1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ THƠ
HÌNH THÀNH KỸ NĂNG KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU
TRÊN INTERNET CHO HỌC SINH TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(VẬN DỤNG QUA PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ ĐẠI VÀ TRUNG
ĐẠI LỚP 10, CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THANH TÚ
HÀ NỘI – 2012
2
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNTT : Công nghệ thông tin
DHLS : Dạy học lịch sử
ĐHQG : Đại học Quốc gia
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
KN : Kỹ năng
KTĐG : Kiểm tra đánh giá
LS : Lịch sử
LSTG : Lịch sử thế giới
LSVN : Lịch sử Việt Nam
PKĐL : Phát kiến địa lý
PPDH : Phương pháp dạy học
SGK : Sách giáo khoa
TLTK : Tài liệu tham khảo
THPT : Trung học phổ thông
3
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 1.1. Mức độ GV hướng dẫn HS khai thác và sử dụng tài
liệu trên internet vào học tập môn Lịch sử
38
Biểu đồ 1. 2: Tần suất khai thác thông tin trên mạng internet của HS
40
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ so sánh kết quả điểm kiểm tra của lớp TN và ĐC
80
4
M ỤC L ỤC
Trang
Lời cảm ơn
i
Danh mục viết tắt
ii
Danh mục bảng
iii
Danh mục biểu đồ
iv
Mục lục
v
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
HÌNH THÀNH KỸ NĂNG KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TÀI
LIỆU TRÊN INTERNET CHO HỌC SINH TRONG HỌC TẬP
MÔN LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
10
1.1. Cơ sở lý luận
10
1.1.1. Quan niệm về kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên
internet trong học tập lịch sử
10
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc hình thành kỹ năng khai thác và sử
dụng tài liệu trên internet trong học tập lịch sử
25
1.1.3. Một số yêu cầu trong việc hình thành kỹ năng khai thác và sử
dụng tài liệu trên internet trong học tập môn Lịch sử của học sinh
30
1.2. Cơ sở thực tiễn
33
1.2.1. Thực trạng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet trong học
tập lịch sử ở trường THPT
33
1.2.2. Những nguyên nhân ảnh hưởng tới việc khai thác và sử dụng
tài liệu trên internet trong học tập môn Lịch sử ở trường THPT
5
41
Tiểu kết chương 1
44
Chƣơng 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH KỸ NĂNG
KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU TRÊN INTERNET
TRONG HỌC TẬP PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ ĐẠI VÀ
TRUNG ĐẠI (LỚP 10) Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
45
2.1. Vị trí, mục tiêu và nội dung cơ bản của phần Lịch sử thế giới cổ
đại và trung đại lớp 10
45
2.1.1. Cấu trúc, vị trí của chương trình
45
2.1.2. Mục tiêu
46
2.1.3. Nội dung kiến thức phần Lịch sử thế giới cổ đại và trung đại
lớp 10
47
2.2. Xác định và lựa chọn những nội dung cần và có thể khai thác
trên internet trong học tập phần Lịch sử thế giới cổ đại và trung đại
54
2.3. Một số biện pháp nhằm hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng
tài liệu trên internet trong học tập lịch sử
62
2.3.1. Hình thành kỹ năng sử dụng các công cụ tìm kiếm
62
2.3.2. Hình thành kỹ năng thu thập, chọn lọc và sắp xếp tài liệu liên
quan đến bài học
64
2.3.3. Hình thành kỹ năng sử dụng tài liệu trong trao đổi, thảo luận
nhóm
67
2.3.4. Hình thành kỹ năng sử dụng tài liệu trên internet kết hợp với
sách giáo khoa và các tài liệu khác
6
70
2.4. Thực nghiệm sư phạm
73
2.4.1. Mục đích thực nghiệm
73
2.4.2. Đối tượng thực nghiệm
74
2.4.3. Nội dung thực nghiệm
74
2.4.4. Phương pháp thực nghiệm
75
2.4.5. Kết quả thực nghiệm
75
Tiểu kết chương 2
81
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
84
PHỤ LỤC
88
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, việc ứng dụng CNTT để đổi mới phương pháp dạy học
được áp dụng rộng rãi và đưa lại hiệu quả thiết thực. Tổ chức UNESCO đã dự
đoán việc tác động của CNTT sẽ làm thay đổi một cách căn bản nền giáo dục
thế giới trong những năm đầu của thế kỉ XXI. Trong xu thế phát triển và hội
nhập những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề ứng
dụng CNTT trong đổi mới giáo dục. Chỉ thị Số 58- CT/TW ngày 17/10/2000
của Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định:
“Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác Giáo dục và Đào tạo ở các cấp
học, bậc học, ngành học… phát triển mạng máy tính phục vụ cho Giáo dục và
Đào tạo, kết nối internet với tất cả các sở Giáo dục và Đào tạo”. Triển khai
quan điểm chỉ đạo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhấn mạnh “Đối với Giáo
dục và Đào tạo, CNTT có tác dụng mạnh mẽ làm thay đổi nội dung, phương
pháp, phương thức dạy học. CNTT là phương tiện để xây dựng một xã hội
học tập. Mặt khác, Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc
đẩy sự phát triển CNTT qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT”. Hoạch
định chiến lược phát triển Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2001-2010 Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã yêu cầu ngành giáo dục phải từng bước phát triển dựa trên
CNTT, “… Vì CNTT đa phương tiện sẽ tạo ra sự thay đổi to lớn trong quản lý
hệ thống giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc
đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học” [15, tr.22-23].
