Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong giảng dạy lịch sử ở trường trung học phổ thông trần phú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN BÁI
TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ

BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
Lĩnh vực: Lịch sử
TÊN SÁNG KIẾN:
SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA, LỊCH SỬ
ĐỊA PHƯƠNG TRONG GIẢNG DẠY LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ.

Tác giả: Lương Thế Nghĩa
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Trần Phú
Huyện Văn Yên - Tỉnh Yên Bái.

Yên Bái, ngày 06 tháng 02 năm 2022


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Sử dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương trong dạy
học lịch sử tại Trường THPT Trần Phú.”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục Lịch sử.
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng và dạy thực nghiệm tại trường trung học phổ thông
Trần Phú, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái trong năm học 2021 - 2022 với đối tượng
là học sinh khối 10 và giáo viên tham gia giảng dạy trực tiếp.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 06 tháng 09 năm 2021 đến ngày
06 tháng 02 năm 2022 và tiếp tục bổ sung hoàn thiện trong thời gian tiếp theo.
5. Tác giả:
Họ và tên: Luơng Thế Nghĩa.


Năm sinh: 1980.
Trình độ chuyên môn: Đại học.
Chức vụ công tác: Giáo viên.
Nơi làm việc: Trường THPT Trần Phú.
Địa chỉ liên hệ: Trường THPT Trần Phú - Văn Yên - Yên Bái.
Điện thoại: 0973225078.
II. MÔ TẢ SÁNG KIẾN:
1. Tình trạng các giải pháp đã biết
1.1. Thực trạng sử dụng di sản văn hoá địa phương trong dạy học lịch
sử.
Nâng cao chất lượng giáo dục luôn là mục tiêu của ngành giáo dục nói
chung và của các trường trung học phổ thơng nói riêng. Chất lượng giáo dục là
những yếu tố tạo nên giá trị của sản phẩm giáo dục, đó là năng lực và nhân cách
người học. Chất lượng giáo dục gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực thúc đấy
sự phát triển của đất nước, của địa phương.
Bộ mơn Lịch sử có chức năng và nhiệm vụ rất quan trọng trong nhà trường
phổ thông, bởi lẽ đây là bộ môn “khôi phục bức tranh quá khứ” một cách chính
xác, khoa học và hiểu được quy luật phát triển của xã hội, nhằm góp phần tích cực
vào việc bồi dưỡng lập trường quan điểm của học sinh. Đặc biệt trong quá trình
đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay, các bộ môn khoa học xã hội trong đó lịch sử
địa phương ngày càng có vai trị quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, để hịa nhập mà khơng hịa tan.


2
Để giúp học sinh có những hiểu biết về những giá trị của các di sản, giáo
dục các em ý thức gìn giữ, bảo tồn di sản, Bộ GD&ĐT đã thí điểm sử dụng di sản
trong dạy học ở trường phổ thơng. Sau một năm triển khai thí điểm đưa di sản vào
dạy học trong trường phổ thông, Vụ trưởng Vụ giáo dục Trung học đã nhấn mạnh:
“Việc sử dụng di sản trong dạy học tác động lớn đến tư tưởng tình cảm của học

sinh. Khi được tìm hiểu, tiếp cận và trải nghiệm thực tế, các em sẽ được nâng cao
hiểu biết với những di tích đồng thời có thái độ và hành vi đúng đắn có ý thức gìn
giữ, bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của quê hương.” Việc sử dụng di
sản trong dạy học góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức, kích thích
hứng thú, giúp học sinh phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức, phát
triển trí tuệ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Việc sử dụng di sản trong dạy học
ở các trường THPT đã tiến hành trong nhiều năm trước đây dưới nhiều hình thức
như tham quan các bảo tàng lịch sử, cách mạng, các đình làng, các di tích cơ sở
cách mạng, các nghĩa trang liệt sĩ, các di tích, đưa các làn điệu dân ca vào trong
dạy học…
Việc sử dụng di sản văn hoá trong dạy học lịch sử và các hoạt động giáo dục
gắn liền mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh về đức, trí, thể, mỹ. Đồng thời gắn
liền với việc đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hóa các hình thức dạy học,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sưu tầm, tìm
hiểu, sử dụng di sản văn hóa trong giờ học và các hoạt động giáo dục. Trong đó
học sinh phải là chủ thể, chủ động, tích cực tham gia vào quá trình sử dụng di sản
trong giờ học và các hoạt động giáo dục. Đặc biệt việc đổi mới kiểm tra đánh giá
trong dạy học, đưa nội dung di sản văn hóa vào phải chú ý cho phù hợp với thời
lượng làm bài và khả năng nhận thức của học sinh góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục tồn diện học sinh.
Di sản văn hóa khơng chỉ được coi là tài sản có giá trị giáo dục truyền
thống, giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ, mà còn là một nguồn lực to lớn góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Di sản văn hóa là một lĩnh vực được quan
tâm đặc biệt, huy động được nhiều sự đóng góp của nhân dân trong việc bảo tồn,
phát huy giá trị. Nhà nước ta từ Trung ương đến địa phương đã ban hành các văn
bản về quản lý di sản. Nhiều đề tài khoa học, nhiều dự án quy hoạch được thực
hiện, nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ, nghệ thuật truyền thống, diễn xướng dân
gian được khôi phục, bảo tồn, khai thác và phát huy, một số di sản văn hóa phi
vật thể nằm ở tầng sâu của văn hóa dân gian đã được nghiên cứu, khơi phục và
trở thành di sản văn hóa quốc gia và thế giới như: Hát Ca trù Việt Nam và Tín

ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Tín ngưỡng thờ Mẫu, Lễ hội Lồng tồng…
Hiện nay, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng cịn
nhiều bất cập. Nguy cơ thất truyền, mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa


3
phi vật thể và sự xuống cấp của các di tích lịch sử vẫn cịn ở mức báo động; việc
phát huy giá trị các lễ hội truyền thống còn nhiều hạn chế, hiện tượng thương mại
hóa trong lễ hội chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả; sự hạn hẹp về kinh
phí để bổ sung hiện vật cho bảo tàng; nạn trộm cắp, buôn bán cổ vật vẫn diễn biến
phức tạp; tình trạng lấn chiếm di tích, danh lam, thắng cảnh; hiện tượng xây dựng
trái phép, tu bổ di tích sai ngun tắc chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Trong khi cuộc sống xã hội ngày càng sôi động, thì khơng gian dành cho
các loại hình văn hóa truyền thống ngày càng thu hẹp hoặc bị thay đổi. Giới trẻ
hiện nay số đông không hiểu hết giá trị của các di sản văn hóa, mà có xu hướng
ưa chuộng những hình thức nghệ thuật mới, hiện đại, ít quan tâm tìm hiểu cái hay,
cái đẹp của nghệ thuật dân tộc. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy được các giá trị
của di sản văn hóa đã có lúc trở thành nguy cơ tiềm ẩn trong việc giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc.
Thực tiễn đã chứng minh khơng ai có thể giữ gìn di sản văn hóa tốt hơn,
hiệu quả hơn chính chủ nhân của các loại hình di sản văn hóa ấy. Di sản văn hóa
khơng thể đứng ngoài sinh hoạt của cộng đồng dân cư hoặc đứng ngồi khơng
gian văn hóa của nó. Ðể có thể duy trì sức sống cho di sản văn hóa vốn đã được
nhân loại tơn vinh, thì trước hết, các di sản văn hóa ấy phải được bảo tồn như nó
vốn có, phải được “sống”, được tơn vinh, được người dân thừa nhận ngay trong
chính đời sống của cộng đồng. Cho nên, cần ứng xử với di sản văn hóa bằng lòng
tự hào dân tộc, bằng sự hiểu biết và niềm đam mê cái đẹp, bằng cả sự cảm nhận
tinh túy các di sản văn hóa.
Muốn có được điều ấy, chúng ta cần tăng cường giáo dục thẩm mỹ, giáo
dục sự hiểu biết các tri thức văn hóa nói chung và di sản văn hóa dân tộc nói riêng,

từ đó khơi dậy và nhân lên niềm đam mê, ý thức bảo vệ di sản trong thế hệ trẻ.
Phương thức giáo dục của chúng ta từ xưa đến nay là gắn lý thuyết với thực hành,
gắn nhà trường với địa phương. Nội dung các mơn học đều có đề cập đến giáo
dục giá trị truyền thống (hay giáo dục di sản). Trong chương trình xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực, có 2 nội dung liên quan đến bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa: Tổ chức đời sống văn hóa tinh thần trong nhà trường gắn
với việc khai thác văn hóa dân gian; chăm sóc di sản gắn với tìm hiểu các di tích
lịch sử, văn hóa. Có nghĩa là bao gồm cả việc giáo dục di sản và giáo dục thông
qua di sản, làm cho học sinh hiểu biết về di sản, từ đó có tình cảm, đạo đức, niềm
tự hào về các giá trị truyền thống của dân tộc, đất nước.
1.2. Một số tồn tại khi sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử
Những hoạt động giáo dục di sản cho thế hệ trẻ cũng đã được ngành Giáo
dục và toàn xã hội quan tâm, tuy nhiên phải thừa nhận rằng, hoạt động giáo dục
di sản chưa thu hút được sự quan tâm đầy đủ của các cấp quản lý, của các ngành,


