1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN HỒNG NHUNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TỰ HỌC
CHO HỌC SINH QUA SỬ DỤNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thế Bình
HÀ NỘI - 2012
119
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
3. Đối tượng nghiên cứu 11
4. Phạm vi nghiên cứu 12
5. Mục tiêu nghiên cứu 12
6. Nhiệm vụ nghiên cứu 12
7. Phương pháp nghiên cứu 13
9. Đóng góp của đề tài 13
10. Cấu trúc của luận văn 14
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT
TRIỂN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HS QUA SỬ DỤNG TLTK TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG THPT 15
1.1. Cơ sở lý luận 15
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 15
1.1.2. Cơ sở xuất phát của vấn đề phát triển kỹ năng tự học của học sinh qua sử
dụng tài liệu tham khảo 27
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của sử dụng TLTK đối với việc phát triển kỹ năng tự học
cho HS 32
1.1.4. Một số kỹ năng tự học cần hình thành và phát triển cho HS khi sử dụng
TLTK 36
1.2. Cơ sở thực tiễn 39
1.2.1. Thực trạng việc phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng TLTK ở
trường THPT 39
1.2.2. Nguyên nhân thực trạng dạy - tự học Lịch sử qua sử dụng TLTK trong dạy
học Lịch sử trường THPT 49
120
Chƣơng 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TỰ HỌC
CHO HS QUA SỬ DỤNG TLTK TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƢỜNG THPT (VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC LSVN 1945-1954) 52
2.1. Mục tiêu, cấu trúc, nội dung cơ bản của chương trình lịch sử THPT 52
2.1.1. Mục tiêu 52
2.1.2. Cấu trúc, nội dung cơ bản 53
2.2. Vị trí, vai trò, nội dung cơ bản của chương trình LSVN 1945 - 1954 55
2.3. Một số yêu cầu sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học Lịch sử 57
2.4. Một số biện pháp phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng tài liệu
tham khảo trong dạy học lịch sử (vận dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1945-1954) 59
2.4.1. Phát triển kỹ năng phát hiện kiến thức cơ bản qua TLTK 59
2.4.2. Phát triển kỹ năng so sánh, đối chiếu TLTK với SGK để khắc sâu kiến thức
cơ bản 65
2.4.3. Phát triển kỹ năng dùng TLTK để trả lời câu hỏi 68
2.4.4. Phát triển kỹ năng trình bày kiến thức thu được từ TLTK 71
2.4.5. Phát triển kỹ năng sưu tầm TLTK 81
2.4.6. Phát triển kỹ năng ghi chép TLTK 86
2.4.7. Phát triển kỹ năng biết thắc mắc, đặt câu hỏi và tìm cách tự trả lời 89
2.4.8. Phát triển kỹ năng tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập qua TLTK 92
2.4.9. Phát triển kỹ năng sử dụng TLTK để chuẩn bị cho các hoạt động ngoại khóa 94
2.5. Thực nghiệm sư phạm 102
2.5.1. Mục đích thực nghiệm 102
2.5.2. Đối tượng thực nghiệm 102
2.5.3. Nội dung thực nghiệm 103
2.5.4. Phương pháp thực nghiệm 103
2.5.5. Kết quả thực nghiệm 103
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐHQG : Đại học quốc gia
ĐHSP : Đại học sư phạm
LSTG : Lịch sử thế giới
LSVN : Lịch sử Việt Nam
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
SGK : Sách giáo khoa
TLTK : Tài liệu tham khảo
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại, bùng nổ của tri thức, khoa học kỹ thuật, yêu cầu
bức thiết đặt ra: giáo dục, đào tạo cho thế hệ trẻ không chỉ dừng lại ở việc
truyền thụ tri thức mà phải hướng tới việc bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự
học. Việc tự học thể hiện quan điểm giáo dục của Đảng ta: biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp
hành Trung Ương Đảng lần thứ VIII về “Định hướng chiến lược phát triển
giáo dục và đào tạo” (12/1996) nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh”[34, tr. 11]. Để thực hiện được định hướng đó, đòi hỏi học sinh
phải nghiên cứu trước bài học, đọc thêm các tài liệu liên quan, đề xuất vấn
đề… Hàng loạt công việc độc lập trên chỉ có thể giải quyết được bằng con
đường tự học.
Tự học của HS là vấn đề quan trọng vì đó là một khâu trong quá trình
thống nhất của việc tự học. Tự học là 1 trong những yếu tố quyết định chất
lượng giáo dục. Người dạy dù cố gắng đến đâu nhưng người học không động
não, không tự tìm tòi, suy nghĩ trong quá trình lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo thì kết quả dạy học không thể tốt được. Vì vậy, có thể khẳng
định tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả học tập ở trường phổ
thông. Rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT có vị trí quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu bộ môn và góp phần đào tạo ra những con người lao
động có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, lòng say mê học tập
và ý chí vươn lên.
5
Có thể nói, tự học là khả năng tiềm tàng trong mỗi con người. Vấn đề
tự học đã được quan tâm, nhiều trường phổ thông đã tổ chức hội thảo bàn về
đổi mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên đa số mới chỉ dừng lại ở lý luận,
còn trong thực tiễn dạy học, GV vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Nhiều GV và HS vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc tự học nên
chưa quan tâm chú trọng tới việc rèn kỹ năng này.