Gần đây, nhiều trường phổ thông ở nước ta đã đưa CNTT vào giảng
dạy với tư cách là một môn học (Tin học), ngoài ra còn được ứng dụng trong
việc dạy học các môn khác như là một phương tiện hỗ trợ đắc lực nhằm góp
phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học, tạo nên không khí
tích cực, gây hứng thú cho giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, do kỹ năng
nghiệp vụ sư phạm cũng như nhận thức và năng lực về CNTT của nhiều giáo
viên lịch sử ở phổ thông, cùng một số cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế nên
8
việc sử dụng công nghệ mới này vào việc đổi mới phương pháp dạy học lịch
sử chưa đem lại hiệu quả cao. Giáo viên và học sinh có thể dễ dàng vào hệ
thống mạng để tìm kiếm những thông tin tư liệu cần thiết từ những trang web
có nội dung Lịch sử (dùng công cụ tìm kiếm google, yahoo…) phục vụ cho
việc tham khảo hay tải tài liệu về sử dụng. Ngoài ra qua công cụ này, giáo
viên và học sinh có thể dễ dàng chia sẻ các dạng thông tin tư liệu (văn bản,
hình ảnh, âm thanh, phim tư liệu lịch sử…) hay tham gia trao đổi, thảo luận
những vấn đề về chuyên môn qua diễn đàn giáo dục điện tử (như
) hoặc qua thư điện tử… vào bất kỳ lúc nào, ở đâu.
Thực tiễn ở trường phổ thông hiện nay, hầu hết học sinh ít có hứng thú
với môn Lịch sử, việc khai thác và sử dụng tài liệu trên internet hiện nay còn
khó khăn, nhiều giáo viên và học sinh không biết sử dụng máy tính và thiếu
kỹ năng trong khai thác và sử dụng tài liệu trên internet. Hạn chế rõ nét nhất
là những biểu hiện lạm dụng về những thông tin được khai thác trên internet,
giáo viên lệ thuộc và không đảm bảo các mối tương tác cần thiết khác giữa
giáo viên-học sinh; học sinh-học sinh, trong trao đổi, đàm thoại, dạy học nêu
vấn đề… Việc khai thác không hợp lí thông tin trên internet và các khả năng
liên kết đã làm hạn chế đáng kể hiệu quả dạy học, thậm chí phản tác dụng.
Mặt khác, nhiều giáo viên thiếu chọn lọc, đưa quá nhiều thông tin vào bài
giảng mà không chú ý thể hiện rõ kiến thức trọng tâm cũng như tính hệ thống
của kết cấu nội dung bài giảng, làm cho nhận thức lịch sử của học sinh bị tản
mạn, ít sâu sắc và không bền vững, mặc dù về nhất thời có thể tạo nên sự
hứng thú. Một số bài giảng, tuy kênh hình được đưa vào sử dụng rất phong
phú nhưng chủ yếu chỉ để trình diễn, minh họa lịch sử mà chưa được khai
thác như một nguồn thông tin hay làm cơ sở để trao đổi thảo luận. Kho thông
tin tư liệu trên hàng tỷ trang web của internet phản ánh về nhiều lĩnh vực của
xã hội và được trình bày dưới nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, trong
quá trình khai thác, một bộ phận giáo viên và học sinh chưa thực sự lưu tâm
đến việc đối chiếu, phê phán chọn lọc những thông tin cần thiết nhằm đảm
9
bảo độ tin cậy của tư liệu được sử dụng về mặt khoa học cũng như về tính tư
tưởng. Vì vậy, việc hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng nguồn tài liệu
trên internet cho HS sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm
gây hứng thú học tập cho học sinh trong điều kiện hiện nay.
Xuất phát từ những lý do chủ yếu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Hình
thành kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet cho học sinh trong
học tập lịch sử ở trường trung học phổ thông (Vận dụng qua phần Lịch sử thế
giới cổ đại và trung đại lớp 10, chương trình chuẩn)” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
Đến cuối thế kỷ XX, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật tạo ra một cuộc
cách mạng công nghệ trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, khoa học và xã hội.
Các nước có nền giáo dục phát triển như: Australia, Canada, Nhật Bản, Hàn
Quốc… đều chú trọng đến ứng dụng khoa học công nghệ vào giáo dục. Họ
coi đây là vấn đề then chốt của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, là chìa
khóa để xây dựng và phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để
xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, hội nhập với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu về ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học nói chung, về việc sử dụng mạng internet trong
các hoạt động dạy học nói riêng. Các nghiên cứu này chủ yếu đề cập tới việc
vận dụng công nghệ thông tin để xây dựng các chương trình, phần mềm dạy
học, để tổ chức các hình thức học tập điện tử E-Learning.
Về vai trò của internet, Lori A.Perine-Phó Giám đốc phòng chính sách
Khoa học và Công nghệ Nhà Trắng (Hoa Kỳ) đã viết “Mạng internet là một
nền móng đang mở rộng chưa từng thấy cho nghiên cứu toàn cầu”. Ông đã
khẳng định tính “Toàn cầu hóa” thông qua internet, đó là sự cộng tác của
nhiều người khác nhau trên các châu lục thông qua sử dụng internet: sự
10
cộng tác giữa sinh viên với nhà khoa học, giữa nhà khoa học với nhà khoa
học, giữa cư dân với cư dân, giữa chuyên gia y tế với người chủ trì chữa
trị… [28, tr.8].
Somkiat Tangkitvanich Deunden Nikomborirak Viện nghiên cứu phát
triển Thái Lan (TDRI) cho rằng “mạng internet là một công cụ tăng cường vốn
xã hội”. Ông khẳng định vốn xã hội ở các trường học sẽ có hiệu quả hơn khi các
phụ huynh học sinh và công dân địa phương có sự tham gia tích cực [28, tr.9].