4
các nhà trường và của toàn xã hội. Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục di sản
cũng như các điều kiện để thực hiện (kinh phí, thời gian, nhân lực…) chưa được
đầu tư đúng mức. Các nội dung giáo dục di sản cũng chưa được vận dụng linh
hoạt vào đặc điểm của từng địa phương, chưa khai thác sâu và rộng, nói cách khác
là tiềm năng của di sản chưa được phát huy. Các hoạt động vẫn chỉ mang tính
phong trào, vận động. Việc phối hợp các lực lượng giáo dục di sản cũng chưa chặt
chẽ, cơ chế và sự vận hành phối hợp chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, để việc giáo
dục di sản cho thế hệ trẻ phát huy hết hiệu quả của nó, cần phải có chỉ đạo, hướng
dẫn và tạo điều kiện đầy đủ của các cơ quan chức năng.
1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Bộ mơn Lịch sử có tiềm năng thế mạnh để giáo dục, bảo tồn di sản văn hóa
vì mỗi sự kiện lịch sử đều gắn liền với thời gian và không gian, địa điểm, hiện
vật, di vật lịch sử… Nhưng tơi thấy việc tích hợp sử dụng di sản văn hóa trong

dạy học lịch sử ở địa phương còn nhiều hạn chế. Khảo sát tại các trường trung
học, số lượng học sinh hiểu di sản văn hóa là gì, Việt Nam có bao nhiêu di sản,
những di sản nào được cơng nhận là di sản văn hóa của thế giới, tỉnh Yên Bái có
bao nhiêu di sản, huyện Văn Yên có bao nhiêu di sản các em hiểu biết rất ít, thậm
chí khơng biết.
Mặt khác, đa số giáo viên thừa nhận còn hạn chế trong việc sưu tầm và biên
soạn tài liệu để tích hợp, sử dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương trong dạy học
lịch sử. Điều này làm cho giáo viên ngại giảng dạy, nếu có thực hiện thì chỉ mang
tính hình thức. Thực tế, một số trường chỉ lồng ghép nội dung giáo dục di sản
trong giờ lịch sử địa phương nhưng số lượng chỉ có 3 tiết trên 1 năm trên 3 khối
lớp. Việc sử dụng di sản trong dạy học lịch sử vẫn cịn mang tính hình thức, giới
thiệu sơ sài, việc tổ chức tham quan thực địa di sản văn hóa chưa được tiến hành
một cách phổ biến. Vì thế các bài học chưa thu hút được học sinh, học sinh hiểu
rất ít về lịch sử địa phương về q trình phát triển, văn hóa, tín ngưỡng của người
dân Yên Bái nói chung và Văn Yên nói riêng. Học sinh chưa thực sự có ý thức
tơn trọng, bảo vệ di sản văn hóa.
1.4. Tính cần thiết tạo ra sáng kiến
Chương trình giáo dục phổ thơng mới được Quốc hội nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua năm 2018 và lộ trình thực hiện là từ năm học
2020 - 2021 bắt đầu triển khai áp dụng chương trình giáo dục phổ thơng và SGK
mới đối với mỗi cấp tiểu học, từ năm học 2021-2022 với cấp trung học cơ sở và
năm học 2022 -2023 với cấp trung học phổ thơng. Chương trình giáo dục THPT
mới xác định mục tiêu đầu ra là năng lực và phẩm chất của người học, đặc biệt đã
dành 35 tiết trong chương trình cho các tiết học lịch sử địa phương, hoạt động trải
nghiệm và hướng nghiệp. Điều đó cho thấy việc dạy học lịch sử địa phương có vị


5
trí quan trọng trong chương trình. Chương trình mới cũng đã gợi ý thiết kế các
tiết học lịch sử địa phương thông qua các chủ đề về cộng đồng các dân tộc, làng

xã Việt Nam dưới các thời kì. Đồng thời chú trọng đến việc xây dựng SGK, tài liệu
tham khảo về lịch sử địa phương ở các trường phổ thông trên địa bàn các tỉnh của cả
nước.
Huyện Văn Yên - tỉnh Yên Bái là một vùng đất giàu truyền thống cách
mạng. Những trang sử vàng càng đậm nét hơn, rực rỡ hơn khi Đảng bộ huyện Văn
Yên ra đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc huyện Văn Yên đã
cùng với nhân dân cả nước tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ, vừa làm tốt nhiệm vụ hậu cứ chiến tranh, vừa cùng với
nhân dân cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975; tiếp tục xây dựng quê
hương đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tính đến nay huyện Văn Yên có với 25 xã, thị trấn nằm bên hai bờ sông
Hồng, từ những làng quê nghèo khó, trải qua thời gian và những thăng trầm của
lịch sử, nhân dân trong huyện đã phát huy những truyền thống tốt đẹp của cha
ông, phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương ngày
càng ấm no hạnh phúc.
Đặc biệt trên quê hương Văn n - n Bái có nhiều di tích lịch sử, văn
hóa cần được bảo tồn và phát huy. Bộ mơn lịch sử có thế mạnh về thời lượng, nội
dung tích hợp giáo dục, sử dụng di sản văn hóa trong các bài học. Bản thân tôi là
giáo viên dạy bộ mơn lịch sử, tơi thấy mình cần phải giúp học sinh tìm hiểu sâu
sắc về lịch sử địa phương, biết được giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa của
huyện Văn Yên nói riêng và tỉnh Yên Bái nói chung. Từ đó giúp các em hiểu được
triển vọng phát triển của quê hương ngày mai, sẽ nâng cao hơn nữa niềm tự hào
về truyền thống lịch sử lâu đời, anh hùng của địa phương mình, qua đó giáo dục
ý thức tự giác bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa trên q hương n Bái. Chính
vì vậy trong năm học 2021 - 2022 tơi đã hồn thành sáng kiến kinh nghiệm “Sử
dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử tại Trường THPT
Trần Phú.”
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
2.1. Cơ sở lí luận của giải pháp:
Di sản văn hóa là một bộ phận rất quan trọng của nền văn hóa dân tộc, là

chứng tích cho sự phát triển của cộng đồng. Nhân dân lao động vừa là chủ nhân,
vừa là lực lượng nòng cốt để xây dựng nên kho tàng di sản văn hóa ấy. Bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa là trách nhiệm của toàn dân, của toàn xã hội.
Giáo dục ý thức trách nhiệm đối với di sản văn hóa cho thế hệ trẻ là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của chương trình “Trường học thân thiện, học sinh tích
cực” do ngành văn hóa, thể thao và du lịch, ngành GD&ĐT phối hợp tổ chức. Thế


6
hệ trẻ là chủ nhân của đất nước, là người sở hữu các di sản văn hóa. Giáo dục di
sản văn hóa và giáo dục thơng qua các di sản văn hóa cho thế hệ trẻ sẽ góp phần
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để giúp học
sinh có những hiểu biết về những giá trị của các di sản, giáo dục các em ý thức
gìn giữ, bảo vệ di sản, Bộ GD&ĐT đã thí điểm sử dụng di sản trong dạy học ở
trường phổ thông.
Tại tỉnh Yên Bái, Sở GD&ĐT đã thực hiện tốt nội dung giáo dục địa
phương vào các tiết học theo quy định đồng thời cũng đẩy mạnh phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.” Vì vậy, các cơ sở giáo dục thực
hiện đầy đủ các nội dung về sử dụng di sản văn hóa trong nhà trường, trong đó
chú ý đưa các trị chơi dân gian, hát dân ca, hát Then(dân tộc Tày) và các loại hình
sinh hoạt văn hóa dân gian khác vào trường học một cách bền vững. Các cơ sở
giáo dục chủ động chăm sóc, phát huy giá trị văn hóa của các di tích lịch sử, cách
mạng trên địa bàn (Nhà tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ, nghĩa trang liệt sỹ, các
di tích đền, chùa, chiến khu, tượng đài…), tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lịch
sử địa phương, về thân thế sự nghiệp của các nhân vật lịch sử gắn với các di tích
thờ tự, cơng trình lưu niệm danh nhân, anh hùng liệt sỹ và các di tích văn hố tiêu
biểu ở địa phương.
Văn n là huyện miền núi nằm ở phía bắc của tỉnh Yên Bái, đây là quê
hương giàu truyền thống trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. hiện
nay trên địa bàn huyện còn lưu hiện diện nhiều di tích lịch sử như đền Mẫu Đơng

Cng, đền Nhược Sơn, đền Trạng.... Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân
Văn Yên vốn cần cù trong lao động, thông minh dũng cảm trong chiến đấu, năng
động sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ q hương. Chính vì vậy, nơi đây cũng
là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, có nhiều di tích lịch sử, văn hóa
cần được bảo tồn và phát huy.
Bộ mơn lịch sử có thế mạnh về thời lượng, nội dung tích hợp giáo dục, sử
dụng di sản văn hóa trong các bài học. Bản thân tôi là giáo viên giảng dạy bộ môn
Lịch sử, tôi thấy mình cần phải giúp các em học sinh tìm hiểu sâu sắc về lịch sử
địa phương mình, qua đó giúp các em biết được giá trị của các di tích lịch sử, văn
hóa của huyện Văn n nói riêng và của tỉnh Yên Bái nói chung để các em có
thêm niềm tự hào về truyền thống lịch sử lâu đời, anh hùng của địa phương mình,
đồng thời giáo dục ý thức tự giác bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa trên quê hương
Yên Bái. Trên cơ sở đó, tơi xin mạnh dạn trình bày đề tài sáng kiến kinh nghiệm
(SKKN): “Sử dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử
tại Trường THPT Trần Phú” nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh,
qua đó khơi dậy hứng thú học tập của các em để từng bước nâng cao chất lượng
dạy và học bộ môn lịch sử.