Đối với môn Lịch sử, còn nhiều quan niệm lệch lạc cho rằng: Lịch sử là
môn phụ; chỉ cần học thuộc sự kiện, không cần tư duy sáng tạo, học Lịch sử
không phục vụ nhiều cho cuộc sống Do đó, môn Lịch sử không được coi
trọng, phương pháp dạy học Lịch sử không hiệu quả và tạo hứng thú cho HS.
Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng chưa được quan tâm.
Để HS tiếp nhận đầy đủ và sâu sắc về các sự kiện, nhân vật, vấn đề lịch
sử là vô cùng cần thiết. Phương pháp tốt nhất để thực hiện được mục tiêu ấy
không gì hơn là phải phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Mặt
khác nội với nội dung kiến thức hết sức phong phú trong khi thời lượng các
tiết học trên lớp hạn chế, đòi hỏi HS phải tự học qua khai thác thêm các tài
liệu tham khảo ngoài SGK.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Một số biện pháp
phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy
học lịch sử ở trường THPT” làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về tự học không còn là vấn đề mới mẻ. Các nhà nghiên cứu
giáo dục, các nhà sư phạm đã quan tâm giải quyết vấn đề này dưới nhiều góc
độ và mức độ khác nhau.
2.1. Trên thế giới
Từ thời cổ đại, vấn đề tự học đã khẳng định được vai trò và ý nghĩa to
lớn của nó. Đó là hoạt động tự tìm tòi học hỏi, khám phá, trang bị tri thức cho
học sinh. Điều này được thể hiện rõ trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
6
(551-479 TCN) – nhà giáo dục lỗi lạc của Trung Hoa cổ đại. Khổng Tử cho
rằng người đi học không cố gắng suy nghĩ các vấn đề đã học thì dù có dạy
cũng không có ích gì. Cách dạy của ông là gợi mở để học trò tìm ra chân lý,
người thầy không được làm thay học trò. Ông vẫn thường nói:“trong ba
người đồng hành tất có một người là thày ta”. Theo ông có thể học bất kỳ ai,
học bất cứ nơi nào, yếu tố quyết định sự thành công là ở người học.
Tiến sĩ R.R.Sing ở Ấn Độ đưa ra quan niệm về “quá trình nhận biết
dạy học”. Ông nhấn mạnh người học phải tích cực, chủ động trong quá trình
học kiến thức và nhận ra các tiềm năng của bản thân.
Như vậy, ở phương Đông người ta đã nghiên cứu về tự học từ rất lâu.
Song tự học mới chỉ được nghiên cứu chung chung, khái quát, chưa được
nghiên cứu sâu, nhất là về kĩ năng tự học. Họ chỉ mới dừng lại ở việc khẳng
định vai trò quan trọng của hoạt động tự học – yếu tố quyết định sự thành
công của mỗi người.
Đối với các nhà khoa học phương Tây, vấn đề này cũng được quan tâm,
nghiên cứu sâu trên từng khía cạnh cụ thể.
Nhà giáo dục vĩ đại của Hi Lạp cổ đại Xôcrat (469-399 TCN) được biết
đến với phương pháp dạy học gọi là “thuật đỡ đẻ” nhằm phát huy tính tích
cực tư duy của HS. Ông quan niệm: trong mỗi con người luôn chứa đựng kiến
thức tiềm ẩn, trách nhiệm của nhà giáo dục là phải khơi gợi những tiềm ẩn đó
cho HS.
J.A.Cômenxki (1562-1670) nhà sư phạm Tiệp Khắc thể kỷ XVII đã
đưa ra những biện pháp dạy học hướng HS phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm
được bản chất của sự vật, hiện tượng. Ông nói: “Tôi thường bồi dưỡng cho
HS của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc
ứng dụng vào thực tiễn” Ông cũng cho rằng, tính tự lực, tự giác phải được
hình thành và rèn luyện ngay từ nhỏ: “giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo
là việc quan trọng” [17, tr. 36]
7
J.J.Rousseau (1712-1778), người Thụy Sĩ cho rằng phải hướng HS tích
cực đánh giá kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Ông nói:
“Đừng cho trẻ em học khoa học mà hãy để cho nó tự phát minh ra” [17, tr. 36]
Theo Tohr Dewey (1859-1952), người Mĩ thì: “Việc dạy học phải kích
thích được hứng thú, phải để HS độc lập tìm tòi, thầy giáo là người thiết kế,
người cố vấn” [17, tr. 37]
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào”, tiến sĩ
N.Đ.Đairi đã trình bày các nguyên tắc cơ bản trong giờ học lịch sử ở trường
THPT. Ông đưa ra các yêu cầu để một gờ học đạt hiệu quả cao: chuẩn bị tốt
giáo án, giáo viên sử dụng tốt các nguồn tài liệu, linh hoạt các phương pháp
giảng dạy… Đặc biệt ông nhấn mạnh đến việc đưa ra các bài tập độc lập để
phát huy tính tự lực của HS trong học tập.
I.F.Kharlamov trong cuốn “Phát huy tính tích cực của HS như thế nào”
cũng đã khẳng định: công tác tự học giữ vai trò to lớn trong việc nâng cao tính
tích cực hoạt động trí tuệ của HS khi thông hiểu và tiếp thu tri thức mới.
