề cơ bản về giới và bình đẳng giới...........................................2
1. Giới và giới tính........................................................................................2
2. Khoảng cách giới......................................................................................2
3. Bình đẳng giới và các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới....................2
4. Vai trị giới: ..............................................................................................3
5. Vấn đề giới:...............................................................................................3
6. Định kiến giới:..........................................................................................3
7. Phân biệt đối xử về giới: ..........................................................................4
II. Những khó khăn cản trở thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam..................4
1. Tâm lý "trọng nam, khinh nữ"...................................................................4
2. Nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển..........................................................5
3. Hiệu quả thực hiện đường lối của Đảng, các cam kết của Chính phủ về
bình đẳng giới...............................................................................................6
III. Một số giải pháp thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.............................7
1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện
bình đẳng giới...............................................................................................7
2. Xóa bỏ dần các định kiến giới trong xã hội gây cản trở việc thực hiện
bình đẳng giới...............................................................................................8
3. Tiếp tục hồn thiện các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và xây
dựng các cơ chế, chế tài giám sát việc thực hiện bình đẳng giới.................9
4. Tăng cường vị trí, nguồn lực của các tổ chức tham mưu thực hiện bình
đẳng giới.......................................................................................................9
IV. Việc thực hiện bình đẳng giới trên địa bàn huyện Đông Anh.....................10
KẾT LUẬN.......................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................14



1

MỞ ĐẦU
Bình đẳng giới được xem là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển
của một xã hội, một đất nước, nó vừa là mục tiêu của sự phát triển vừa là yếu tố
nâng cao khả năng tham gia đóng góp của phụ nữ vào sự phát triển ổn định và
bền vững của quốc gia. Quyền phụ nữ, quyền bình đẳng giới là một nội dung
cơ bản của quyền con người, thể hiện giá trị nhân văn cao cả, đồng thời là
những giá trị chính trị, pháp quyền đáng trân trọng.
Trong suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước ta ln quan tâm đến
phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới, qua đó, đã đạt được một số thành tựu quan
trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ nữ như xây dựng và ban hành các văn bản
pháp quy thể hiện ngun tắc về bình đẳng giới, khơng phân biệt đối xử theo
quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Cơng ước của Liên hợp quốc về xóa
bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, lồng ghép bình đẳng giới
trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.
Bên cạnh những thành tựu về bình đẳng giới, Việt Nam còn gặp nhiều
thách thức như tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp
cịn ít, tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số cịn cao. Do đó vẫn còn phụ
nữ dân tộc thiểu số chưa biết chữ, vấn đề việc làm, dạy nghề cho phụ nữ dân
tộc thiểu số để tiếp cận với lao động chất lượng cao cần có sự quan tâm, chỉ
đạo sâu sát hơn của các cấp chính quyền, sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng
quốc tế và bản thân chị em phụ nữ cũng cần tự mình vươn lên, học hỏi, nâng
cao trình độ, kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Xuất phát từ những lý do trên, em xin chọn vấn đề: “Những khó khăn
trong việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Liên hệ thực tiễn
trên địa bàn huyện Đông Anh” để nghiên cứu viết bài thu hoạch môn Giới
trong lãnh đạo, quản lý.



2

NỘI DUNG
I. Một số vấn đề cơ bản về giới và bình đẳng giới
1. Giới và giới tính
- Giới: Chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả các mối
quan hệ xã hội.
- Giới tính: Chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ.
(Khoản 1, 2 - Điều 5 Luật Bình đẳng giới).
* Sự khác biệt căn bản giữa giới và giới tính:
- Giới: Là đặc trưng xã hội; do học tập, nghiên cứu mà có; nó mang tính
đa dạng, phong phú và có sự khác biệt giữa các vùng/miền, vị trí địa lý,…
- Giới tính: Là đặc trưng sinh học; mang tính bẩm sinh/có sẵn; đồng nhất
ở mọi nơi; bất biến và khơng thay đổi theo thời gian,…
2. Khoảng cách giới
- Là sự khác biệt hoặc bất bình đẳng giữa trẻ em gái và trẻ em trai, giữa
nam và nữ trong một trường hợp cụ thể, liên quan đến các điều kiện, sự tiếp cận
và thụ hưởng nguồn lực.
- Khoảng cách giới do chính con người và xã hội tạo gia. Và khoảng
cách giới có thể thay đổi.
3. Bình đẳng giới và các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
* Bình đẳng giới: Là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó
(Khoản 3 - Điều 5 Luật Bình đẳng giới).
* Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới
- Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
giới.


- Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới khơng bị coi là phân biệt đối xử về

- Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử
về giới.
- Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi
pháp luật.


3

- Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình,
cá nhân.
(Điều 6 - Luật Bình đẳng giới).
4. Vai trị giới: Chỉ những cơng việc và hành vi cụ thể mà xã hội trông
chờ ở mỗi người với tư cách là nam giới hoặc phụ nữ.
- Vai trị giới là những cơng việc, những hoạt động khác nhau mà nam
giới và phụ nữ thực tế đảm nhận.
- Vai trò giới khác nhau ở những bối cảnh xã hội, lịch sử khác nhau.
- Vai trò giới gồm 3 loại: Vai trò sản xuất; vai trò tái sản xuất và vai trò
cộng đồng.
5. Vấn đề giới:
- Chỉ sự bất bình đẳng trong một lĩnh vực cụ thể nào đó của đời sống xã
hội và gia đình.
- Vấn đề giới, bao gồm: Sự khác biệt hoặc khoảng cách tạo ra bất bình
đẳng giữa hai giới (nam và nữ).
6. Định kiến giới:
- Là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị
trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ (Khoản 4 - Điều 5 Luật Bình đẳng
giới).
- Định kiến giới là suy nghĩ của mọi người về những gì mà phụ nữ và

nam giới có khả năng làm và loại cơng việc mà họ có thể làm và nên làm; là tập
hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là
thuộc tính của nam giới hay nữ giới.
- Các định kiến giới thường theo xu hướng thiên lệch, ít tích cực, thậm
chí đơi khi cịn mang tính tiêu cực, dẫn đến sự sai lệch và hạn chế trong việc
nhìn nhận, đánh giá những điều mà cá nhân nam hoặc nữ có thể làm, cần làm
hoặc nên làm.  
- Định kiến giới, khn mẫu giới có liên quan đến nhau và xuất phát từ
quan niệm, kỳ vọng xã hội. Chúng đều là nguyên nhân gây nên sự bất bình
đẳng giới.


4

7. Phân biệt đối xử về giới: Là việc hạn chế, loại trừ, khơng cơng nhận
hoặc khơng coi trọng vai trị, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam
và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình (Khoản 5 – Điều 5
Luật Bình đẳng giới)
II. Những khó khăn cản trở thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam
1. Tâm lý "trọng nam, khinh nữ"
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu lại chịu ảnh hưởng tư
tưởng Nho giáo. Tâm lý trọng nam khinh nữ đã là một định kiến hạn chế việc
nhận thức đầy đủ và khách quan về năng lực và vai trị của người phụ nữ trong
gia đình, ngoài xã hội. Tư tưởng, tâm lý "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ",
"nữ nhân nan hóa", "tam tịng, tứ đức"… đã ăn sâu vào suy nghĩ, hành vi, thái
độ của người dân từ đời này qua đời khác, trở thành "chuẩn mực" bất thành văn
của xã hội, ai cũng phải Tuân thủ một cách "tự giác".
Mặc dù, cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ ở Việt Nam
đã thực hiện được hơn 70 năm, trong đó có hơn 30 năm thực hiện cơng cuộc
đổi mới, song tư tưởng, tâm lý đề cao nam giới hơn nữ giới vẫn hiện hữu khá