7
2.2. Mục đích của giải pháp:
Trong chương trình giáo dục THPT, bộ mơn Lịch sử nói riêng và các mơn
học khác nói chung đóng vai trị quan trọng. Đó là những mơn khoa học tạo nên
sự phát triển tồn diện của tri thức khoa học. Môn Lịch sử ở trường phổ thơng là
mơn học được sự quan tâm của tồn xã hội vì mơn Lịch sử là mơn học có nhiều
cơ hội nhất và khả năng lớn nhất trong nhiệm vụ “giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hố dân tộc”, giáo dục và rèn luyện đạo đức con người Việt Nam. Do đó, vấn đề
bồi dưỡng kiến thức mơn Lịch sử là nhiệm vụ quan trọng của các trường THPT
hiện nay, nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức lịch sử trong đó có kiến thức về
lịch sử địa phương, q hương mình.

Đề tài góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh của đổi mới căn bản giáo dục
trong dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ thông, khẳng định vị trí vai trị của
dạy học lịch sử địa phương trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh n Bái nói
riêng. Qua đó nhằm giáo dục tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào truyền
thống dân tộc, góp phần bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Qua thực tiễn giảng dạy tơi nhận thấy việc sử dụng di sản văn hóa, lịch sử
địa phương trong dạy học lịch sử sẽ tạo hứng thú học tập cho học sinh. Phát triển
năng lực cho học sinh: năng lực giao tiếp, phát hiện và giải quyết vấn đề, năng
lực chuyên biệt, năng lực tái hiện lại sự kiện lịch sử, năng lực so sánh, phân tích,
sự kiện lịch sử, năng lực nhận xét rút ra ý nghĩa lịch sử. Vì thế, việc sử dụng di
sản văn hóa, lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử là hoạt động rất quan trọng
trong quá trình dạy - học lịch sử.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay là hướng phát triển toàn diện về
phẩm chất và năng lực cho người học. Trên cơ sở khẳng định vai trò, tác dụng, ý
nghĩa to lớn của việc khai thác và sử dụng tài liệu, di sản văn hóa địa phương
trong dạy học lịch sử, sáng kiến đi sâu vào xây dựng những yêu cầu cần thực hiện
và hệ thống các biện pháp cơ bản để tổ chức, hướng dẫn giáo viên và học sinh
khai thác và sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy và học lịch sử nhằm
phát triển năng lực tư duy và nhận thức lịch sử; từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học bộ mơn ở trường THPT.
Trong điều kiện có hạn sáng kiến không đi vào việc xây dựng các khuôn
mẫu áp đặt người vận dụng phải sao chép theo mà chỉ xây dựng những hướng đi,
giải pháp về phương pháp như một sự gợi mở, làm tư liệu tham khảo cho đồng
nghiệp, vận dụng, áp dụng và phát triển theo hướng sáng tạo của riêng mình.


8
2.3. Nội dung giải pháp:
2.3.1. Những yêu cầu về sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy
học lịch sử

Muốn sử dụng hiệu quả di sản văn hóa địa phương trong dạy học lịch sử
giáo viên phải tuân thủ một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải đảm bảo mục tiêu giáo dục của môn lịch sử ở trường THPT
và mục tiêu giáo dục di sản: Đảm bảo chương trình theo qui định của bộ giáo dục
và đào tạo. Căn cứ vào mục tiêu bài học để lựa chọn di sản văn hóa sao cho phù
hợp để hướng vào thực hiện tốt mục tiêu bài học đó, bên cạnh đó giáo viên xây
dựng thêm một số yêu cầu về di sản đối với học sinh.
Thứ hai, xác định nội dung và thực hiện các bước chuẩn bị chu đáo: Dù giờ
học lịch sử đó diễn ra tại di tích lịch sử văn hóa hay dạy học trên lớp có sử dụng
di sản văn hóa thì giáo viên cũng phải chuẩn bị chu đáo nội dung và các điều kiện
thực hiện.
Về nội dung di sản, giáo viên căn cứ nội dung bài học lựa chọn di sản của
địa phương có liên quan đến bài học, thông báo yêu cầu cho học sinh trước ít nhất
một tuần để học sinh tìm hiểu các thông tin liên quan đến di sản, khi làm việc với
di sản, học sinh sẽ trao đổi quan sát, so sánh những gì thu thập được với thực tế
di sản từ đó có hiểu biết sâu sắc hơn về di sản. Bản thân giáo viên phải tìm hiểu
di sản trước khi cho học sinh tiếp cận di sản để còn hỗ trợ cho học sinh khi cần
thiết.
Giáo viên phải lập được kế hoạch chi tiết các công việc cụ thể: tiến trình dạy
học với di sản, đánh giá tổng kết hoạt động dạy học với di sản.
- Dự kiến nội dung công việc.
- Dự kiến các phương tiện cần cho hoạt động.
- Dự kiến giao nhiệm vụ gì? Cho đối tượng nào? Thời gian phải hoàn thành
là bao lâu?
Tiến hành hoạt động với di sản văn hóa địa phương: phải xắp xếp một qui
trình tiến hành hợp lí, phù hợp với năng lực của học sinh. Kịch bản hoạt động với
di sản phải thiết kế chi tiết từ lúc tiếp xúc với di sản, các công việc cụ thể khi học
sinh tìm hiểu thơng tin về các đối tượng, sự vật chứa đựng trong di sản liên quan
đến nội dung bài học (ghi chép, lấy mẫu vật, chụp ảnh, vẽ..); trao đổi để phân tích
các hiện tượng, sự vật, cách trình bày thơng tin, mẫu vật, viết báo cáo sau khi

thăm quan thực địa di sản. Khi tiến hành hoạt động, học sinh hồn tồn chủ động,
tích cực sáng tạo, giáo viên chỉ là người điều khiển, hướng dẫn quan sát các hoạt
động của học sinh theo kịch bản và nhiệm vụ đặt ra.
Kết thúc hoạt động: Học sinh phát biểu suy nghĩ, giáo viên chốt lại ý nghĩa,
giá trị đạt được qua việc sử dụng di sản văn hóa địa phương trong bài học.


9
Đánh giá kết quả hoạt động: nhận xét chung về ý thức tham gia của mọi
thành viên; nhất thiết phải cho học sinh viết bài thu hoạch sau hoạt động để nhằm
tìm hiểu mức độ nhận thức vấn đề của học sinh.
Thứ ba, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh tạo điều kiện cho học
sinh trải nghiệm khuyến khích học sinh làm việc tích cực, nhiệt tình có cơ hội thể
hiện mình qua đó các em có thái độ tình cảm chân thực đúng đắn với di sản văn
hóa địa phương.
Thứ tư, kết hợp đa dạng các hình thức tổ chức thực hiện: có thể cho học sinh
quan sát trực tiếp di sản, dùng các giác quan để tiếp xúc qua phim ảnh, nghe…
tìm hiểu qua phịng truyền thống, bảo tàng, tổ chức câu lạc bộ, tham quan triển
lãm về di sản địa phương khi có điều kiện,…
2.3.2. Các hình thức sử dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương trong
dạy học lịch sử
2.3.2.1. Sử dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương để tiến hành bài
học ở trên lớp
Bài học trên lớp chiếm đa số thời gian của q trình dạy học bộ mơn lịch
sử. Bởi vậy tiến hành bài học bằng cách sử dụng di sản văn hóa địa phương sáng
tạo, đa dạng nhuần nhuyễn sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bồi dưỡng, giáo dục
đạo đức, tư tưởng, tình cảm, rèn luyện năng lực thực hành bộ môn cho học sinh.
Khi lựa chọn nội dung tài liệu về di sản được sử dụng trong bài học giáo
viên phải tiến hành chọn lọc kĩ lưỡng và xác minh tính chân thực của các tài liệu.
Chọn tài liệu điển hình, sắp xếp các tài liệu thành hệ thống phù hợp với tiết học,

trình độ, khả năng nhận thức của học sinh. Tránh tình trạng sử dụng quá nhiều tài
liệu, sử dụng không đúng lúc, đúng chỗ làm lỗng nội dung bài học.
Ví dụ, với chủ đề lễ hội truyền thống tỉnh Yên Bái, giáo viên tiến hành cho
học sinh tìm hiểu các vấn đề:
+ Khái niệm lễ hội, lễ hội truyền thống
+ Kể tên một số lễ hội truyền thống tiêu biểu trên địa bàn tỉnh n Bái
+ Tìm hiểu về Đền Đơng Cuông
Về mục tiêu: Học sinh nắm được các khái niệm về lễ hội, lễ hội truyền thống;
biết thêm về văn hóa dân tộc và địa phương đồng thời giáo dục lịng u nước, niềm
tự hào dân tộc, biết giữ gìn bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp.
Về phương thức: Giáo viên tiến hành buổi thảo luận về lễ hội truyền thống
(Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu theo các vấn đề: Khái
niệm lễ hội, lễ hội truyền thống; Kể tên một số lễ hội truyền thống tiêu biểu trên
địa bàn tỉnh n Bái; Tìm hiểu về Lễ hội Đền Đơng Cuông).
Gợi ý các nội dung: Học sinh cần nắm được