Vai trò quan trọng của tự học còn được khẳng định qua nghiên cứu của
các nhà giáo dục tiêu biểu thế kỷ XVII – XIX như Petalogi (1824-1890),
Ditecvec (1790-1886), và Usinxki (1824-1870). Họ nhấn mạnh phương thức
học tập bằng con đường tìm tòi, khám phá nỗ lực của bản thân. Tư tưởng này
có tác dụng lớn trong việc đổi mới phương pháp tư duy của HS nhằm hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách người học.
Năm 1979, UNESCO xuất bản cuốn “Thuật ngữ giáo dục người lớn”
bằng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha đã nêu: “sự giáo dục mà nội dung
quá trình tự học được xác định bởi các nhu cầu mong muốn của người học và
họ tham gia tích cực vào việc hình thành và kiểm soát, sự giáo dục này huy
động những nguồn lực và kinh nghiệm của người học”. Trong khuyến cáo
của UNESCO về “giáo dục cho thế kỷ XXI” khẳng định bốn trụ cột của giáo
dục là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để làm người”
8
Với tác phẩm “Tự học như thế nào” (Nxb Thanh niên, 1982),
Rubakin đã kết luận rằng: “Hãy mạnh dạn tự đặt ra câu hỏi rồi tự mình tìm
lấy câu trả lời, đó là tự học.” Ông cũng đưa ra 1 số nguyên tắc cho việc tự
học là: hãy làm tất cả những gì có thể làm được và hãy cố gắng làm sao để có
thể làm được nhiều nhất.
Nhà sư phạm T.Makiguchi (1871-1944) trong cuốn “giáo dục vì cuộc
sống sáng tạo” (Nxb Trẻ -1994) cho rằng: “Giáo dục, xét như một quá trình
hướng dẫn tự học, động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị
để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng [61, tr. 19]. Như vậy,
ông đã nhấn mạnh vai trò của giáo dục và hoạt động tự học của con người để
giúp con người sáng tạo ra những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, xã hội.
Tóm lại, các quan điểm trên tuy đề cập đến những góc độ khác nhau
nhưng đều khẳng định năng lực thực tiễn của trẻ em dưới hình thức tự học, tự
phát triển.
2.2. Các tác giả trong nước
Theo chiều dài của lịch sử, nền giáo dục có sự chuyển biến sâu sắc.
Quan niệm về tự học không giống nhau qua mỗi thời kỳ.
Do ảnh hưởng của văn hóa-giáo dục Trung Hoa thời phong kiến, việc
tự học được thực hiện một cách máy móc, kĩ năng chủ yếu là ghi nhớ kiến
thức, học thuộc lòng. Thời Pháp thuộc do những chính sách cai trị của thực
dân Pháp, nền giáo dục bị kìm nén, trì trệ. Do đó, tự học chưa được bàn đến.
Sau 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, một số nhà giáo dục có tư tưởng
tiến bộ đã quan tâm đến vấn đề tự học như: Trần Kim Bảng, Nguyễn Duy
Cần, Lê Đinh Ngọc Ân… Tuy nhiên các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu một
cách hệ thống toàn diện hoạt động, nhất là kỹ năng tự học của HS. Họ chỉ mới
dừng lại ở việc tổng kết kinh nghiệm giảng dạy, tự học của cá nhân.
Hoạt động tự học chỉ thực sự được quan tâm dưới nền giáo dục XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập sâu sắc đến vấn đề học tập và tự học. Bác
9
dạy: “Trong học tập, phải lấy tự học làm cốt”, “phải tự nguyện, tự giác, coi
học tập là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành nhiệm
vụ, phải tích cực chủ động hoàn thành kế hoạch học tập”. [54, tr. 14] Tư
tưởng đó của Người được Đảng vận dụng và là quan điểm chỉ đạo được đề ra
từ nghị quyết Trung Ương Đảng lần 2 khóa VIII về đổi mới phương pháp dạy
học ở tất cả các bậc học, ngành học. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định
ở Nghị quyết Trung ương Đảng khóa IX.
Ngày nay, trung tâm nghiên cứu tự học – tự đào tạo với sự tham gia của
giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo… đã ra đời. Trên
cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về tự học, các tác giả đã nêu lên các biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả tự học.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn đã đóng góp nhiều công sức trong việc
tìm hiểu vấn đề tự học ở nhiều loại hình đào tạo khác nhau (tập trung, đào tạo
từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên…) trong tuyển tập tác phẩm: Bàn về
giáo dục Việt Nam – Nxb Lao động, 2002.
Cuốn sách “Quá trình dạy – tự học” của Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn
(Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997) đã đi sâu tìm hiểu hoạt động dạy của thầy, tự
hoc của trò. Trong quá trình dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm
thực chất là biến quá trình dạy của thầy thành quá trình tự học của trò.
Mặt khác, trong cuốn sách “Luận bàn về kinh nghiệm tự học”, tác giả
đã đưa ra các kinh nghiệm bản thân về việc tự học và hiệu quả của quá trình
tự học.
Về phương pháp tự học trong môn Lich sử, cũng có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đê này.
Cuốn “Đối mới việc dạy, học lịch sử lấy HS làm trung tâm” của Hội
khoa học lịch sử Việt Nam do GS Phan Ngọc Liên chủ biên đã đề cập đến
phương hướng, biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường
10
phổ thông hiện nay, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề phát huy năng lực tư duy
của HS.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực của HS trong dạy học Lịch sử ở
trường THCS” do Giáo sư Phan Ngọc Liên, PGS Trịnh Đình Tùng chủ biên
đã đề cập đầy đủ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc phát huy tính tích cực học
tập của HS. Đồng thời đề ra những biện pháp sư phạm cần thiết nhằm phát
huy tính tích cực, khả năng tư duy độc lập của HS THCS.