đậm đặc trong xã hội. Người dân Việt Nam, khơng phân biệt trình độ, địa vị xã
hội, giới tính… vẫn chưa gạt bỏ được tư tưởng này (chỉ có thể khác nhau ở mức
độ ít nhiều). Tâm lý phân biệt giới vẫn rất rõ nét trong xã hội: mong có con trai
để nối dõi dịng họ, nam giới phải là trụ cột trong gia đình, nam giới phải có sự
nghiệp thành đạt, phải được học hành đầy đủ…; cịn nữ giới phải gắn với gia
đình, khơng được nối dõi dịng họ, khơng có khả năng tham gia vào các cơng
việc chính trị… sự phân biệt này gây sức ép lớn về mặt tâm lý cho cả nam, nữ.
Nam giới luôn nhận thấy gánh nặng trụ cột của mình, nữ giới ln bị áp lực về
cơng việc gia đình. Tâm lý này trở thành thói quen đến mức khơng chỉ có nam
giới mà ngay bản thân nhiều nữ giới cảm thấy hợp lý, họ thấy không cần và
không muốn thay đổi.
Quan niệm trên đã dẫn tới hiện tượng tồn tại mặc nhiên trong xã hội:
nam giới, con trai được đề cao hơn phụ nữ, con gái từ trong gia đình ra ngồi
xã hội. Con trai/ nam giới thường được quan tâm đầy đủ và nhiều hơn trong


5

học hành, phát triển nghề nghiệp, ít bị soi xét trong hành vi, thái độ, được giao
những trọng trách, quyền lực quan trọng (trong gia đình cũng như ngồi xã
hội). Đây là rào cản rất lớn đối với thực hiện bình đẳng giới hiện nay.
2. Nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển
Việt Nam có xuất phát điểm về kinh tế từ nền nông nghiệp lạc hậu, lại
trải qua nhiều năm trường kỳ kháng chiến nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách áp
bức của thực dân, đế quốc, do vậy, cho đến nay, nền kinh tế của chúng ta vẫn
đang dừng ở mức có thu nhập trung bình.
Điều kiện kinh tế thấp kém là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
tới bất bình đẳng giới. Khi người lao động, các gia đình, cá nhân cịn phải lo ăn,
mặc, những u cầu thiết yếu hàng ngày thì khơng thể có được nhận thức cao
hơn về quyền con người nói chung, bình đẳng giới nói riêng. Điều này thể hiện

rõ ở mức độ bình đẳng giới rất thấp ở các vùng sâu, xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay. Chỉ số phát
triển giới, chỉ số bất bình đẳng giới có sự khác biệt rõ nét giữa các vùng ở trung
tâm, đơ thị, nơi có thu nhập cao với các vùng sâu, xa, nơi có thu nhập thấp.
Khi có điều kiện về kinh tế, các gia đình sẽ cho con cái học hành đầy đủ
(không phân biệt con trai, gái), quan tâm tới đời sống tinh thần cho các thành
viên của gia đình, có điều kiện để giao lưu, học hỏi, tham gia các hoạt động xã
hội… Nhờ đó, nhận thức về giá trị bình đẳng giới của các thành viên trong gia
đình sẽ được nâng cao. Cịn khi điều kiện kinh tế của các gia đình khó khăn sẽ
là rào cản trực tiếp để các thành viên tiếp cận với tiến bộ xã hội, trong đó có giá
trị bình đẳng giới.
Theo Báo cáo phát triển thế giới về Bình đẳng giới và phát triển (năm
2018), đối với các phụ nữ nghèo và phụ nữ sống ở những nơi rất nghèo, bất
bình đẳng giới vẫn tồn tại với mức độ đáng kể. Tình trạng bất bình đẳng này
cịn tồi tệ hơn khi nghèo đói kết hợp với những yếu tố cản trở khác như dân tộc,
đẳng cấp, vùng sâu, chủng tộc, tàn tật…