10
+ Truyền thống là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng.
Lễ là hệ thống những hành vi động tác nhằm biểu hiện sự tơn kính của con người
với thần linh, phản ảnh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống
mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. “Hội” là sinh hoạt văn hóa, tơn giáo,
nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Lễ hội là hoạt động
tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Con người xưa kia rất tin
vào trời đất, thần linh.
Lễ hội cổ truyền là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng được tổ chức
theo nghi lễ truyền thống, nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
+ Yên Bái là một trong những địa danh hình thành dân tộc Việt Nam, đồng
thời Yên Bái cũng là quê hương của các lễ hội truyền thống, trong đó có nhiều lễ
hội tiêu biểu gắn liền với tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc dân tộc với nhiều

truyền thuyết dân gian đã trở thành biểu tượng văn hóa tâm linh trong vùng và cả
nước như: Lễ hội Đền Đông Cuông, Lễ hội Lồng Tồng( Lễ hội xuống đồng)
…được tổ chức chủ yếu vào ba tháng mùa xuân của năm.
+ Một số lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
THỜI GIAN TỔ
STT
TÊN LỄ HỘI
ĐỊA CHỈ
CHỨC
1 Lễ hội Đền Đông Cuông Tháng giêng (âm Đông Cuông - Văn Yên
lịch)
2 Lễ hội Đền Nhược Sơn Tháng giêng (âm Xã Châu Quế Hạ- Huyện
lịch)
Văn Yên
3 Lễ hội Đền Phúc Linh
Tháng giêng (âm Xã Lâm Giang- huyện
lịch)
Văn Yên
4 Lễ hội Đền Trạng
Tháng giêng(âm Xã Yên Thái –huyện Văn
lịch)
Yên
5 Lễ hội Đền Đại Cái
Tháng giêng
Tân Lĩnh-Lục Yên
6 Lễ hội Lồng tồng(của Tháng
giêng, Trấn Yên, Văn Yên, Lục
đồng bào dân tộc Tày)
tháng Hai
Yên, Văn Chấn

7

Lễ hội Đền Mẫu Thác Tháng giêng


Thác Bà- Yên Binh

* Lễ hội Đền Đông cuông
+ Thời gian tổ chức lễ hội: Lễ hội Đền Đông Cuông được tổ chức vào ngày
"Mão" tháng Giêng hàng năm.
+ Địa điểm tổ chức Lễ hội: Thôn Bến Đền - Xã Đông Cuông - Huyện Văn
Yên tỉnh Yên Bái.
+ Phần Lễ - Hội:


11
Lễ hội đền Đông Cuông mở đầu bằng lễ mổ trâu tế Mẫu, được thực hiện vào
thời khắc đầu tiên của ngày mão đầu năm. Trâu dùng để tế phải là trâu đực trắng,
to khoẻ, được tuyển chọn kĩ lưỡng từ nhiều tháng trước. Tới giờ phút thiêng liêng
nhất, trâu mổ ra lấy 9 chén tiết trâu xuống bến sông để tế, ông mo bước từ cung
cấm ra cùng các giai chay và dân làng làm lễ, tiến hành lễ hiến sinh cầu cho linh
hồn những anh hùng đã hi sinh ở thác Ghềnh Ngai trên dịng sơng Hồng trong
cuộc chiến chống qn Ngun Mơng thủa trước, sau đó trâu được thui và được
chủ tế dâng lên cầu mưa thuận gió hồ mùa màng tốt tươi, người dân khoẻ mạnh,
làm ăn phát tài. Sau khi cúng, thịt trâu được đem ra chế biến thành các món ăn
mời du khách đến đền làm lễ. Cuộc tế lễ diễn ra một cách nghiêm linh, muôn dân
trăm họ hướng về cội nguồn để cầu cho Quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt, mưa
thuận gió hồ, bình an hạnh phúc, v.v.
Tiếp sau lễ mổ trâu là lễ rước Mẫu sang sông, đây là một trong những lễ
chính của lễ hội đền Đơng Cng. Lễ rước tượng Mẫu sang sông để thắp hương

cúng tế linh hồn tướng quân Hà Đặc được bắt đầu vào lúc 8 giờ sáng. Trước đó
đã có hàng ngàn người dân địa phương và du khách tập trung trước cửa đền cùng
tham gia rước. Tượng Mẫu được rước sang sông bằng chiếc bè lớn làm bằng nứa
dại. Khi tượng Mẫu đã sang tới miếu Ghềnh Ngai thăm Đức ơng thì các thầy cúng
cũng làm thủ tục tế lễ, sau đó tượng Mẫu lại được rước quay về đền vào đúng 10
giờ và cũng là lúc bắt đầu lễ dâng hương tế Mẫu.
Lúc này, hàng ngàn du khách thập phương và nhân dân trong vùng lần lượt
dâng hương, cầu mong những điều may mắn sẽ đến với gia đình, người thân, bạn
bè trong cả năm.
Sau phần lễ là phần hội, các hoạt động thi đấu thể thao, trò chơi dân gian
như: đẩy gậy, kéo co và các hình thức sinh hoạt mang đậm chất dân gian như Ném
Còn (tức Sến) đánh yến, kéo co, đấu vật, hát chèo với đủ sắc mầu dân tộc: Kinh,
Tày, Dao, Nùng… muôn màu sắc phục chật cứng như nêm, tiếng chuông, tiếng
khánh, tiếng trống lẫn tiếng hát then, hát cọi, khèn bè, tiếng reo hò, kéo co, ném
cịn thắng cuộc, cờ bay trước gió, khiến cho cả vùng trở lên tưng bừng náo nhiệt,
cuối hội nam nữ các bản làng xã tổ chức hát dã hội chia tay hẹn hò hội xuân tới
gặp lại… đã tạo cho lễ hội đền Đông Cuông thêm phần sống động.
Những năm gần đây, đền Đông Cuông là điểm nhấn tâm linh tín ngưỡng của
đơng đảo nhân dân và du khách thập phương trong hành trình du lịch văn hố tâm
linh, nhớ về nguồn cội. Mỗi năm có tới hàng trăm ngàn lượt du khách từ khắp các
tỉnh thành trong nước hành hương tìm về đền Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn dâng
hương kính Mẫu, vãn cảnh đền và cầu nguyện cho Quốc thái dân an, cầu lộc, cầu
tài, cầu bình an trong cuộc sống.


12
Trong Di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ nói chung và thờ
Mẫu Thượng Ngàn tại đền Mẫu Đơng Cng nói riêng có một nghi lễ hết sức đặc
biệt, đó là nghi lễ chầu văn - hầu đồng, một nghi thức tín ngưỡng thực hành tiêu
biểu nhất của đạo Mẫu. Hàng năm, cứ Xuân Thu nhị kỳ, vào đầu năm bắt đầu từ

tháng Giêng đến tháng 3 Âm lịch và cuối năm vào từ tháng 8 đến hết tháng 12
Âm, các thanh đồng trên mọi miền đất nước thường về đền Đông Cuông để lễ
Mẫu và "bắc ghế hầu Thánh".
Năm 2000, đền được cơng nhận là Di tích lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Năm
2009, đền được cơng nhận là Di tích cấp Quốc gia.
2.3.2.2. Sử dụng di sản văn hóa địa phương để tiến hành bài học lịch sử
tại nơi có di sản (thực địa).
Bài học lịch sử không chỉ được tiến hành trên lớp mà còn được tiến hành tại
nơi xảy ra các sự kiện, q trình lịch sử hay tại di tích lịch sử. Việc tiến hành bài
học tại thực địa khác với hoạt động ngoại khóa. Bài học tại di tích lịch sử cần phải
thực hiện các yêu cầu của một bài học trên lớp nhưng cũng đồng thời phải tuân
thủ theo các yêu cầu của bài học tại nơi có di sản. Khi tiến hành bài học tại nơi có
di sản thì người giáo viên cần đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Một là nội dung phải đáp ứng những yêu cầu, mục đích giáo dục – giáo
dưỡng của bài học, khơng nên biến bài học tại thực địa thành một buổi tham quan
di tích hay là nói chuyện ngoại khóa lịch sử.
Hai là chọn địa điểm có di sản văn hóa phù hợp với mục tiêu, nội dung bài
học, số tiết học và điều kiện tiến hành. Lựa chọn các vấn đề tiêu biểu, phù hợp
với nội dung bài học cũng như phù hợp với số tiết học, điều kiện để có thể tiến
hành tổ chức học tập tại thực địa.
Ba là lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tiến hành bài học: Giáo
viên phải đi khảo sát thực địa, liên hệ với cơ quan quản lí di sản, xây dựng kế
hoạch chi tiết cho từng nội dung công việc, thời gian thực hiện, lực lượng phối
hợp, phương tiện thiết bị hỗ trợ, báo cáo với tổ chn mơn và Ban giám hiệu. Tìm
hiểu kỹ lưỡng địa hình địa vật, các di vật, chứng tích có liên quan đến bài học.
Bốn là chuẩn bị chu đáo giáo án, nội dung giảng dạy. Ở đó người giáo viên
có thể tổ chức cho học sinh quan sát những hiện vật tại di tích có liên quan đến
bài học sau khi giáo viên giảng dạy xong nội dung bài học đó. Hoặc người giáo
viên có thể vừa tiến hành giảng dạy, vừa có thể giới thiệu cho học sinh nghe những
hiện vật của di tích để học sinh có thể hình dung ngay ra được nội dung của bài

học lịch sử.
Năm là Giáo viên phải xác định được rõ mối quan hệ chặt chẽ không thể
tách rời giữa nội dung bài học chính khóa với di tích lịch sử.