Tác phẩm “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Lịch
sử ở trường phổ thông”, GS TS Nguyễn Thị Côi đã trình bày cụ thể quan
niệm về tự học Lịch sử, nội dung và các hình thức tự học.
Ngoài ra, vấn đề này cũng được đề cập đến trong cuốn “Hệ thống các
phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS” do PGS Trịnh Đình Tùng chủ
biên. Thông qua tìm hiểu việc tự học của HS, tác giả nêu rõ mối quan hệ mật
thiết giữa phương pháp giảng dạy của GV với phương pháp học tập của HS
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
Vấn đề tự học đã được luận bàn sôi nổi trên các tạp chí như: Giáo dục
và thời đại; Nghiên cứu giáo dục; Nghiên cứu Lịch sử; tạp chí Giáo dục. Các
bài viết: “Một vài suy nghĩ về đổi mới nội dung giảng dạy lịch sử ở trường
phổ thông hiện nay” của tác giả Nghiêm Đình Vì và Trịnh Đình Tùng trên
tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5/1991, “Về biện pháp nâng cao chất lượng dạy
học Lịch sử” của PGS Trịnh Đình Tùng trên tạp chí Nghiên cứu giáo dục số
5/1994, “Bồi dưỡng khả năng tự học cho HS THCS” (Th.S Võ Hoàng Ngọc,
tạp chí Giáo dục), “Đổi mới việc chỉ đạo hoạt động tự học ở nhà của HS”
(Vũ Duy Yên, “Dạy phương pháp học cho HS” (PGS TS Nguyễn Văn Đản),
“Tự học-một chìa khóa vàng của giáo dục” (GS Phan Trọng Luận), “Tạo
hứng thú tự học bộ môn Lịch sử cho HS” (Nguyễn Thị Thế Bình, tạp chí giáo
dục số 258 năm 2011) đã đi sâu nghiên cứu vào các khía cạnh khác nhau của
vấn đề tự học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
11
Đặc biệt là hội thảo khoa học “Nghiên cứu phát triển – tự học – tự đào
tạo” tổ chức tại Hà Nội ngày 6/1/1998 với nhiều bài phát biểu, bài viết xung
quanh vấn đề tự học, phát huy nguồn lực con người và các biện pháp cần
được tiến hành đồng bộ hiện nay để phát triển năng lực tự học nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo.
Bên cạnh đó, vấn đề tự học được đi sâu tìm hiểu qua luận án và luận
văn thạc sĩ như:
Luận án tiến sĩ: Trần Văn Hiếu với “Xây dựng quy trình làm việc độc
lập với sách và tài liệu học tập cho HS”; Trịnh Khắc Hậu với đề tài “Một số
biện pháp quản lý tự học cho HS trường nội trú Đồ Sơn”; Ngô Đình Qua với
“Một số biện pháp phát huy tính tự lực của HS THPT”, Phạm Thị Xuyến với
đề tài “Hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua giờ Văn học sử”…
Luận văn “Rèn luyện năng lực tự học cho HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam
1858-1918 ở lớp 11 THPT” của Nguyễn Thị Thanh Thủy; “Sử dụng TLTK
theo hướng phát huy tính tích cực của HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam
1945-1954” của Nguyễn Thị Xuân Khang…
Như vậy chúng ta thấy, có không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề
tự học và kỹ năng tự học qua TLTK. Các tài liệu tập trung nghiên cứu khá sâu
sắc và hệ thống về mặt lý luận: vai trò ý nghĩa, hình thức, các biện pháp phát
triển kỹ năng tự học Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
việc phát triển kỹ năng tự học qua sử dụng TLTK.
Những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước chính là nguồn tài
liệu quý báu, là những căn cứ, gợi ý có giá trị cho chúng tôi thực hiện luận
văn này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình dạy học môn Lịch sử ở
trường THPT.
12
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài không đi sâu nghiên cứu vấn đề tự học nói chung, mà tập trung
nghiên cứu vấn đề phát triển kĩ năng tự học với TLTK cho HS và đề xuất một
số biện pháp sư phạm nhằm phát triển kỹ năng tự học qua sử dụng TLTK cho
HS trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Do thời gian hạn chế nên đề tài giới hạn việc vận dụng các biện pháp
phát triển kỹ năng tự học qua sử dụng TLTK cho HS trong dạy học Lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1945-1954 lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)
- Phần thực nghiệm, chúng tôi chỉ tiến hành qua một bài học trên lớp.
- Phạm vi thực nghiệm giới hạn ở một số trường phổ thông tại Hà Nội
và các tỉnh phía Bắc như: THPT Phạm Hồng Thái (Hà Nội), THPT Trần
Hưng Đạo (Hà Nội), THPT Hồng Thái (Đan Phượng, Hà Nội), THPT Hùng
Vương (Thái Bình), THPT Chuyên Hạ Long (Quảng Ninh), THPT Chuyên
Amsterdam (Hà Nội), Trung tâm GDTT Thuận Thành (Bắc Ninh)
5. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng tự
học với TLTK cho HS THPT, đề tài đi sâu đề xuất một số biện pháp phát
triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng TLTK trong dạy học lịch sử ở
trường THPT (vận dụng qua phần LSVN giai đoạn 1945-1954, lớp 12 THPT -
Chương trình chuẩn).