Về vấn đề hình thành kỹ năng, trong “Tài liệu chương trình tập huấn
đào tạo giảng viên”, tập 1 thuộc Dự án đào tạo Việt Nam- Australia (2002) đề
cập đến các giai đoạn trong việc học một kỹ năng gồm: giai đoạn nhận thức
kiến thức và thông tin về kỹ năng; giai đoạn thực hiện theo mẫu; giai đoạn tự
thực hiện. Các giai đoạn này đan xen và chuyển động theo một quá trình liên
tục [7. tr.27-28]. Trong việc học kỹ năng, sự tiếp nối, thực hành và phản hồi là
quan trọng. Trong đó, sự tiếp nối là thực thi những nhiệm vụ của kỹ năng gần
với thành công khi một nhiệm vụ trước đó đóng vai trò như một tác nhân kích
thích cho nhiệm vụ tiếp theo. Thực hành là cách để phát triển kỹ năng đến
giai đoạn tự chủ của việc học tập. Ý kiến phản hồi của GV hoặc HS giúp cho
việc chỉnh sửa các sai sót trong quá trình thực hiện [7. tr.30].
2.2. Tài liệu trong nước
Cùng với xu hướng chung trên thế giới, ở nước ta internet đã trở thành
phương tiện hỗ trợ dạy học đạt hiệu quả cao trong hầu hết các môn học. Như
chúng ta đã biết, internet là công cụ lưu trữ và tìm kiếm thông tin mạnh mẽ,
hiệu quả trong thời đại nền kinh tế tri thức. Ngày nay internet không chỉ là
thông tin với cách tiếp cận, tiếp nhận trên các trang web với hàng ngàn tư
liệu, mà còn được hiểu với cách tiếp cận theo hướng tương tác, đa dạng và
bóc tách được thông tin
Trong cuốn “Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử”
(PGS.TS Nguyễn Thị Côi chủ biên) đã đề cập tới vấn đề sử dụng internet
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trong đó nói rõ chức năng của
11
mạng internet trên tất cả các lĩnh vực của đời sống ngày nay và trong dạy học,
việc giáo viên và học sinh được trang bị những kỹ năng cơ bản để tìm kiếm,
khai thác, gửi và nhận thông tin qua internet là rất cần thiết.
Trong cuốn “Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở” (PGS.TS Trịnh Đình Tùng chủ biên) đã nói rõ vai trò, ý nghĩa của
việc sử dụng tài liệu khai thác trên mạng internet trong dạy học lịch sử.
Tập bài giảng môn “Chương trình, phương pháp dạy học lịch sử”,
Khoa Sư phạm-trường Đại học Giáo dục-Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa
ra phương pháp sử dụng tài liệu trên mạng internet. Tích hợp nguồn tài
liệu trên mạng internet vào dạy học sẽ làm cho nội dung bài giảng thêm
phong phú, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Trong bài viết “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học ở Đại học, Cao
đẳng trong thời đại bùng nổ thông tin”, PGS.TS. Nghiêm Đình Vỳ (Ban khoa
giáo TW), cũng nhấn mạnh vai trò của internet trong thời đại ngày nay và
khẳng định: “Cần tận dụng nó để đổi mới phương pháp dạy học, làm sao để
cho sinh viên được học tập suốt đời” [36].
Tác giả Phan Trọng Luận (Đại học Sư phạm Hà Nội), trong bài viết
“Hai chìa khóa vàng cho cuộc cách mạng học tập thế kỷ XXI” đăng trên tạp
chí Dạy và Học ngày nay số 1-2002, đã khẳng định “muốn phát triển giáo dục
không thể không sớm áp dụng công nghệ thông tin. Nước nào đi đầu trong
ứng dụng công nghệ thông tin, nước đó sẽ đi đầu về giáo dục”.
Cũng nghiên cứu về sử dụng internet, trong báo cáo tổng kết đề tài
nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp trường “Khai thác Microsoft excel,
powerpoint và công cụ tìm kiếm thông tin trên mạng internet trong dạy học
môn địa lý ở trường phổ thông” (2010), ThS.Trần Thị Thanh Thủy đã đưa ra
một số điểm lưu ý khi khai thác thông tin trên mạng internet.
Đề tài cấp trường của ThS.Nguyễn Thị Thanh Hồng “Hình thành kỹ
năng khai thác thông tin mạng internet để dạy học môn giáo dục học” (2010)
12
đã khẳng định vai trò của việc khai thác và vận dụng thông tin trên mạng
internet trong học tập của sinh viên.
Ngoài ra, liên quan đến nội dung này chúng ta có thể kể đến luận án tiến
sỹ “Bộ công cụ tìm kiếm trên mạng” của tác giả Bùi Thị Minh Tuyết-khoa công
nghệ thông tin trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tác giả đã đưa ra hệ thống các
công cụ hỗ trợ cho việc tìm kiếm và đưa thông tin lên mạng internet.
Luận văn Thạc sỹ-Trường Đại học Sư phạm Hà Nội của Đoàn Thị Kiều
Oanh (2003) “Sử dụng tài liệu khai thác trên mạng internet để dạy học lịch sử
ở trường THPT” đã phân tích được vai trò của tài liệu trên internet và đưa ra
các cách thức sử dụng tài liệu trên internet trong các hoạt động dạy học lịch
sử. Nhưng tác giả chưa đưa ra được hệ thống các kỹ năng để học sinh có thể
khai thác tài liệu trên internet hiệu quả.
Với những kết quả nghiên cứu trên, dù mục đích nghiên cứu khác nhau
ở những lĩnh vực khác nhau nhưng hầu hết các tác giả đều khẳng định tầm
quan trọng của internet và sự cần thiết phải sử dụng nó. Đó là những gợi ý về
mặt lý luận rất quý báu cho chúng tôi nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình hướng dẫn học sinh hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng
nguồn tài liệu trên internet trong học tập Lịch sử nói chung và học tập phần
Lịch sử thế giới cổ đại và trung đại nói riêng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu việc hình thành kỹ năng khai
thác và sử dụng tài liệu trên internet cho học sinh trong học tập phần Lịch sử
thế giới cổ đại và trung đại (lớp 10).