13
Sáu là Giáo viên chuẩn bị trước cho học sinh về tư tưởng và kiến thức
chuyên môn, yêu cầu bài học, nội dung kiến thức cần chuẩn bị trước ở nhà, chuẩn
bị đồ dùng trực quan…giáo viên phải biết cách để có thể phát huy tính tích cực
học tập của học sinh, qua đó học sinh có thể dễ dàng quan sát và tư duy trong quá
trình học tập. Đặc biệt, giáo viên nên tiến hành tổ chức cho học sinh tự học ở cả
trong và sau khi học.
Cách tiến hành bài học tại di sản:
- Ổn định tổ chức, việc này được thực hiện trong suốt q trình, nói rõ cho
học sinh những yêu cầu quy định phải tuân thủ trong suốt buổi học.
- Kiểm tra bài cũ: giáo viên sử dụng các chứng tích, hiện vật tại di sản để
kiểm tra kiến thức đã học có liên quan hoặc kiểm tra nội dung kiến thức học sinh
đã được giao chuẩn bị ở nhà.
- Tổ chức các hoạt động dạy học: kết hợp việc huy động kiến thức cũ với
kiến thức mới, hướng dẫn học sinh quan sát thực địa, di sản, trao đổi thảo luận để
làm rõ kiến thức trọng tâm bài học.
- Giáo dục tư tưởng tình cảm đạo đức, ý thức trách nhiệm của học sinh đối
với di sản.
2.3.2.3. Sử dụng di sản văn hóa địa phương để tổ chức tham quan ngoại
khóa
Tham quam ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học có vị trí quan
trọng trong dạy học lịch sử. Nó có tác dụng hỗ trợ cho bài học trên lớp và có ý
nghĩa to lớn đối với học sinh cả về giáo dưỡng, giáo dục và phát triển cho học
sinh. Tại di tích, những dấu vết của quá khứ, những hiện vật cịn được lưu giữ
khơng những góp phần cụ thể hóa kiến thức mà còn để lại ấn tượng mạnh mẽ,

nâng cao hứng thú học tập và rèn luyện khả năng quan sát, tư duy, phân tích của
học sinh. Khi tổ chức tham quan học tập tại thực địa cũng cần phải tuân thủ các
nguyên tắc, nội quy của một buổi tham quan. Trong buổi tham quan giáo viên cần
kết hợp với phụ huynh, chuẩn bị, liên lạc và kết hợp với cán bộ hướng dẫn di tích
để giới thiệu, củng cố, khắc sâu, hoàn thiện kiến thức phù hợp với yêu cầu và trình
độ nhận thức của học sinh. Qua đó gợi ý, hướng dẫn học sinh có thể nắm chắc
những nội dung, vấn đề quan trọng cần ghi nhớ. Qua buổi tham quan học tập tại
di tích, giáo viên cần kiểm tra và đánh giá, nhận thức của học sinh để từ đó có
biện pháp thay đổi, rút kinh nghiệm cho những lần tham quan sau để đạt hiệu quả
tốt hơn. Để cho việc tổ chức tham quan di tích chu đáo, tránh các sự cố xảy ra cần
phải có kế hoạch và phương pháp tiến hành, quy định nhiệm vụ cho học sinh, phối
hợp tốt với giáo viên bộ mơn, giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức đồn thể.
Các bước tiến hành:


14
- Đầu năm học giáo viên lập kế hoạch đề xuất với nhà trường phê duyệt kế
hoạch liên quan đến di tích lịch sử.
- Liên hệ với ban quản lí di sản trao đổi mục đích yêu cầu của buổi tham
quan để cùng có kế hoạch phối hợp, tạo điều kiện cho hoạt động có kết quả.
- Chuẩn bị chu đáo kinh phí, phương tiện, đồ dùng của giáo viên và học
sinh.
- Phổ biến nội dung, mục đích của buổi tham quan.
- Thực hiện tiến trình buổi tham quan di tích lịch sử.
- Kết thúc buổi tham quan, giao bài tập cho học sinh viết bài thu hoạch về
một số nội dung có liên quan đến bài học.
Ví dụ: Sau khi học xong bài 20 lịch sử lớp 10 Xây dựng và phát triển văn
hóa các dân tộc trong thế kỉ X - XV, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đi tham
quan thực địa tại di tích Đền Đông Cuông (Xã Đông Cuông- huyện Văn Yên- tỉnh
Yên Bái)

Sự chuẩn bị cho buổi tham quan di tích:
Đối với GV: Ngay từ đầu năm học, giáo viên lịch sử phải lên kế hoạch từ
trước về việc học tập tại di tích và đề xuất với tổ bộ mơn, nhà trường và hội phụ
huynh về việc tổ chức tham quan ngoại khóa cho học sinh. Dự trù kinh phí cho
buổi tham quan. Huy động kinh phí từ Hội phụ huynh học sinh và BGH nhà
trường. Trước khi tham quan học tập 2 tuần, giáo viên phải liên hệ với ban quản
lý Đền Mẫu Đơng Cng để trình bày mục đích, nội dung, yêu cầu của buổi tham
quan học tập tại Đền Mẫu Đơng Cng. Giáo viên phải quan sát tồn khu di tích,
cần xác định được rõ những hiện vật quan trọng, tiêu biểu liên quan đến nội dung
bài học để phục vụ cho bài học của buổi tham quan. Để tiện cho học sinh theo dõi,
giáo viên nên phát cho h bọc sinh bản kế hoạch về hành trình tham quan và những
câu hỏi, bài tập mà học sinh phải hoàn thành sau khi kết thúc buổi tham quan.
Trước buổi tham quan 1ngày, giáo viên cần phổ biến lại cho học sinh nghe về
mục đích, địa điểm, thời gian cũng như sự chuẩn bị của học sinh, những yêu cầu
cần thiết cho buổi tham quan học tập tại di tích.
Đối với học sinh: Học sinh cần nhận thức rằng đây khơng phải là buổi tham
quan mang tính vui chơi, giải trí mà là một hoạt động phục vụ cho học tập thiết
thực của các em. Vì vậy khi tham gia, các em phải có thái độ học tập nghiêm túc,
thực hiện những nội quy của di tích cũng như những nhiệm vụ học tập mà giáo
viên đã giao. Học sinh phải nghiên cứu trước bản kế hoạch mà giáo viên đã cung
cấp cho để nắm rõ được mục đích cũng như yêu cầu cụ thể của buổi tham quan
tại di tích Đền Mẫu Đơng Cng. Ở đó học sinh cần chuẩn bị những kiến thức về
Đền Mẫu Đông Cuông, theo sự hướng dẫn phân công của giáo viên. Chuẩn bị
phương tiện học tập như sách vở, máy ảnh hoặc máy ghi âm.


15
Tiến trình dạy học
Bước 1: Giới thiệu về Đền Mẫu Đơng Cng.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, quan sát lắng nghe, nêu ý kiến nhận

xét hoặc thảo luận về các nội dung để tìm hiểu về Đền Mẫu Đông Cuông bằng
việc đưa ra các chủ đề, chia lớp thành các nhóm chuẩn bị
- Chủ đề 1: Tìm hiểu Đền Mẫu Đơng Cng và tín ngưỡng thờ Mẫu.
- Chủ đề 2: Tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của ngôi Đền cũng
như những câu truyện xung quanh ngơi Đền.
- Chủ đề 3: Tìm hiểu về cấu trúc và nét đặc sắc trong nghệ thuật kiến trúc
cây dựng Đền.
- Chủ đề 4: Tìm hiểu về nét đặc trưng trong lễ hội truyền thống được tổ chức
hằng năm tại sân Đền.
Bước 3: Sau khi học sinh đã trình bày xong phần mà học sinh chuẩn bị, giáo
viên chốt lại những nội dung mà học sinh cần nắm được sau khi kết thúc buổi
ngoại khóa: học sinh cần nắm được về các sự tích, lịch sử hình thành và phát triển
của Đền, lễ hội truyền thống gắn với Đền Mẫu Đông Cuông.
Bước 4: Học sinh được thử sức làm hướng dẫn viên du lịch, giới thiệu về
chính địa phương của mình và được hịa mình vào khơng khí lễ hội mà các em đã
chuẩn bị.
Bước 5: Tổng kết bài
Giáo viên giới thiệu về Đền Mẫu Đông Cuông.
Đền Đông Cuông là một trong hai đền lớn ở thượng lưu sông Hồng, đã tồn
tại từ lâu đời tại xã Đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Đền Đông Cuông
là một trong những di tích tâm linh quan trọng bậc nhất của tỉnh Yên Bái.
Đền Đông Cuông trước đây được gọi là “Đền Đông”, “Đền Mẫu Đông”.
Khánh tự và sớ văn ghi rõ “Đông Quang linh từ”, gọi nôm là “Đền Mẫu đệ nhị
Thượng Ngàn”. Ngày nay, người ta gọi là Đền Đông Cuông, Đền Thần Vệ quốc
hoặc Đền Đông Quang.
Đền được đặt tai Thôn Bến Đền - xã Đông Cuông - huyện Văn Yên -tỉnh
Yên Bái, nằm cách trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái về phía Tây Bắc 52 km, cách huyện
lỵ Văn Yên 18 km về phía Tây Bắc và cách ga Trái Hút 4 km về phía Tây
Nam Đền Đông Cuông được xây dựng trên một thế đất rộng. Tọa sát bên đôi bờ
sông hồng, xung quanh là đồng ruộng và núi rừng bao bọc, không giống những