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tự học nói chung và tự học của HS qua
sử dụng TLTK lịch sử nói riêng.
- Tìm hiểu thực tiễn việc phát triển kỹ năng tự học của HS THPT qua
sử dụng tài liệu tham khảo.
13
- Tìm hiểu khái quát chương trình Lịch sử THPT và đi sâu tìm hiểu
chương trình Lịch sử Việt Nam 1945-1954 làm căn cứ để xác định, đề xuất
một số biện pháp phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng TLTK.
- Thực nghiệm sư phạm và đánh giá hiệu quả của các biện pháp đã
đề xuất.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi đã tiến hành các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: sưu tầm, đọc và phân tích các
nguồn tài liệu như: sách, báo, Internet, tạp chí, luận văn, luận án đề cập các
vấn đề liên quan đến đề tài luận văn tốt nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm: quan sát, dự giờ,
trao đổi với giáo viên, học sinh, điều tra xã hội học, phương pháp thống
kê toán học
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
8. Giả thuyết nghiên cứu
Trong thực tế giảng dạy lịch sử ở trường THPT hiện nay, nhiều GV
chưa chú ý đến việc phát triển kỹ năng tự học với TLTK cho HS. Chất lượng
dạy học Lịch sử ở trường THPT sẽ được nâng cao, đáp ứng mục tiêu môn học
nếu vận dụng được các biện pháp phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử
dụng TLTK như luận văn đưa ra.
9. Đóng góp của đề tài
:
- :
ự học qua sử dụng TLTK
- :
14
phạ ệc
hướng dẫn cho HS trong học tập môn Lịch sử.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kỹ năng tự học
của HS qua sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Chương 2: Một số biện pháp phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử
dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử ở trường THPT (vận dụng vào
dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954)
15
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ
NĂNG TỰ HỌC CHO HS QUA SỬ DỤNG TLTK TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1.Khái niệm tự học
Có nhiều quan điểm khác nhau về tự học. Rubakin trong cuốn “Tự học
như thế nào” đã kết luận rằng: “Hãy mạnh dạn tự mình đặt ra cho mình câu
hỏi rồi tự tìm lấy câu trả lời, đó là phương pháp tự học”. Ông cho rằng tự học
không chỉ là xem sách mà còn phải biết so sánh cái viết trong sách với thực tế
cuộc sống, biết liên hệ giữa các môn khoa học. Không nên sợ bất đồng ý kiến
với người khác, không nghiên cứ cái chung chung mà phải nghiên cứu vấn đề
đang trao đổi, thảo luận – “hãy học bằng tất cả lí trí, tâm hồn, cảm xúc của
chính mình”. Như vậy, với Rubakin tự học là một quá trình người học tự so
sánh, đối chiếu hỏi và đáp, so sánh lý thuyết và thực hành, giữa sách vở với
thực tế cuộc sống từ đó rút ra cho mình một tri thức riêng đầy sáng tạo.
Theo GS TS Đặng Vũ Hoạt thì “Tự học là một hình thức hoạt động
nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính
bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc không theo
chương trình SGK đã được quy định. Tự học có quan hện chặt chẽ với quá
trình dạy học nhưng nó có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân
[25, 174]
Đối với GS Nguyễn Cảnh Toàn, thì “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình
phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong
phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên
16
ngoài thành tri thức bên trong con người mình”. “Tự học là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp ) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất
của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như
trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì,
nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận
lợi ) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực
đó thành sở hữu của mình [60, tr. 621]
Từ những khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm tự học như sau: “Tự
học là hoạt động tự giác, tích cực, tự lực phát huy nội lực của bản thân nhằm
tìm ra cách học để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành và phát triển
tàn diện nhân cách người học”
Hoạt động tự học diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Đối
với HS THPT, tự học chính là tự học có hướng dẫn của GV. Với sự hướng
dẫn của GV, HS tự phải phát huy cao độ tính tích cực chủ động để tự tìm ra
kiến thức, biến kiến thức của nhân loại thành của mình. Khi hoạt động tự học
không có GV điều khiển trực tiếp, HS tự mình sắp xếp kế hoạch, huy động
các năng lực bản thân để củng cố, đào sâu , mở rộng và hoàn chỉnh tri thức,
hoàn thành nhiệm vụ học tập do GV giao cho, đồng thời lĩnh hội tri thức mới.
Với vai trò là nội lực, tự học có ý nghĩa quyết định trong quá trình nhận
thức. Chất lượng giáo dục đạt được đỉnh cao khi tác động dạy của GV (ngoại
lực) cộng hưởng với năng lực tự học của HS (nội lực). GV giỏi là thầy dạy
cho HS biết tự học. Song động lực tự học sẽ khó phát triển nếu thiếu sự
hướng dẫn của GV và sự hợp tác của HS. Ngược lại, tác động của GV và môi
trường xã hội sẽ kém hiệu lực nếu không phát huy được động lực tự học của
HS. Do đó, phải kết hợp nội lực với ngoại lực để phát huy cao nhất chất lượng
học tập.
17
1.1.1.2. Khái niệm kỹ năng
Có nhiều ý kiến khác nhau về kỹ năng.