Về hình thức tổ chức dạy học: tập trung vào bài học nội khóa.
Về phạm vi điều tra, khảo sát thực trạng và thực nghiệm: tiến hành
tại 3 trường THPT ở Vĩnh Phúc: THPT Trần Nguyên Hãn, THPT Triệu
Thái, THPT Ngô Gia Tự.
13
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc khai thác và sử dụng tài
liệu trên internet, đề tài lựa chọn nội dung và đề xuất một hệ thống các kỹ
năng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet trong học tập lịch sử và những
biện pháp hướng dẫn hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên
internet cho học sinh trong học tập Lịch sử nói chung và học tập phần Lịch sử
thế giới cổ đại và trung đại lớp 10 nói riêng ở trường THPT.
4.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng
tài liệu trong dạy học lịch sử nói chung từ đó đề xuất những kỹ năng khai thác
và sử dụng tài liệu trên internet.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng dạy học LS nói chung, thực trạng khai
thác và sử dụng tài liệu trên internet trong môn LS nói riêng.
- Nghiên cứu nội dung phần Lịch sử thế giới cổ đại và trung đại, xác
định các nội dung có thể khai thác trên internet, từ đó đề xuất các biện pháp
hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet.
- Thực nghiệm và đánh giá tính hiệu quả, khả thi của việc hình thành
kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet cho học sinh trong học tập
môn Lịch sử theo hướng dạy học tích cực.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta về lịch sử, giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí thuyết: đọc và phân tích, tổng hợp tài liệu sách báo, tạp
chí, internet… về tâm lý học, giáo dục học, phương pháp dạy học LS; phân
tích nội dung chương trình, SGK lớp 10.
14
- Nghiên cứu thực tiễn: quan sát, dự giờ, trao đổi với giáo viên, học
sinh, điều tra xã hội học để đánh giá về thực trạng khai thác và sử dụng tài
liệu trên internet trong dạy học Lịch sử ở trường THPT; Thực nghiệm SP
nhằm kiểm tra, đối chứng kết quả nghiên cứu của luận văn.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu như giáo viên vận dụng các biện pháp hình thành kỹ năng khai
thác và sử dụng nguồn tài liệu trên internet cho học sinh theo như yêu cầu và
đề xuất trong luận văn sẽ nâng cao hiệu quả học tập lịch sử nói chung, học tập
phần Lịch sử thế giới cổ đại và trung đại (lớp 10) ở trường THPT nói riêng,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay.
7. Đó ng gó p củ a đề tà i
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần:
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của việc khai thác và sử dụng
tài liệu trên internet trong dạy học Lịch sử ở trường THPT.
- Đánh giá được thực trạng dạy học LS nói chung, thực trạng khai thác
và sử dụng tài liệu trên internet trong môn LS nói riêng.
- Đề xuất một hệ thống các kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên
internet và các biện pháp hướng dẫn hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng
tài liệu trên internet theo hướng dạy học tích cực.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: làm phong phú thêm lí luận PPDHLS nói chung và
vấn đề khai thác và sử dụng tài liệu trên internet trong dạy học lịch sử ở
trường THPT nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các
trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, Đại học Giáo dục; GV môn LS và bản
thân tác giả luận văn vận dụng trong quá trình DHLS ở trường THPT.
15
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu; kết luận và khuyến nghị; danh mục tài liệu tham
khảo; phụ lục, luận văn được trình bày trong 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành kỹ năng khai
thác và sử dụng tài liệu trên internet cho học sinh trong học tập môn Lịch sử
ở trường Trung học phổ thông
Chương 2: Một số biện pháp hình thành kỹ năng khai thác và sử dụng
tài liệu trên internet trong học tập phần Lịch sử thế giới cổ đại và trung đại
(lớp 10) ở trường Trung học phổ thông
16
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH
KỸ NĂNG KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU TRÊN INTERNET
CHO HỌC SINH TRONG HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet
trong học tập lịch sử
1.1.1.1 .Khái niệm kỹ năng, kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet
Kỹ năng là một vấn đề được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu. Có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng, tùy thuộc vào
cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
Ph.N Gônôbôlin cho rằng: “Kỹ năng là phương thức tương đối hoàn
chỉnh của việc thực hiện những hành động bất kỳ nào đó. Các hành động này
được hoàn thành trên cơ sở của các tri thức, kỹ năng và kỹ xảo- những cái
con người được lĩnh hội trong quá trình hành động” [27, tr.14].
N.D. Levitôv cho rằng: “Kỹ năng là khả năng con người thực hiện một
hành động bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm-
những cái đã được lĩnh hội từ trước” [27, tr.14]. Theo A.P Ênipôp trong giáo
trình “Những cơ sở lý luận của dạy học” cho rằng: kỹ năng chính là khả năng
con người biết sử dụng một cách có mục đích, sáng tạo những tri thức và kỹ
xảo của mình trong quá trình hoạt động thực tiễn [10].
Theo A.V. Petrovski: “Kỹ năng là cách thức hành động dựa trên cơ sở
tri thức và được hình thành thông qua luyện tập, tập khả năng cho con người
phản ứng được không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà cả trong điều kiện
mới phát sinh”[11].
Theo từ điển tiếng Việt thì kỹ năng là “Khả năng vận dụng những kiến
thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [34, tr.56].
17
Theo gốc Hán-Việt thì “kỹ” là sự khéo léo, “năng” là có thể. “Kỹ
năng là khả năng vận dụng những tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực
nào đó vào thực tiễn. Kỹ năng đạt tới mức hết sức thành thạo, khéo léo thì
trở thành kỹ xảo” [11, tr.18].