6

Ngoài ra, khi kinh tế thị trường phát triển, sự quản lý và điều tiết của
Nhà nước chưa hiệu quả đã dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo cũng là một
trong những nguyên nhân cản trở tiến bộ bình đẳng giới. Bên cạnh một bộ phận
dân cư giàu lên nhanh chóng, một bộ phận khơng nhỏ rơi vào tình trạng mất tư
liệu sản xuất, khơng có nghề nghiệp, mất việc làm, thu nhập bấp bênh, đời sống
vật chất khó khăn… Đây là nguyên nhân dẫn tới bỏ học sớm, bạo lực gia đình,
sinh nhiều con, khơng có thời gian để nâng cao nhận thức xã hội… của nhiều
gia đình, đã cản trở tới việc thực hiện bình đẳng giới.
Mặt khác, do kinh tế kém phát triển, do định kiến giới, sự lệ thuộc của
phụ nữ về kinh tế vào nam giới (người chồng) cũng là nguyên nhân làm cho

phụ nữ tự ti, cam chịu, khơng có điều kiện để vươn lên thực hiện quyền bình
đẳng với nam giới.
3. Hiệu quả thực hiện đường lối của Đảng, các cam kết của Chính phủ
về bình đẳng giới
Việc triển khai đường lối của Đảng, cam kết khung pháp lý với quốc tế,
xây dựng chính sách, luật pháp nhằm nội luật hóa về quyền bình đẳng giới ở
Việt Nam, có thể khẳng định, rất tiến bộ. Đảng ta đã có đường lối rất sớm về
giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền, Chính phủ ln đi tiên phong
trong việc ký cam kết với quốc tế các công ước về quyền con người, chống các
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, đặc biệt là việc xây dựng, hoàn thiện
luật pháp, chính sách bảo vệ quyền bình đẳng giới. Đến nay Việt Nam là một
trong số ít nước có Luật Bình đẳng giới và các cơ quan chuyên trách quản lý và
điều hành về bình đẳng giới.
Tuy nhiên, từ luật pháp, chính sách đến việc triển khai trên thực tế về
bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn cịn có khoảng cách khá lớn, hiệu quả thấp. Từ
khi Luật Bình đẳng giới ra đời (2006) đến nay, rất hiếm có người bị xử lý bởi
các hành vi vi phạm liên quan đến các điều khoản trong luật, mặc dù trên thực
tế diễn ra khá phổ biến. Khơng ít người, kể cả trong đội ngũ cán bộ, lãnh đạo


7

vẫn chưa biết hoặc hiểu biết lơ mơ về bộ luật này. Hơn nữa, theo ý kiến của
nhiều chuyên gia (kể cả chuyên gia quốc tế) Việt Nam còn nhiều "lỗ hổng"
trong luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Khá nhiều các quy định về quyền
bình đẳng giới giữa các bộ luật, các chính sách thiếu thống nhất, thậm chí "đá"
nhau. Chẳng hạn, quy định tuổi nghỉ hưu, tuổi đề bạt, tuổi đi học sau đại học…
giữa nam giới và nữ giới là vênh nhau giữa Luật Bình đẳng giới và Bộ luật Lao
động, Luật Công chức, Luật Bảo hiểm… Sự thiếu thống nhất này cản trở rất
lớn tới việc thực hiện bình đẳng giới, nhất là khi trong xã hội định kiến giới

chưa được khắc phục.
Mặt khác, trong q trình triển khai luật pháp, chính sách về bình đẳng
giới trên thực tế cịn gặp nhiều khó khăn, chưa tạo ra động lực về thi đua. Cho
đến nay, cơ chế thưởng, phạt khi thực hiện bình đẳng giới cho các đơn vị, địa
phương, ngành chưa có nhiều, hoặc nếu có cũng chưa thực hiện nghiêm túc, đã
làm mất động lực, thậm chí xem nhẹ cơng tác này ở các cơ sở. Việc tổ chức
thực hiện triển khai đưa công tác bình đẳng giới vào cuộc sống vẫn ủy thác và
coi đó là trách nhiệm chính của các tổ chức phụ nữ, của các cá nhân phụ nữ.
Do khung pháp lý và đường lối về bình đẳng giới ở Việt Nam có bước
tiến khá lớn, song trên thực tế mức độ thực hiện còn rất thấp, nên hiệu quả thực
hiện bình đẳng giới cịn nhiều bất cập. Phụ nữ Việt Nam đã có những bước tiến
bộ về quyền và nghĩa vụ so với nam giới, nhưng cho đến nay, chưa có nữ giới
nào của Việt Nam đứng ở vị trí cao nhất trong cơ quan Trung ương Đảng,
Chính phủ; hiện tượng "cấp phó", "lĩnh vực đồn thể" vẫn là phổ biến… Đây
khơng chỉ là thiệt thịi đối với phụ nữ mà ảnh hưởng đến phát triển gia đình và
xã hội.
III. Một số giải pháp thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam
1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thực
hiện bình đẳng giới
Thực hiện tốt công tác truyền thông nâng cao nhận thức cho cán bộ và
nhân dân về mối quan hệ biện chứng giữa bình đẳng giới và phát triển xã hội là