Ph.N Gônôbôlin cho rằng: “Kỹ năng là phương thức tương đối hoàn
chỉnh của việc thực hiện những hành động bất kỳ nào đó. Các hành động này
được hoàn thành trên cơ sở của các trí thức, kỹ năng và kỹ xảo – những cái
con người được lĩnh hội trong quá trình hành động” [53, tr. 165]
N.D. Levitôv cho rằng: “Kỹ năng là khả năng con người thực hiện một
hành động bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm –
những cái đã được lĩnh hội từ trước” [53, tr. 166]. Theo M.A Đanilốp và
M.N xcatkin: “Kỹ năng bao giờ cũng xuất phát từ kiến thức, dựa trên kiến
thức, kỹ năng chính là kiến thức trên hành động” [51, tr. 10]
E.P Êxipôp trong giáo trình “Những cơ sở của lý luận dạy học” (Nxb
Giáo dục, 1971), tập 2 cho rằng: kỹ năng chính là khả năng con người biết sử
dụng một cách có mục đích, sáng tạo những tri thức và kỹ xảo của mình trong
quá trình hoạt động thực tiễn.
Trong nước, cá nhà tâm lý học, giáo dục cũng có những quan điểm
khác nhau về kỹ năng:
Theo GS Trần Bá Hoành: “Kỹ năng chính là khả năng vận dụng những
tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào hoạt động thực tiễn”
[52, tr. 14]
PGS TS Phạm Viết Vượng khẳng định: “Kỹ năng là khả năng thực hiện
thành công một loại công việc trên cơ sở nắm vững lý thuyết. Kỹ năng được
hình thành trong quá trình rèn luyện lâu dài” [71, tr. 78]
GS TS Nguyễn Thị Côi cho rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết
quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh
nghiệm đã có để hành động phù hợp với những kinh nghiệm cho phép” [12,
tr. 14]
18
Như vậy, cơ bản tồn tại hai quan niệm khác nhau về kỹ năng. Khi thì kỹ
năng được xem xét ở khía cạnh kỹ thuật của hành động (A.V.Petrovxki, Ph. N
Gônôbôlin, N.A Rubakin, Trần Trọng Thủy…), có khi được xem xét ở bình
diện năng lực thực hiện hành động (N.D.Levitov, Nguyễn Quang Uẩn,
Nguyễn Ánh Tuyết…).
Chúng tôi tiếp cận kỹ năng trên bình diện khả năng thực hiện được
hành động nào đó đúng theo mục đích, yêu cầu của hành động ấy.
Khả năng được hiểu là “tính chất của người có những điều kiện tự
nhiên hoặc do hoàn thiện, học tập hay kinh nghiệm tạo ra để làm tốt việc gì”
(Từ điển tiếng Việt, 1997)
Như vậy, khả năng là khái niệm rộng. Nó không chỉ bao gồm những
điều kiện cho phép cá nhân được thực hiện hành động, sự nhận thức về mục
tiêu hành động mà cá nhân đạt đến mà còn bao hàm cả các mức độ thực hiện
hành động – các mức độ của kỹ năng.
Từ cách hiểu trên, có thể rút ra 2 nhận xét sau:
- Kỹ năng là từ dùng để chỉ mức độ nhất định của khả năng thực hiện
có hiệu quả những yêu cầu của một hoạt động nhất định. Trong một kỹ năng
cụ thể lại bao gồm những kỹ năng nhỏ hơn – các kỹ năng bộ phận.
- Kỹ năng có thể được hình thành nhờ tác động của dạy học. Nhờ học
tập và rèn luyện mà cá nhân có được kỹ năng của một hoạt động nhất định.
Điều này thực sự có ý nghĩa với việc hình thành và phát triển kỹ năng tự học
của HS.
- Từ những phân tích trên theo chúng tôi, kỹ năng có thể hiểu là khả
năng thực hiện có kết quả một hành động trên cơ sở lựa chọn và vận dụng
những tri thức, kinh nghiệm đã có để đạt được mục tiêu và phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh cho phép.
Về khái niệm “năng lực”, các tác giả X. Roegiers, Phạm Minh Hạc,
Nguyễn Kỳ đưa ra các quan điểm khác nhau nhưng nhìn chug đều thông nhất
19
rằng: Năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hoạt
động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội
hay các cá nhân trong tình huống khác nhau, trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ
xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng trong hành động.
Như vậy, kỹ năng và năng lực đều là sản phẩm của quá trình đào tạo,
rèn luyện (bao gồm cả tự đào tạo, tự rèn luyện). Kỹ năng có tính riêng lẻ, cụ
thể, còn năng lực có tính tổng hợp, khái quát. Kỹ năng là bộ phận cấu thành
năng lực của con người trong hoạt động thực tiễn.
1.1.1.3. Kỹ năng tự học và tự học lịch sử
Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện có kết quả hoạt động tự học cũng
như những hiểu biết về hoạt động tự học và kỹ năng tự học mà người học đã
được lĩnh hội trong hoạt động dạy học.
Trong dạy học Lịch sử, quan niệm về vấn đề tự học của HS là quan
trọng để giúp cho GV xác định các phương pháp dạy học thích hợp.
Trước đây đã tồn tại một số quan niệm sai lầm cho rằng: HS chỉ cần
nhớ một số điều cơ bản, thuộc lòng một số sự kiện, tóm tắt sơ lược nội dung
SGK, không có tư duy, không cần thực hành. Quan niệm này đã làm nghèo
nội dung, hạ thấp chất lượng, hứng thú học tập và khả năng tự học của HS.
Ngày nay, cùng với quá trình đổi mới giáo dục, chúng ta cần có quan
niệm đúng về tự học Lịch sử của HS.