GS.TS. Nguyễn Thị Côi cho rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả
một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh
nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép” [4, tr.14].
Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt thì xác định: kỹ năng là cách
thức hành động dựa trên cơ sở tổ hợp những tri thức và kỹ xảo. Kỹ năng
được hình thành bằng con đường luyện tập tạo kỹ năng cho con người
thực hiện hành động không chỉ trong những điều kiện quen thuộc mà cả
trong những điều kiện đã thay đổi [25, tr.19].
Như vậy có thể thấy những quan niệm về kỹ năng là rất đa dạng, nhưng
thực chất các quan niệm này không mâu thuẫn nhau. Có chăng, sự khác nhau
ở đây là do việc mở rộng hay thu hẹp thành phần cấu trúc của kỹ năng. Chúng
tôi khái quát lại như sau:
- Về mặt cấu trúc: kỹ năng gồm tri thức về hành động và các hành động
cụ thể; kỹ năng có tính phức hợp, gồm nhiều hoạt động, kỹ năng nhỏ (tức là
có tính chất thứ sinh)
- Về mặt kết quả: kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một hoạt động
nhất định.
- Về nguồn gốc: kỹ năng có được thông qua trải nghiệm, huấn luyện,
đào tạo.
- Về tính phát triển: kỹ năng có các mức độ phát triển khác nhau, từ
thấp đến cao và mức hoàn thiện là kỹ xảo; từ mức kỹ thuật hành động đến
mức trở thành phẩm chất, năng lực con người tức trở thành một loại phẩm
chất nhân cách; từ tạm thời đến bền vững; mang tính khu trú trong một phạm
vi hoạt động đến linh hoạt chuyển hóa sang các lĩnh vực khác nhau.
18
Từ các quan niệm trên có thể hiểu: kỹ năng là khả năng của chủ thể
có thể có được qua đào tạo, rèn luyện để thực hiện một cách linh hoạt các
hoạt động với kết quả tốt.
Việc hình thành bất cứ kỹ năng nào cũng cần được thực hiện theo một
quy trình nhất định. Quy trình là một tập hợp các giai đoạn, các bước, các
thao tác và hành vi được sắp xếp theo một trình tự hợp lý để tác động đến đối
tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể dự kiến. Quy trình
hình thành kỹ năng cũng đã được nghiên cứu nhiều và cũng rất đa dạng, khác
nhau qua từng loại nhóm kỹ năng. Trong dạy học Lịch sử hiện nay, ngoài
những nguồn tài liệu in như: SGK, sách tham khảo… thì từ những sản phẩm
của CNTT, GV có thể hướng dẫn HS tiếp cận một lượng thông tin phong phú,
đa dạng, sinh động và trực quan về sự kiện lịch sử. Cách tiếp cận như vậy sẽ
là cầu nối lý tưởng giữa nhận thức của HS với hiện thực Lịch sử khách quan,
đồng thời củng cố cho các em nhận thức đúng đắn: Lịch sử là có thật, là cụ
thể và từ đó tạo biểu tượng lịch sử một cách rõ nét. Đây là khâu có ý nghĩa rất
quan trọng trong quá trình dạy học, là cơ sở giúp HS hình thành khái niệm và
hiểu sâu sắc bản chất của Lịch sử. Việc hướng dẫn HS hình thành được các kỹ
năng khai thác và sử dụng tài liệu trên internet sẽ giúp GV tiết kiệm được thời
gian trình bày bảng đen cũng như thao tác sử dụng đồ dùng trực quan truyền
thống, do đó GV sẽ có nhiều thời gian hơn để tổ chức dạy học nêu vấn đề,
trao đổi thảo luận, hoạt động nhóm, kiểm tra đánh giá, thực hành…nhằm phát
huy tối đa tính tích cực, chủ động, tư duy, sáng tạo của HS.
Từ đó, có thể khẳng định: kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên
internet là khả năng tìm kiếm, chọn lọc thông tin, tư liệu từ các trang web
và thực hiện các hoạt động học tập để đạt được mục tiêu đề ra.
Để hình thành một kỹ năng, GV phải hướng dẫn HS trải qua các giai
đoạn sau:
- Giai đoạn 1: GV giúp HS nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức
và điều kiện hành động, đồng thời phải nắm vững các bước của kỹ năng.
19
- Giai đoạn 2: Là giai đoạn GV làm mẫu bằng các ví dụ minh họa cụ
thể qua các tiết học, bài học, HS sẽ “quan sát mẫu” và “làm thử theo mẫu”.
Công việc này sẽ giúp các em thấy được khả năng vận dụng tri thức vào hoạt
động thực tiễn, xem hành động có những ưu và nhược điểm gì cần sửa chữa
và củng cố tri thức đã biết. Ở giai đoạn này, việc thử làm ngắn hay dài tùy
theo năng lực của mỗi HS.
- Giai đoạn 3: Sau khi đã làm thử để biết cách làm, người học phải
tiến hành luyện tập, luyện tập nhiều lần. Ở giai đoạn này, các thao tác, các
bước thực hiện hành động dần dần được hoàn chỉnh hơn. Đồng thời các tri
thức và cách thức hành động được ôn luyện làm cho người học nắm chắc
hành động hơn. Đến đây có thể nói kỹ năng đã được hình thành, song chưa
hoàn toàn ổn định. Kỹ năng thực sự ổn định khi trong điều kiện khác con
người hành động vẫn đạt kết quả.
- Giai đoạn 4: GV phải kiểm tra và điều chỉnh việc thực hiện kỹ năng
của HS. Việc kiểm tra giúp GV có thể nắm bắt được khả năng lĩnh hội kiến
thức và hình thành kỹ năng của HS. Qua đó, GV có thể điều chỉnh các bước
hình thành kỹ năng cho phù hợp với từng đối tượng HS, có thể tăng thời
lượng của bước “làm mẫu” hoặc bước luyện tập.