8

một trong những định hướng quan trọng hiện nay. Thông qua các hình thức
tun truyền (các phương tiện thơng tin đại chúng, tập huấn, hội thảo, lồng
ghép vào các hoạt động cộng đồng…) nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về vị
trí, ý nghĩa của bình đẳng giới, rằng xã hội sẽ dân chủ, công bằng, văn minh
hơn chỉ khi nào, mỗi cá nhân, không phân biệt nam nữ được phát triển đầy đủ,

không bị phân biệt đối xử.
Khi mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức nhận thức được ý nghĩa của bình đẳng
giới đối với phát triển, họ sẽ có quyết tâm, có cam kết và tự nguyện tìm ra các
điều kiện để thực hiện bình đẳng giới.
2. Xóa bỏ dần các định kiến giới trong xã hội gây cản trở việc thực
hiện bình đẳng giới
Tuyên truyền để thay đổi định kiến giới trong xã hội về sự phân cơng lao
động giới trong gia đình, ngồi xã hội được coi là một trong những biện pháp
hữu hiệu hiện nay.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua giáo dục, đào
tạo, tập huấn, nói chuyện, tọa đàm… ở các cơ sở, địa phương, ngành… trang bị
kiến thức giới, thay đổi nhận thức cố hữu của mỗi người về định kiến giới.
Không nên và không thể quy công việc gia đình là của phụ nữ, cơng việc xã hội
là của nam giới, bởi xét cả về góc độ sinh học và góc độ xã hội đều khơng phù
hợp và gây áp lực cho cả nam giới, nữ giới. Sự cân bằng trách nhiệm, chia sẻ
cơng việc gia đình và đánh giá giá trị của mỗi công việc phải khách quan và
bảo đảm tính cơng bằng trên cơ sở con người là chủ yếu, khơng phân biệt giới
tính. Một số quốc gia trên thế giới từ lâu đã có các chính sách khuyến khích
nam giới chia sẻ cơng việc gia đình cùng với người phụ nữ (kể cả thời gian
nghỉ sinh con) đã đem lại tính cơng bằng, hiệu quả rất cao trong các hoạt động
kinh tế - xã hội, nhờ đó xã hội nhân văn, văn minh hơn. Danh hiệu "giỏi việc
nước, đảm việc nhà" của Ban Nữ cơng Tổng liên đồn Lao động, cần nghiên


9

cứu lại, bổ sung cho phù hợp. Danh hiệu cao quý này phải dành cho cả nam
giới để họ chung tay gánh vác, chia sẻ với phụ nữ việc nhà, việc nước.
3. Tiếp tục hồn thiện các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và
xây dựng các cơ chế, chế tài giám sát việc thực hiện bình đẳng giới

Cần thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các quy định, chính sách của
Đảng, Nhà nước về lao động nữ nói chung, bình đẳng giới nói riêng. Nghị
quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về Cơng tác phụ nữ trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa (2007), Luật Bình đẳng giới (2006), Chiến lược quốc
gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020… đã có một số quy định, chỉ tiêu
tạo ra nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi dành cho phụ nữ trong các lĩnh vực đời
sống xã hội. Chẳng hạn, trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý. Cho đến nay đã có
những quy định như: trong các cơ quan, dơnv có từ 50% lao động nữ thì phải
có ít nhất một nữ trong vị trí lãnh đạo cấp chủ chốt; cần đảm bảo tỷ lệ nữ tham
gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà
nước từ 30% trở lên; phấn đấu năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên
95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ…Cần phải có cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể,
có chế tài khen, phạt rõ ràng đối với các đơn vị, địa phương khi triển khai công
tác cán bộ nữ.
Tiếp tục xem xét và điều chỉnh cho phù hợp trên cơ sở công bằng và hiệu
quả, nhất là đối với lao động nữ. Do phải thực hiện chức năng cao quý của xã
hội, người phụ nữ đã dành khá nhiều thời gian và tâm sức để tạo nên thế hệ
cơng dân tương lai có chất lượng cao.
4. Tăng cường vị trí, nguồn lực của các tổ chức tham mưu thực hiện
bình đẳng giới
Thực hiện bình đẳng giới là nhiệm vụ chung của tồn xã hội, trong đó
nịng cốt là hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên, Đảng và