Tự học LS là việc HS tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính
xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách
thành thạo.
Như vậy, tự học lịch sử của HS là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử
và vận dụng thành thạo. Đó là quá trình đi từ biết đến hiểu đến vận dụng. Học
tập lịch sử là quá trình nhận biết những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã
hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai.
20
Việc tự học lịch sử phải được tiến hành với sự say mê, hứng thú, ý thức
trách nhiệm, tinh thần lao động cần cù. HS không chỉ hiểu sâu kiến thức mà
còn có tư cách phẩm chất của người lao động: kiên nhẫn, tự tin, sáng tạo.
Có thể quan niệm việc tự học của HS là việc các em độc lập hoàn thành
những nhiệm vụ được giao với sự giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra của GV. Tự
học lịch sử bao gồm cả việc tập dượt nghiên cứu lịch sử của HS THPT. Tự
học của HS trong quá trình học tập lịch sử thể hiện cả ở trên lớp và ở nhà.
Tự học trên lớp là:
Những hoạt động tự nhận thức trên lớp khi nghe GV giảng (biết tự điều
chỉnh để nghe giảng, chọn lọc kiến thức ghi chép, tự trả lời câu hỏi của GV
nêu ra)
Tự học ở nhà thể hiện qua các công việc :
- Đọc và ghi lại tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết
SGK, TLTK
- Ghi lại và tìm hiểu những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các thuật
ngữ, khái niệm lịch sử
- Hoàn thành câu hỏi, bài tập trong SGK
- Biết tự làm việc với bản đồ, tranh, ảnh trong và ngoài SGK, tìm hiểu
nội dung và trình bày các nội dung lịch sử theo bản đồ, tranh, ảnh.
- Đọc và làm việc với các tài liệu lịch sử, văn học, các tư liệu tham
khảo khác nhằm hiểu rõ hơn những kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết
cho HS.
- Tự ôn tập dưới sự hướng dẫn của thầy.
Qua những biểu hiện trên cho thấy, tự học là khâu quan trọng của quá
trình học tập. Tự học không có nghĩa là cô lập người học. Tự học là tự mình
suy nghĩ, giải quyết vấn đề bằng nỗ lực của bản thân qua sự hướng dẫn của
thầy cô giáo.
21
Bản chất của tự học lịch sử là quá trình nhận thức một cách tự giác, tích
cực, sáng tạo của người học mà không có sự tham gia trực tiếp của GV nhằm
đạt được mục đích, nhiệm vụ học tập bộ môn. Thực chất chính là sự tự lực
của người học trong việc tìm kiếm tri thức cho bản thân, tức là tự tổ chức, tự
điều khiển, tự điều chỉnh, tự kiểm tra, tự đánh giá quá trình học tập.
Sự hướng dẫn của thầy là quan trọng nhưng nếu không có sự nỗ lực, cố
gắng của trò thì kết qua học tập sẽ không cao. Thực tiễn đã chứng minh nếu
thầy có kiến thức uyên thâm đến đâu nhưng nêu HS không đầu tư thời gian tự
học, không có kế hoạch học tập hợp lý thì không thể biến tri thức của nhân
loại thành của mình được. Do đó, muốn nâng cao chất lượng dạy học nói
chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông, cần hướng dẫn HS quy
trình tự học, tự nghiên cứu qua các tài liệu học tập.
1.1.1.4. Phát triển kỹ năng tự học lịch sử
Phát triển theo từ điển tiếng Việt nghĩa là mở mang từ nhỏ thành to, từ
yếu thành mạnh.
Phát triển kỹ năng được hiểu là nâng cao khả năng cho HS trong việc
thực hiện hệ thống các thao tác nhằm làm biến đổi đối tượng, đối chiếu chúng
với hành động cụ thể để đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng.
Theo GS TS Nguyễn Thị Côi, để hình thành một kỹ năng phải trải qua
nhiều bước :
Trước hết, HS cần nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều
kiện hành động. Đồng thời với việc nhận thức đúng mục đích, cần phải nắm
vững các bước của kỹ năng. Việc lĩnh hội này có thể do con người tự học
cũng có thể do người khác hướng dẫn. Nhưng chỉ là nắm lý thuyết chứ chưa
phải hành động thực sự, vì vậy có thể nói là chưa có kỹ năng. Nhưng nếu
không có bước này thì người học phải lần mò, khó hoàn thành công việc có
hiệu quả và mất nhiều thời gian.
22
Tiếp theo là giai đoạn GV làm mẫu bằng các ví dụ minh họa cụ thể qua
các tiết học, bài học, HS sẽ “quan sát mẫu” và “làm thử theo mẫu” Công việc
này sẽ giúp các em thấy được khả năng vận dụng tri thức vào hoạt động thực
tiễn, xem hành động và có những ưu và nhược điểm gì, cần sửa chữa và củng
cố tri thức đã nắm. Ở giai đoạn này, việc thử làm ngắn hay dài tùy theo năng
lực của mỗi HS.
Tiếp nữa, sau khi đã làm thử để nắm chắc cách làm, người học phải tiến
hành luyện tập, luyện tập nhiều lần. Ở giai đoạn này, các thao tác, các bước
thực hiện hành động dần dần được tiến hành chính xác hơn. Đồng thời các tri
thức và cách thức hành động được ôn luyện làm cho người học nắm chắc
hành động hơn. Đến đây có thể nói kỹ năng đã được hình thành, song chưa
hoàn toàn ổn định. Kỹ năng thực sự ổn định khi trong điều kiện khác con
người hành động vẫn đạt kết quả.