1.1.1.2. Hệ thống kỹ năng khai thác và sử dụng nguồn tài liệu trên internet
cần hình thành cho học sinh
Với một khả năng kết nối mở, internet đã trở thành một mạng lớn nhất
trên thế giới, mạng của các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội: thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu, giáo dục, khoa học, văn
hóa, xã hội… Do khối lượng thông tin khổng lồ trên internet nên tất cả các
loại tài liệu đều có thể tìm thấy trên internet ở dạng văn bản, hoặc hình ảnh,
âm thanh, phim… Ngoài ra, chúng ta có thể tìm thấy trên internet hàng trăm
ngàn các website về các nhân vật lịch sử, các cuộc chiến tranh vĩ đại, những
trận đánh nổi tiếng, những thông tin khác liên quan đến lịch sử như kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học- kĩ thuật… từ thời cổ đại đến đương đại và những
20
sự kiện khác đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ ở Việt Nam cũng như trên thế
giới. Những văn kiện, tài liệu có liên quan trực tiếp đến sự kiện, thời điểm ra
đời, nơi xảy ra các sự kiện, các văn tự cổ, các hiệp ước, tuyên ngôn… đều có
thể tìm thấy trên internet. Tóm lại, tất cả các loại tài liệu tham khảo sử dụng
trong học tập lịch sử (trên lớp hay ngoài giờ), đều có thể khai thác trên
internet. Tuy nhiên với một khối lượng thông tin đồ sộ như vậy, giáo viên
phải hình thành cho HS một số kỹ năng để khai thác và sử dụng tài liệu trên
internet hợp lý.
Hệ thống kỹ năng khai thác và sử dụng nguồn tài liệu trên internet cần
hình thành cho HS trong học tập môn Lịch sử được xác định dựa trên hệ
thống các thao tác cần thực hiện khi khai thác tài liệu (tìm kiếm, chọn lọc, lưu
giữ thông tin), khi sử dụng trong các hoạt động học tập (trao đổi, thảo luận)
phù hợp với đặc trưng môn học và yêu cầu của việc học tập Lịch sử. Vì vậy,
để khai thác và sử dụng tài liệu trên internet hiệu quả, GV cần hình thành cho
HS một số kỹ năng sau:
Kỹ năng sử dụng các công cụ tìm kiếm
+ Xác định các vấn đề có liên quan đến nội dung tìm kiếm
Đây là thao tác quan trọng nhất khởi đầu cho việc tìm kiếm thông tin
trên mạng internet. Khi bắt đầu quá trình tìm kiếm chúng ta phải suy nghĩ đến
những vấn đề sau:
- Xác định những từ liên quan đến nội dung tìm kiếm, đó là những từ
hoặc cụm từ đồng nghĩa, nhưng bị loại ra và những từ đó có liên quan
Ví dụ: khi xác định nội dung tìm kiếm có liên quan đến vấn đề “điểm
môn sử thấp”, ta có thể xác định thêm cụm từ có liên quan là “nguyên nhân
của sự yếu kém môn Lịch sử”.
- Xác định phạm vi tìm kiếm về ngôn ngữ (tiếng Anh hay tiếng Việt),
dạng dữ liệu (các trang web, hình ảnh, âm thanh, video…), thời gian.
+ Xác định từ khóa
Sau khi xác định những vấn đề liên quan ở bước 1, bước này tạo tiền đề
cơ bản cho bước xác định từ khóa. Từ khóa là một từ hay cụm từ được khái
21
quát hóa từ tài liệu muốn tìm kiếm. Từ khóa có thể phản ánh một phần hay
toàn bộ nội dung của tài liệu muốn tìm.
Trong cụm từ khóa, chúng ta phải lọc bỏ những từ phụ như liên từ, giới
từ, mạo từ (ví dụ: và, trong, của… trong tiếng Việt hoặc a, an, the, of… trong
tiếng Anh), các từ khóa phải là những từ đơn nghĩa, tránh dùng những từ đa
nghĩa (ví dụ: “Điện Biên Phủ”), chúng ta cũng có thể cho vào từ khóa những
từ đồng nghĩa hoặc những từ có liên quan (ví dụ: văn minh sông Hồng và văn
minh Đông Sơn) .Từ khóa cần phải viết đúng chính tả và ngữ pháp.
+ Sử dụng các thuật toán khi tìm kiếm thông tin
Khi đã xác định được từ (cụm từ) khóa, chúng ta nên sử dụng các thuật
toán tìm kiếm và kết hợp nhiều từ khóa khác nhau để có thể tìm thấy nội dung
cần tìm kiếm một cách chính xác và nhanh chóng nhất. Sau đây là một số
thuật toán thông dụng được sử dung trong tìm kiếm
Dấu ngoặc kép (“…”): khi cho 1 cụm từ khóa vào trong ngoặc kép thì
các kết quả tìm thấy sẽ chứa cụm từ đã bỏ vào trong ngoặc kép (ví dụ: “phát
kiến địa lý”)
Dấu cộng (+): khi dùng dấu cộng giữa các từ hay cụm từ chìa khoá,
điều đó có nghĩa là kết quả tìm kiếm sẽ xuất hiện tất cả những từ nằm cạnh
dấu cộng (ví dụ: “phương tây” + “Hi lạp và Rô ma”)
Dấu trừ (-): Khi sử dụng dấu trừ giữa những từ hay cụm từ khóa, kết
quả tìm kiếm sẽ loại bỏ những trang có chứa những từ (cụm từ) nằm cạnh dấu
trừ (“Đông Nam Á”- “điều kiện hình thành”)
+ Sử dụng logic Boolean khi tìm kiếm thông tin
Lưu ý khi sử dụng logic Boolean thì các toán tử phải được viết bằng
chữ hoa. Sau đây xin giới thiệu một số toán tử Boolean thông dụng
Phép OR: Cho phép tìm kiếm những trang web có mặt 1 trong 2 thành
tố toán tử của phép OR (ví dụ: “thị quốc” OR “thi quoc”).