ngôi đền khác trường tồn giữa chốn phồn hoa, cửa nhà san sát mà Đền Đông
Cuông “Đông Quang” đã được người xưa chọn phương cắm hướng ngay cấp sa
bồi của thế đất vùng “Thượng lưu châu thổ sông Hồng”. Thế đất binh sự – phên
dậu nhưng khơng xa lìa thế nhân, chốn này tĩnh tại nhưng không hề âm u hiu
quạnh. Vì vậy ngơi đền ấy mãi mãi sáng trong như đúng tên gọi “Đông Quang”


16
cổ nhân đã đặt. Vậy nên từ xa đã khiến du khách nhận ngay được bóng dáng cây
Đa khoảng 800 tuổi cạnh ngôi đền tuy cổ mà không cũ, tuy hiện đại mà mang tính
dân tộc cao.
Ngồi Đền chính thờ Mẫu Thượng Ngàn cịn có Miếu Cơ, Miếu Cậu và Miếu
Đức Ơng (Miếu Đức Ơng tọa bên hữu ngạn sơng Hồng đối diện với ngơi Đền
Chính về hướng Nam cách 150m đường chim bay thuộc cụm di tích Đền Đơng
Cng). Đền Đng Cng có kết cấu hình chữ đinh gồm hai tòa đại bái và hậu
cung cấm. Đền được trang hồng lộng lẫy với những vân mây, sóng nước, điểm
xuyến đơi hình hoa lá hoa dây.
Qua bố trí kết cấu khung và ở tịa cung cấm là dạng đình ở trên mang dáng
dấp kiến trúc của thời Nguyễn với lối sử dụng cổ truyền có hiệu quả. Đây là nét
điển hình nghệ thuật kiến trúc cổ dân gian mà tới hơm nay dù xây dựng có cơng
nghệ kỹ thuật hiện đại song vẫn ứng dụng kiểu hệ thống cổ truyền này, chỉ có điều
biến dạng vị trí đi với một tên gọi khác “con sơn” mà ta thường bắt gặp.
Năm 1924, bà Lái Lộc một nhà buôn lâm sản bỏ tiền riêng xây gạch cho đền
Mẫu và sửa miếu Đức Ông bằng gỗ lim. Năm 1978-1979 nổ ra chiến tranh biên
giới phía bắc, Đền dỡ đi để xóa mục tiêu, đồ thờ được thủ từ Hà Văn Giấy cất giữ
cẩn thận. Năm 1982 tình hình tạm yên. Hội người cao tuổi ở thôn Bến Đền đã
dựng lại trên nền đền cũ bằng vật liệu tranh tre, nứa lá.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đền Đông Cuông chịu nhiều sự tàn
phá khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến tranh. Sau nhiều năm tôn tạo, tu bổ, đền
Đông Cuông toạ lạc khang trang trên nền cũ. Kiến trúc đền Đông Cuông mang

dáng dấp kiến trúc đền chùa thời Lý Trần với mái ngói cong và hình lưỡng long
chầu nhật.
Các hiện vật trong Di tích, do sự biến thiên của lịch sử, ngơi đền cổ xưa
khơng cịn ngun vẹn về nhân vật thờ cúng như hình thức. Trong tịa hậu cung
cịn bảo lưu hai pho tượng đồng cỡ lớn, một pho tượng mẫu, một pho là quan
Hoàng Báo. Tuy mỗi pho tượng có một sự tích kích cỡ khác nhau. Song đều được
tạo dáng hài hòa (đường sơn viết thiếp bên ngoài ăn nhập với nội dung bên trong
của từng pho tượng bài trí theo thể thức nam tả - nữ hữu). Cách thơ kính cho thấy
người Tày xem trọng mẫu hệ, là một lực lượng siêu đẳng là hiện thân của một sự
kính trọng, là nguồn của cải vơ biên, là linh hồn của vũ trụ, từ mẹ mà muôn vật
nảy sinh - mn lồi tồn tại.
Ngồi ra cịn có ban thờ ngũ vị tiên ông, ban Trần triều (thờ vọng), phủ sơn
trang, tịa cơng đồng chúa, đại Tự (4 bức) và nhiều khánh đồng, chng đồng,
hịm sắc phụ vụ cho công việc thờ cúng, tế lễ.
Đền Đông Cuông tuy tọa ở nơi heo hút, nhưng ấm hơi người. Các triều đại
đều phong tặng sắc quý cho Đông Cuông những ơn sâu, nghĩa cả, ý đẹp điều lành


17
để cứu độ toàn dân, nên đã xuất hiện khá sớm Đền Thần Vệ Quốc và cần nguồn
của cải vô biên nên đã thêm cả Mẫu. Một ngôi đền thiêng để thiên cổ trường tồn
ngàn năm bất hủ, mang lại tiếng thơm ấy là sức đoàn kết dân tộc, tạo nên sức
mạnh phi thường được nên thành Thần Vệ Quốc là vậy. Đền tọa ở nơi địa thế đẹp,
khí tốt tụ về bãi bồi vạn niên của xứ Hưng Hóa khi xưa, cũng bắt đầu từ ngôi đền
thiêng ấy mà tả hữu hai bên mạch đất đều có thần ngự, thường xun có khí tốt
đón gió lành thổi đến, vì thế Đền Thần Vệ Quốc nơi đây không đâu sánh được.
Lễ hội Đền Đông Cuông được tổ chức vào ngày “Mão” tháng Giêng hàng
năm. Lễ hội đền Đông Cuông mở đầu bằng lễ mổ trâu tế Mẫu, được thực hiện vào
thời khắc đầu tiên của ngày mão đầu năm. Trâu dùng để tế phải là trâu đực trắng,
to khoẻ, được tuyển chọn kĩ lưỡng từ nhiều tháng trước. Tới giờ phút thiêng liêng

nhất, trâu mổ ra lấy 9 chén tiết trâu xuống bến sông để tế, ông mo bước từ cung
cấm ra cùng các giai chay và dân làng làm lễ, tiến hành lễ hiến sinh cầu cho linh
hồn những anh hùng đã hi sinh ở thác Ghềnh Ngai trên dịng sơng Hồng trong
cuộc chiến chống qn Ngun Mơng thủa trước, sau đó trâu được thui và được
chủ tế dâng lên cầu mưa thuận gió hồ mùa màng tốt tươi, người dân khoẻ mạnh,
làm ăn phát tài. Sau khi cúng, thịt trâu được đem ra chế biến thành các món ăn
mời du khách đến đền làm lễ. Cuộc tế lễ diễn ra một cách nghiêm linh, muôn dân
trăm họ hướng về cội nguồn để cầu cho Quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt, mưa
thuận gió hồ, bình an hạnh phúc, v.v.
Trong Di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ nói chung và thờ
Mẫu Thượng ngàn tại đền Mẫu Đơng Cng nói riêng, có một nghi lễ hết sức đặc
biệt, đó là nghi lễ hầu đồng - một nghi thức tín ngưỡng thực hành tiêu biểu nhất
của đạo Mẫu. Hàng năm, cứ xuân thu nhị kỳ, vào đầu năm bắt đầu từ tháng Giêng
đến tháng 3 âm lịch và cuối năm vào từ tháng 8 đến hết tháng 12 âm lịch, các
thanh đồng trên mọi miền đất nước thường về đền Đông Cuông để lễ Mẫu và “bắc
ghế hầu Thánh”.
Hầu đồng có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc, dụng cụ, trang phục,
nghệ thuật diễn xướng và tấm lịng tơn kính với thần linh. Trong khi hầu đồng,
người được nhập đồng múa các điệu theo tính cách của từng giá đồng, còn ở dưới
cung văn tấu lên theo làn điệu chầu văn, lời ca mô tả nhân vật của giá đồng, tả
quang cảnh nhân vật xuất hiện, kể sự tích và cơng đức của các thánh. Sự cầu kỳ
trong khâu chuẩn bị từ điện thờ, người phục vụ đến dàn nhạc, trang phục, lễ vật
đã góp phần tạo nên cho nghi thức hầu đồng tại đền Đông Cng mang sắc màu
huyền bí rất riêng, thiêng liêng mà cũng khơng kém phần độc đáo.
Năm 2000, Sở Văn hóa Thông tin, Bảo tàng tỉnh Yên Bái (nay là Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Yên Bái) lập hồ sơ trình tỉnh xếp hạng Di tích lịch
sử -văn hóa cấp tỉnh có diện tích trên 17.600 m2. Năm 2009 đền Đông Cuông