10

Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho cơ quan trực tiếp làm công tác tham mưu về
công tác này.
Hiện tại, chúng ta có ba tổ chức, đơn vị chịu trách nhiệm thực hiện cơng

tác tham mưu về bình đẳng giới, đó là Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và Hội liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam. Các tổ chức này có hệ thống từ trung ương tới cơ sở.
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo Luật Bình
đẳng giới và Nghị định số 70/2008/NĐ/CP của Chính phủ ngày 04-6-2008 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, ba
cơ quan nêu trên có nhiệm vụ phối kết hợp thực hiện: 1) Xây dựng, trình ban
hành, ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới
và các văn bản có liên quan. 2) Lồng ghép giới trong xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật. 3) Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về
bình đẳng giới. 4) Công tác xây dựng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt
động về bình đẳng giới. 5) Cơng tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực bình
đẳng giới. 6) Công tác kiểm tra, thông tin, báo cáo về tình hình thực hiện bình
đẳng giới trong phạm vi cả nước. 7) Hợp tác quốc tế về bình đẳng giới.
Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao năng lực cho
đội ngũ cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới từ Trung ương đến địa phương.
Triển khai thực hiện Đề án đào tạo cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới là vì sự
tiến bộ của phụ nữ và xây dựng Đề án kiện toàn, thành lập Ban Vì sự tiến bộ
của phụ nữ ở các bộ, ngành và các tổ chức chính trị - xã hội.
IV. Việc thực hiện bình đẳng giới trên địa bàn huyện Đơng Anh
Xác định cơng tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ là một nhiệm
vụ quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm
qua, cấp ủy, chính quyền và các địa phương của huyện Đông Anh đã triển khai
nhiều hoạt động phong phú, thiết thực, tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp


11

phụ nữ vươn lên trong học tập, lao động, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc và tích cực tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, Huyện đã

ban hành và triển khai thực hiện hiệu quả các kế hoạch, đề án, nghị quyết,
chương trình hành động về cơng tác cán bộ nữ và hoạt động bình đẳng giới, vì
sự tiến bộ của phụ nữ. Cơng tác tun truyền, phổ biến các chính sách, pháp
luật về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ được triển khai rộng khắp với
nhiều nội dung và hình thức đa dạng. Trong 5 năm (2014 - 2019), Huyện đã tổ
chức trên 20 lớp tập huấn, trên 200 buổi nói chuyện chuyên đề, tuyên truyền
phổ biến pháp luật, các văn bản, chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình và
bình đẳng giới… cho cán bộ, hội viên, phụ nữ. Từ đó tạo chuyển biến trong
nhận thức và hành động về giới và bình đẳng giới cho mọi người dân ở cộng
đồng, và các nhà quản lý, hoạch định chính sách nói riêng; đồng thời khẳng
định vai trò của cán bộ nữ trong các hoạt động xã hội.
Hiện nay, đảng viên nữ của Huyện là 5.817 người trong tổng số 14.396
đảng viên (đạt tỷ lệ 40,4%). Tồn Huyện có 6/43 cán bộ nữ tham gia Ban Chấp
hành Đảng bộ Huyện (đạt tỷ lệ 13,9%); 2/13 cán bộ nữ tham gia Ban Thường
vụ cấp huyện (đạt tỷ lệ 15,4%); 225/546 nữ cán bộ được bổ nhiệm vào các
chức danh lãnh đạo quản lý phòng, ban, ngành thuộc Huyện (đạt tỷ lệ 41,2%);
24/79 cán bộ nữ là đại biểu HĐND Huyện (đạt tỷ lệ 30,3).
Tuy nhiên, khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực
của cuộc sống. Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị còn
hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh đạo
cịn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia tăng của
lực lượng lao động nữ. 
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập
cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới.