Phép AND: Cho phép tìm kiếm những trang web có hiện diện tất cả
những thành tố của phép AND (ví dụ: “các quốc gia cổ đại phương Đông”
22
AND “ các quốc gia cổ đại phương Tây”). Nếu như trang web cung cấp dịch
vụ tìm kiếm đang dùng không có chức năng Boolean thì có thể thay thế phép
AND bằng cách sử dụng dấu cộng (+).
Phép NOT: Cho phép tìm kiếm những trang không có sự có mặt các từ
(cụm từ) khóa đi cùng với phép toán tử NOT (ví dụ: “xã hội cổ đại” NOT
“phương Tây”). Nếu như trang web cung cấp dịch vụ tìm kiếm không có chức
năng Boolean thì có thể thay thế phép NOT bằng cách sử dụng dấu trừ (-).
Phép NEAR: Cho phép tìm những trang web có chứa những từ (cụm
từ) đi cùng với toán tử NEAR sẽ nằm gần nhau. Phép toán này rất thích hợp
để tìm những khái niệm hoặc định nghĩa mà người tìm không nhớ chính xác
(ví dụ: “công nhân” NEAR “là giai cấp”).
Phép () dùng ngoặc đơn cho phép kết hợp nhiều toán tử phức tạp vào
quá trình tìm kiếm (ví dụ: (“văn hóa phương Đông” AND “văn hóa cổ đại
phương Đông”) OR “chữ viết” OR “kiến trúc” OR “điêu khắc).
Kỹ năng thu thập, chọn lọc và sắp xếp tài liệu liên quan đến bài
học
Kiến thức trên internet vốn là một loại kiến thức tổng hợp, nó có mối
liên hệ với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống, xã hội. Vì vậy, khi khai
thác và sử dụng tài liệu trên internet, GV phải có nhiệm vụ hướng dẫn,
khuyến khích hình thành cho HS kỹ năng thu thập, chọn lọc, sắp xếp tài liệu
liên quan đến bài học để kiến thức được khắc sâu hơn, kỹ hơn, rộng hơn trong
trí óc HS. Trong đó GV hướng dẫn cho HS hình thành kỹ năng thu thập, chọn
lọc và sắp xếp tài liệu thu thập được theo một hệ thống sau:
- Loại tài liệu để làm sáng rõ diễn biến, nội dung sự kiện
Loại tài liệu này lấy sự kiện lịch sử là nội dung chính của bài học, ví dụ
sự kiện 14/7/1789 trong cách mạng tư sản Pháp.
- Loại tài liệu lấy nhân vật lịch sử làm trọng tâm
Nội dung chính của tài liệu sẽ làm nổi bật, hoặc một số nhân vật lịch sử
có ảnh hưởng lớn đến tiến trình lịch sử như nhân vật Oasinhtơn trong bài
23
“Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ”, Bixmac trong
bài “Cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức” Abraham Lin- côn trong bài “Nội
chiến ở Mỹ”…
- Loại tài liệu lấy địa danh lịch sử làm trọng tâm
Loại tài liệu về sự hình thành và phát triển của một quốc gia, khu vực,
địa điểm nơi diễn ra trận đánh nổi tiếng… làm trọng tâm như: các quốc gia cổ
đại phương Đông, Các quốc gia cổ đại phương tây Hi lạp- Rô ma; Trung Quốc;
Ấn Độ; khu vực Đông Nam Á trong bài “Sự hình thành và phát triển các vương
quốc chính ở Đông Nam Á”, thành phố Xtalingrat trong bài “Chiến tranh thế
giới thứ hai”, Điện Biên Phủ trong bài “Chiến dịch Điện Biên Phủ”…
Những hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh lịch sử, diễn biến, kết quả ý
nghĩa của một sự kiện lịch sử là những tiền đề quan trọng giúp HS hiểu sâu và
lý giải được tình hình phát triển của một giai đoạn lịch sử.
Hiểu biết cộng với nỗ lực tìm tòi, thu thập tài liệu liên quan đến bài học
là một cách để HS nắm bài vừa chắc vừa sâu, nâng cao sự hiểu biết cho các
em. Tuy nhiên việc thu thập tài liệu này hoàn toàn diễn ra ngoài giờ học đòi
hỏi các em tính tự giác cao. Mặt khác, tài liệu trên internet vô cùng phong
phú và đa dạng chính vì vậy người GV cần gia công, nỗ lực, rèn cho HS kỹ
năng thu thập, chọn lọc, sắp xếp tài liệu liên quan đến bài học.
Kỹ năng sử dụng tài liệu để trao đổi, thảo luận trong nhóm
Khi khai thác và sử dụng tài liệu trên internet, giáo viên cần tổ chức
trao đổi, thảo luận để phát huy tính tích cực nhận thức của HS. Thực chất đó
là việc GV tổ chức các hoạt động học tập thông qua sử dụng hệ thống các câu
hỏi để HS trả lời hoặc các em có thể trao đổi với nhau dưới sự chỉ đạo của
giáo viên.
Trong quá trình dạy học lịch sử GV phải căn cứ vào mục đích, nội dung
dạy học cụ thể, đối tượng HS để vận dụng các dạng trao đổi, thảo luận thích
hợp…. GV có thể tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận nhằm tái hiện kiến thức
cũ tạo cơ sở tiếp thu kiến thức mới, tìm tòi phát hiện kiến thức, phân tích,
24
khái quát, đánh giá để tìm ra bản chất của sự kiện lịch sử, hoặc củng cố kiểm
tra kiến thức.