18

được cơng nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Những năm gần đây, đền Đông
Cuông là điểm nhấn tâm linh tín ngưỡng của đơng đảo nhân dân và du khách thập
phương trong hành trình du lịch văn hố tâm linh, nhớ về nguồn cội. Mỗi năm có
tới hàng trăm ngàn lượt du khách từ khắp các tỉnh thành trong nước hành hương
tìm về đền Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn dâng hương kính Mẫu, vãn cảnh đền và
cầu nguyện cho Quốc thái dân an, cầu lộc, cầu tài, cầu bình an trong cuộc sống.
Bước 6: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
Trong quá trình học sinh tham quan tự do, giáo viên có thể tiến hành phỏng
vấn 1 số học sinh về cảm nhận khi tham quan. Hay sau khi kết thúc phần tham
quan tự do của học sinh, nếu thừa thời gian giáo viên có thể tiến hành phỏng vấn
nhỏ trong khoảng 5 phút… Hoặc giáo viên có thể phỏng vấn học sinh trên xe ơ tơ
trên đường về. Dưới dạng các câu hỏi như:
Điều gì làm cho em thấy ấn tượng và cảm thấy thích thú nhất khi được tham
quan đền?
Em cảm thấy như thế nào khi được tham quan di tích? Nếu có cơ hội được
quay trở lại thì em có muốn được đến đây nhiều lần nữa không?
Nếu cho em được trở thành hướng dẫn viên du lịch thì em có thích và muốn
giới thiệu cho mọi người biết và hiểu hơn về di tích khơng? Phần kiến thức nào
mà em tâm đắc nhất?
Vì phỏng vấn có thể khơng thể được hết cả lớp vì vậy giáo viên sẽ yêu cầu
học sinh về nhà viết bài thu hoạch nêu lên suy nghĩ và cảm nhận của bản thân về
chuyến tham quan di tích Đền Mẫu Đơng Cng.
Có thể khẳng định rằng việc tổ chức hoạt động ngại khóa dưới hình thức
tham quan lịch sử sẽ có tác dụng lớn đối với học sinh khơng chỉ về mặt kiến thức
mà cịn có tác dụng lớn về kĩ năng, thái độ và phát triển năng lực. Từ đó phát triển
năng lực: giao tiếp, trình bày, nhận xét, đánh giá của học sinh, giúp học sinh hoàn
thiện bản thân hơn trong quá trình học tập của mình.
2.3.3. Một số phương pháp dạy học, đánh giá kết quả dạy học, giáo dục
khi sử dụng di sản văn hóa
Việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử vẫn phải tuân thủ phương

pháp dạy học truyền thống của bộ mơn: Trình bày miệng, phương pháp sử dụng
đồ dùng trực quan kết hợp với miêu tả và tường thuật, phương pháp so sánh, phân
tích, đánh giá sự kiện lịch sử, phương pháp trao đổi đàm thoại. Ngoài ra, GV kết
hợp sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại, ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học.
Việc kiểm tra đánh giá đối với nội dung có sử dụng di sản văn hóa phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đảm bảo tính khách quan chính xác.


19
- Đảm bảo tính tồn diện.
- Đảm bảo tính hệ thống.
- Đảm bảo tính cơng khai và tính phát triển.
- Đảm bảo tính cơng bằng.
- Đảm bảo độ tin cậy và tính giá trị.
- Kết hợp giữa đánh giá của giáo viên va tự đánh giá của học sinh.
- Các hình thức kiểm tra, đánh giá càng đơn giản, tốn ít thời gian, chi phí,
phù hợp với điều kiện cụ thể càng tốt. Hình thức kiểm tra kết hợp cả tự luận, trắc
nhiệm, làm bài tập nghiên cứu nhỏ, viết báo cáo thu hoạch.
2.4. Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ.
Trong bối cảnh hiện nay, để đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử bên cạnh việc ứng dụng CNTT và các phương pháp, kĩ thuật
dạy học hiện đại, thì việc khai thác, sử dụng tài liệu, di sản văn hóa địa phương
trong giảng dạy là rất cần thiết. Đặc thù của học tập lịch sử là học sinh không thể
trực tiếp “trực quan sinh động”, không thể làm thí nghiệm giống các mơn học
khác như Vật lý, Hóa học, Sinh học để học sinh quan sát. Do đó trong q trình
giảng dạy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai thác, sử dụng tài liêụ di sản
văn hóa địa phương để phục vụ q trình học tập. Điều này vừa góp phần giáo
dục lịng u q hương, thúc đẩy học sinh tìm hiểu về lịch sử địa phương một

cách hiệu quả, vừa gây hứng thú, khơi gợi khát khao tìm tịi tri thức cho học sinh,
kích thích tư duy, buộc các em phải chủ động làm việc năng động, giải quyết vấn
đề, hình thành năng lực. Giảng dạy lịch sử khơng chỉ đúng, đủ mà cịn phải hay
và hấp dẫn, thiết thực đối với mỗi học sinh và đời sống xã hội. Điều này phù hợp
để thực hiện tốt dạy học theo hướng phát triển năng lực, lấy việc học làm gốc, lấy
người học làm chủ thể; dạy học gắn với trải nghiệm thực tiễn.
Qua khảo sát, nghiên cứu cho thấy có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu
khoa học, các giải pháp sáng kiến khác nhau đã khẳng định sự cần thiết và tính
đúng đắn của việc khai thác và sử dụng tài liệu, di sản văn hóa, lịch sử địa phương
trong giảng dạy và học tập lịch sử ở trường THPT...Tuy nhiên, những nghiên cứu
về việc khai thác và sử dụng tài liệu, di sản văn hóa, lịch sử địa phương trong
giảng dạy và học tập lịch sử ở trường THPT vẫn cịn rất ít và chưa cụ thể, đa số
chỉ đặt ra các vấn đề chung. Hiện nay mới chỉ có tài liệu hướng dẫn giảng dạy lịch
sử địa phương của tỉnh Yên Bái được ban hành và đã thực hiện qau nhiều năm
học. Tài liệu thiên về việc cung cấp các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn phát
triển của tỉnh Yên Bái, Tuy nhiên việc khai thác và sử dụng tài liệu trên như thế
nào chưa được đề cập nhiều. Đa phần lớn giáo viên phải tự mày mò, nghiên cứu
nên hiệu quả chưa được cao, nhiều giáo viên còn bỡ ngỡ, khó khăn khi triển khai
sử dụng cả về hình dung ý tưởng cũng như thực hành thực tế.


20
Chính vì vậy, điểm khác biệt của sáng kiến này so với các giải pháp đã biết
đó là sáng kiến được xây dựng theo hướng đề xuất hệ thống các giải pháp, các ví
dụ thực tiễn trong q trình tổ chức các hoạt động dạy học lịch sử như việc đề ra
được cấc yêu cầu cụ thể cho việc khai thác, sử dụng tài liệu di sản văn hóa, lịch
sử địa phương trong giảng dạy lịch sử. Đưa ra một số hình thức để khai thác, sử
dụng tài liệu, di sản văn hóa, lịch sử địa phương như: Sử dụng di sản văn hóa địa
phương để tiến hành bài học ở trên lớp; Sử dụng di sản văn hóa địa phương để
tiến hành bài học lịch sử tại nơi có di sản (thực địa); Sử dụng di sản văn hóa địa

phương để tổ chức tham quan ngoại khóa. Sáng kiến cũng đã mạnh dạn đề xuất
một số phương pháp dạy học, đánh giá kết quả dạy học, giáo dục khi khai thác,
sử dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương.
Các giải pháp sáng kiến chia sẻ đối với giáo viên ứng dụng có thể coi như
một gợi ý để từ đó người giáo viên lịch sử tham khảo, lựa chọn áp dụng các biện
pháp khác nhau ở những bài học, nội dung lịch sử khác nhau nếu hợp lý và khoa
học. Như vậy, khi sáng kiến được triển khai trong thực tiễn sẽ góp phần thay đổi
tư duy của giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy - học, đồng thời đặt ra yêu
cầu đối với mỗi giáo viên lịch sử là phải biết không ngừng nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ, chủ động về các nguồn học liệu, sử liệu. Song song với việc nghiên
cứu, ứng dụng CNTT, đổi mới phương pháp trong giảng dạy, Giáo viên cần chú
trọng công tác hướng dẫn học sinh làm quen và có những biện pháp phù hợp giúp
các em có kĩ năng khai thác, sử dụng di sản văn hóa, lịch sử địa phương trong
hoạt động học tập, đưa lịch sử trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận hơn với các em đồng
thời phát triển tư duy, phát triển năng lực cho người học.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp.
Qua thực tế triển khai tơi thấy có kết quả khả quan, bước đầu đem lại hiệu
quả cao trong việc phát huy tính tích cực của học sinh, kích thích tư duy, phát
triển sự sáng tạo trong học tập của các em. Thơng qua đó mà khắc sâu nội dung
kiến thức bài học, hình thành những kỹ năng cần thiết và giáo dục tư tưởng, tình
cảm đúng đắn cho các em. Với sáng kiến này nhiều học sinh yếu sẽ được hỗ trợ
cách học tốt hơn, các em cảm thấy hứng thú hơn với giờ học. Giáo viên cũng dễ
dàng hơn trong việc truyền tải kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành, năng lực
tu duy cho người học. Sáng kiến này có thể áp dụng cho việc giảng dạy Lịch sử
Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X - XVIII, đặc biệt là khi hướng dẫn học sinh tìm
hiểu về văn hoa Việt Nam giai đừ thế kỉ X - XVIII. ở khối lớp 10 ban cơ bản và
nâng cao trong chương trình Lịch sử ở các trường THPT, phù hợp với tất cả các
đối tượng học sinh.
Các bạn đồng nghiệp có thể xem sáng kiến như một tư liệu tham khảo trong
việc thiết kế bài giảng môn lịch sử ở trường THPT. Mặt khác những gợi mở của