12

Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản của phụ nữ vùng nơng thơn, vùng dân tộc thiểu số cịn hạn chế. Định kiến

giới, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn khá phổ biến. Tình trạng bạo lực
đối với phụ nữ tồn tại nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa
Một số đơn vị, địa phương chưa quan tâm thúc đẩy cơng tác chỉ đạo,
triển khai về bình đẳng giới, chưa thực sự gắn công tác này với hoạt động quản
lý của các cấp. Cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới ở các địa phương (ở cấp
huyện) chủ yếu làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, do vậy, công tác tham mưu
và triển khai các hoạt động còn hạn chế. 
* Những giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới ở huyện Đông Anh:
Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền và học tập sâu rộng Nghị quyết 11 NQ/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị 37 của Ban Bí thư trong Đảng và các đoàn
thể nhân dân.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu đối với công tác cán bộ nữ gắn với, phát triển
đội ngũ cán bộ nữ ở các lĩnh vực, ngành nghề với cơ cấu, số lượng hợp lý.
Thứ ba, thực hiện đa dạng hóa hình thức đào tạo phù hợp với đặc điểm
giới; đào tạo, bồi dưỡng có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên vùng đặc biệt khó
khăn. Đẩy mạnh việc đào tạo theo chức danh, yêu cầu, tiêu chuẩn.
Thứ tư, tiếp tục củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực hoạt động
của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp; chủ động phối hợp với các cấp ủy, chính
quyền, các ngành, đoàn thể trong việc chỉ đạo, triển khai các nhiệm vụ trọng
tâm về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ đến năm 2020
Thứ năm, chỉ đạo các ngành có liên quan tăng cường các dịch vụ xã hội
để giảm nhẹ gánh nặng cơng việc gia đình cho phụ nữ, cán bộ nữ.


13

KẾT LUẬN
Vấn đề bình đẳng giới có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển xã
hội. Vì vậy, địi hỏi chúng ta phải có nghiên cứu và nhận thức đầy đủ và đúng
vị trí, vai trị của bình đẳng giới đối với công cuộc phát triển, nhất là đối với

thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh; bình đẳng
giới có mối quan hệ mật thiết với phát triển bền vững. Do đó, thực hiện bình
đẳng giới là nội dung chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển con
người, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là trách nhiệm của mỗi cá nhân,
tổ chức và toàn xã hội.
Việc thay đổi định kiến về giới phải được biểu hiện bằng những hành
động mang tính thực tế, đó là phải có kế hoạch phát triển cán bộ nữ mang tính
chiến lược lâu dài và có tính đột phá. Chính vì vậy, cấp ủy và người đứng đầu
cơ quan, đơn vị cần phải có kế hoạch thiết thực trong việc đào tạo, bồi dưỡng
và cất nhắc cán bộ nữ. Tức là các cấp lãnh đạo cần phải thường xuyên quan
tâm, xây dựng chỉ tiêu cụ thể, chi tiết trong từng năm, từng thời kỳ cho công tác
cán bộ nữ và nghiêm túc thực hiện. Trong đó, phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ nữ là khâu nền tảng. Nếu không chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ nữ thì phụ nữ sẽ khó hội tụ đủ điều kiện và tiêu chuẩn để được đề bạt, bổ
nhiệm, cất nhắc.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù có nhiều cố gắng, song khơng thể
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp quý báu của quý thầy cô để vấn đề nghiên cứu của em được hoàn thiện
hơn./.


14

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2007), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày
27/4/2007 “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước", Hà Nội.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1994), Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994
“Về một số vấn đề cơng tác cán bộ nữ trong tình hình mới", Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
4. Luật Bình đẳng giới (2006).



×