Mặt khác, thảo luận là dựa vào sự trao đổi ý kiến giữa HS với nhau
trong nhóm học tập về một chủ đề cụ thể. Trao đổi, thảo luận tạo ra sự tiếp
xúc trực diện giữa các HS trong nhóm học tập và sự tự do trao đổi quan điểm,
ý tưởng, kinh nghiệm cá nhân. Nó không chỉ giúp HS tham gia chủ động vào
quá trình học tập mà còn giáo dục tính độc lập, tính năng động tư duy phê
phán, biết lắng nghe ý kiến của người khác, biết chính xác hóa quan điểm cá
nhân và hình thành chính kiến của mình. GV cần hình thành cho HS kỹ năng
sử dụng tài liệu để trao đổi thảo luận trong nhóm theo các hình thức sau:
- Trao đổi, thảo luận tái hiện nhằm gợi cho HS nhớ lại kiến thức đã chọn
lọc, xử lý và thu thập được, giúp HS củng cố, hiểu sâu sắc hơn kiến thức cũ, làm
cơ sở tiếp thu kiến thức mới, để khái quát và hệ thống hóa kiến thức. Nhờ đó,
hoạt động nhận thức của HS là một quá trình liên tục không bị gián đoạn
Hình thức này thường được thực hiện ở đầu giờ học hoặc trong suốt
tiến trình của bài giảng khi cần vận dụng kiến thức của bài cũ để tiếp nhận
kiến thức mới. Với hình thức này, tài liệu khai thác trên internet được HS
dùng để minh họa bằng một hệ thống tranh ảnh, mẩu chuyện lịch sử, phim, sơ
đồ, bản đồ lịch sử khi trình bày lại bài học.
- Trao đổi, thảo luận phân tích và khái quát hóa nhằm tạo cho HS tiếp
thu kiến thức từ tài liệu trên internet mà HS khác trình bày, hiểu được logic
bản chất của tài liệu lịch sử. Bằng hình thức này, GV hướng dẫn HS phân tích
và đánh giá các tài liệu HS khai thác được trong bài học
Những câu hỏi trao đổi kiểu này thường liên quan tới sự kiện cơ bản,
đòi hỏi sự vận dụng tổng hợp của nhiều tài liệu để tìm ra lô gic, bản chất của
sự kiện đó. Với hình thức này, HS phải trả lời được câu hỏi cho tài liệu
nhóm mình thu thập được từ phía GV, HS đưa ra được những bằng chứng về
độ tin cậy và nội dung tài liệu thu thập được, mục đích sử dụng và phương
pháp sử dụng.
25
- Trao đổi, thảo luận tìm tòi, phát hiện nhằm tổ chức hoạt động nhận
thức của HS khi giải quyết các nhiệm vụ học tập phức tạp. Trong trường hợp
này GV yêu cầu các nhóm tự đặt câu hỏi cho nhau và tự trả lời giúp HS huy
động vốn kiến thức cần thiết đã thu nhận được trong quá trình khai thác tài
liệu hoặc trong hoạt động thực tiễn của bản thân để so sánh, đối chiếu các sự
kiện lịch sử bằng suy đoán logic và tìm ra câu trả lời cho vấn đề đặt ra
Trao đổi tìm tòi phát hiện được thực hiện bằng một hệ thống các câu
hỏi có liên quan chặt chẽ vơi nhau, trong đó HS lần lượt tìm hiểu, trả lời các
câu hỏi nhỏ là từng bước giải quyết các vấn đề bộ phận, tiến tới giải quyết vấn
đề lớn, cơ bản của bài học, các câu hỏi nhỏ đưa ra có tính chất gợi ý, bổ sung
để dẫn tới việc giải quyết vấn đề chính
Phương pháp trao đổi, thảo luận có thể tiến hành chung cho cả lớp hoặc
theo từng nhóm, thậm chí mỗi HS tự đặt câu hỏi và trả lời. Trong trường hợp
thứ nhất, GV là người nêu vấn đề, hướng dẫn, khích lệ HS trao đổi, tranh
luận. Ở trường hợp thứ hai GV làm cố vấn cho từng bên, làm trọng tài cho cả
2 bên những lúc căng thẳng, gay cấn và đưa ra các kết luận cuối cùng
Để có thể thảo luận sôi nổi, GV phải đưa ra những chủ đề nhất định để
HS căn cứ vào đó chuẩn bị đề cương, trình bày báo cáo, thảo luận và tranh
luận. Các câu hỏi phải bám sát nội dung chương trình, SGK, bài giảng của
GV phải đảm bảo trình độ chung, vừa có thể mở rộng để bồi dưỡng và khuyến
khích HS khá, giỏi. GV không nên đặt những câu hỏi quá đơn giản, chỉ yêu
cầu HS trả lời “có” hoặc “không”, “đúng” hoặc “sai” mà tập trung vào những
câu hỏi mang tính chất nhận thức, buộc HS phải có sự tư duy, động não mới
có thể trả lời được. Nên kết hợp câu hỏi yêu cầu HS trả lời “như thế nào” và
“vì sao” với các câu hỏi yêu cầu phân tích, đánh giá, giải thích sự kiện. Trong
quá trình HS trao đổi, thảo luận GV phải trực tiếp hướng dẫn điều khiển: dẫn
dắt, kích thích, phân tích, giải đáp thắc mắc khi cần thiết, tổng kết, đánh giá,
rút ra những kết luận bổ ích. Khi tiến hành trao đổi, thảo luận, mỗi HS phải
biết nhận xét, phân tích, đánh giá ý kiến của bạn khác, biết bảo vệ ý kiến của