21
sáng kiến cũng có thể giúp các bạn đồng nghiệp thuộc các bộ mơn khác như Đia
lí, Ngữ Văn… trong nhà trường phổ thơng vận dụng để có được những ý tưởng
thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp với đặc trưng của mỗi môn học và đặc
điểm tâm lý cũng như tư duy, nhận thức của học sinh.
4. Hiệu quả, lợi ích thu được:
Bản thân tơi đang trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử khối 10, khối 11 và khối
12 ở trường Trung học phổ thông Trần Phú. Trong quá trình giảng dạy với ý thức
vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập của học sinh vừa tiến hành rút kinh
nghiệm qua mỗi tiết dạy. Và sau mỗi tiết dạy có sử dụng di sản tơi lại rút ra được
kinh nghiệm cho bản thân để những tiết học sau tơi sẽ phân tích hay hơn, hấp dẫn
hơn, nội dung bài học càng được in đậm hơn. Và tất nhiên việc dạy học sử dụng
di sản có hiệu quả hay không, không phải thực hiện một chiều tức là chỉ có giáo
viên trình bày cho học sinh nghe, mà người giáo viên phải biết khơi gợi để học
sinh tự phát hiện thông tin, tự sưu tầm tư liệu, tranh ảnh về những nội dung có liên
quan đến di sản đó. Qua đó cịn rèn luyện cho học sinh tính tích cực, chăm chỉ học
tập, sơi nổi phát biểu xây dựng bài, học sinh sẽ có hứng thú học tập, hiểu biết về lịch
sử địa phương.
Trong quá trình giảng dạy, quan sát học sinh, tôi thấy những tiết học có sử
dụng di sản văn hóa bao giờ cũng sơi nổi, những học sinh nhút nhát, thường là ít
phát biểu trong lớp sẽ có mơi trường động viên để tham gia xây dựng bài. Tuy
nhiên, để tránh khuynh hướng hình thức cần lựa chọn phối hợp các phương pháp
dạy học một cách linh hoạt sáng tạo, với bài nào, với vấn đề gì áp dụng được thì
ta nên mạnh dạn áp dụng.
Đối với các khối, lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy ở nhà trường, mặc dù cịn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc song bước đầu tôi đã đạt được những kết quả
đáng khả quan. Qua khảo sát thực tế từ các lớp tôi giảng dạy, kết quả đạt được
như sau:

Kết quả khảo sát thực tế đầu tháng 02 năm 2022
Mức độ hứng thú học tập của học sinh
Stt

Lớp

Sĩ số

1

10A1

39

2

10A2

39

Chưa có hứng
thú học tập

Có hứng thú
nhưng mức
độ chưa cao

Rất hứng
thú học tập


5

10

24

12,82%

25,64%

61,54%

6

12

21

15,38%

30,77%

53,85%


22
4

7


28

10,26%

17,96%

71,78%

7

10

25

16,67%

23,81%

59,52%

42

4
9,53%

8
19,04%

30
71,43%


201

26
12,94%

47
23,38%

128
63,68%

3

10A3

39

4

10A4

42

5

10A5
Tổng

Trong q trình tơi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm có các đồng chí cùng

chun mơn và các đồng chí trong tổ khoa học xã hội theo dõi dự giờ, đánh giá
kết quả bộ mơn. Các đồng chí đều có ý kiến đánh giá cao về hiệu quả sáng kiến
kinh nghiệm và khả năng áp dụng phổ biến SKKN của tôi ở tất cả các khối lớp
+ Học sinh tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ nhanh và hiệu quả.
+ Học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tự nghiên cứu, tìm
tịi kiến thức.
+ Học sinh tự trình bày và đưa ra các quan điểm của bản thân, từ đó giúp
các em mạnh dạn hơn trong học tập và trong cuộc sống.
+ Đặc biệt khả năng tư duy của học sinh tiến bộ rõ rệt. Nhạy bén trong việc
xử lí các tình huống mà giáo viến đặt ra.
+ Khơng khí học tập nghiêm túc, hứng khởi, hăng hái phát biểu, kiểm tra
nghiêm túc đạt được kết quả cao. Không chán nản khi học tập bộ môn.
+ Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
Đây là một bước cần thiết, không thể thiếu để GV giảng dạy trực tiếp hiểu
được những hạn chế của việc khai thác, sử dụng tài liệu văn hóa, lịch sử địa
phương, để điều chỉnh kịp thời, dạy tiết sau đạt hiệu quả cao hơn.
5. Những người tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu: khơng có
6. Các thơng tin cần được bảo mật: khơng có
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Điều kiện đầu tiên là cả giáo viên và học sinh đều phải cố gắng, nỗ lực.
Giáo viên phải ln tìm tịi, học hỏi, trau dồi vốn kiến thức của mình để giúp học
sinh luyện tập và tìm ra cho mình phương pháp học tập tốt nhất, phù hợp với bản
thân các em. Từ đó các em sẽ ham học và thích học để nâng cao kiến thức cho
bản thân. Để thực hiện được đề tài thì cần có sự phối hợp giữa giáo viên và học
sinh. Nếu học sinh không phối hợp với giáo viên thì sẽ khơng thu được kết quả


23
như mong đợi. Bên cạnh đó cũng cần có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường
trong việc động viên, khuyến khích các em học tập ở trường cũng như ở nhà.

Thứ hai là cần tiếp tục nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, phát
triển và hoàn thiện các giải pháp đã nêu.Trên cơ sở các bài học đã được xây dựng,
nhóm chun mơn phân cơng giáo viên thực hiện bài học để dự giờ, phân tích và
rút kinh nghiệm về giờ dạy. Khi dự giờ, cần tập trung quan sát hoạt động học của
học sinh thông qua việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ học tập.
Thứ ba là giáo viên giảng dạy cần dạy đạt chuẩn nghề nghiệp giáo viên
trung học phổ thông theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và
Đào tạo ngày 22/10/2009 có đam mê nghề nghiệp, quyết tâm đổi mới phương
pháp, có trình độ sư phạm, kỹ năng khai thác, sử dụng tài liêu văn hóa, lịch sử địa
phương vào thiết kế các hoạt động nhận thức lịch sử cho học sinh. Giáo viên cần
khai thác , sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo ở từng khâu của quá trình dạy
học; sự hợp tác hiệu quả từ phía học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển
của giáo viên;
Sáng kiến đã được áp dụng và dạy thực nghiệm có hiệu quả ở trường trung
học phổ thơng Trần Phú huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, đây là trường trung học
phổ thơng đóng tại địa bàn huyện miền núi, có điều kiện cơ sở vật chất đủ yêu cầu
cơ bản, chất lượng đầu vào chưa cao, nên có thể áp dụng với tất cả các trường
THPT trên địa bàn huyện Văn Yên và tỉnh Yên Bái đều phù họp.
8. Tài liệu gửi kèm :
PHỤ LỤC 1: PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC NGHIỆM
(Các em hãy điền hoặc tích( ) vào các câu sau)
Câu 1: Em hãy nêu một số đặc trưng về tỉnh Yên Bái?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………...........................
Câu 2: Em hãy nêu một số Lễ hội truyền thống được tổ chức trên địa bàn tỉnh
Yên Bái.
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………..
Câu 3 Đền Đông Cuông được công nhận là di tích lịch cấp quốc gia vào năm
nào?
2000

2006

2009


24
Câu 4: Em có biết Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc nào ? Lễ hội có ý nghĩa gì?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………..
Câu 5: Theo em thế hệ trẻ hiện nay cần làm gì để giữ gìn, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Câu 6: Đâu là nhạc cụ đặc trưng của nghệ thuật Hát Then, hồn cốt của người
Tày?

Câu 7: Trang phục biểu diễn của hát Then?

Câu 9: Em có thích nghe hát Then khơng?




Khơng

Câu 9: Đầu năm Trâu trắng, cuối năm Trâu đen là nghi thức tế lễ trong hội
đền nào?
Đền Nhược sơn
Đền Trạng
Đền Đông Cuông
Câu 10: Kể tên một số trò choi dân gian được tổ chức trong các lễ hội truyền
thống mà em biết?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Cảm ơn các em đã hoàn thành phiếu này


×