Cuối cùng, GV phải kiểm tra và điều chỉnh việc thực hiện kỹ năng của
HS. Việc kiểm tra giúp GV có thể nắm bắt được khả năng lĩnh hội kiến thức
và hình thành kỹ năng của HS. Qua đó, GV có thể điều chỉnh các bước hình
thành kỹ năng cho phù hợp với từng đối tượng HS, có thể tăng thời lượng của
bước “làm mẫu” hoặc bước luyện tập…
Như vậy, quy trình hình thành kỹ năng gồm các bước :
- Bước 1 : Nắm được mục đích, cách thức, các bước của kỹ năng.
- Bước 2 : GV minh họa, làm mẫu, HS quan sát mẫu
- Bước 3 : GV tổ chức cho HS thử làm theo mẫu, luyện tập.
- Bước 4 : Cuối cùng GV kiểm tra và điều chỉnh việc thực hiện kỹ
năng của HS.
Có thể thấy, để hình thành được một kỹ năng, GV và HS phải thực hiện
nhiều thao tác, phải có sự kiên trì, tích cực. Đối với HS THPT, HS phải có
nền tảng, kỹ năng tự học đã được hình thành. Vì vậy, đề tài không nêu lên các
23
biện pháp hình thành kỹ năng cho HS mà đi sâu vào việc đề xuất các biện
pháp nhằm nâng cao, phát triển các kỹ năng đó.
Để phát triển kỹ năng tự học phù hợp với đặc trưng của môn lịch sử,
GV hướng dẫn HS tuân thủ các bước chung về hình thành kỹ năng như trên.
Đồng thời, cần phát triển cho HS những kỹ năng phù hợp với đặc trưng bộ
môn như: kỹ năng so sánh, đối chiếu các sự kiện lịch sử; kỹ năng hệ thống
hóa kiến thức; kỹ năng trình bày; kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn… Điều đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn trong
trường phổ thông.
Sự phát triển của kỹ năng nói chung, kỹ năng tự học bộ môn lịch sử nói
riêng được hiểu theo hai khía cạnh một là, quá trình tăng dần về số lượng các
kỹ năng, trên cơ sở các kỹ năng đã có sẽ hình thành và phát triển thêm những
kỹ năng tự học mới; hai là, phát triển về mặt chất lượng kỹ năng, tức là trên
cơ sở các kỹ năng đã được hình thành (HS biết làm) sẽ phát triển lên mức độ
cao hơn (làm thành thạo). Để các kỹ năng trở nên thành thục đòi hỏi một quá
trình lao động lâu dài, kiên trì của HS và sự hướng dẫn, kiểm tra thường
xuyên của GV. Vì vậy, trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ
hình thành và phát triển kỹ năng có vai trò đặc biệt quan trọng.
1.1.1.5.Tài liệu tham khảo
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, tài liệu là những sách báo giúp cho
việc tìm hiểu một vấn đề gì đó. Ví dụ : tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, tài
liệu giảng dạy… Như vậy có thể hiểu, TLTK trong dạy học lịch sử chính là
những sách, báo (ngoài SGK) hay các công trình nghiên cứu về những điều
đã xảy ra trong quá khứ của xã hội loài người.
Có nhiều loại tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông. Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến 2 loại tài liệu
tham khảo cơ bản : tài liệu lịch sử và tài liệu văn học.
24
* Tài liệu lịch sử
Tài liệu lịch sử có ý nghĩa quan trọng với việc nghiên cứu khoa học,
cũng như đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Tài liệu lịch sử có
nhiều loại như tài liệu thành văn, tài liệu hiện vật, dân tộc học, ngôn ngữ địa
danh… Tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về tài liệu
thành văn.
Tài liệu lịch sử thành văn gồm nhiều loại, nội dung và tính chất của mỗi
loại cũng không giống nhau.
* Tài liệu lịch sử gốc: bao gồm các văn kiện, tài liệu có liên quan trực
tiếp đến thời điểm xảy ra sự kiện như: các văn tự cổ, các hiệp ước, điêu tuyên
ngôn… Loại tài liệu này dùng để dẫn chứng, minh họa cho các sự kiện đang
trình bày.
* Tài liệu trích trong các tác phẩm của các tác giả kinh điển chủ nghĩa
Mác-Lênin, các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là các văn kiện Đảng phản ánh những
vấn đề quan trọng nhất của sự phát triển lịch sử lúc bấy giờ về tình hình kinh
tế xã hội của đất nước, chính sách đối nội và đối ngoại, các phong trào xã hội
và cách mạng trong lịch sử đất nước ta cũng như LSTG có thể sử dụng như tài
liệu lịch sử.
* Tài liệu trong các tác phẩm hồi ký của những người được chứng kiến
sự việc xảy ra.
Loại tài liệu này cũng góp phần giúp HS hiểu rõ các sự kiện đang học,
có tác dụng cao trong việc khơi gợi cảm xúc người đọc.
* Tài liệu văn học
Trong dạy học lịch sử, GV thường dùng các loại tài liệu văn học chủ
yếu sau:
- Tài liệu dân gian: ra đời sớm và rất phong phú, bao gồm các thể loại
như thần thoại, truyền thuyết, truyển cổ tích, ca dao, dân ca… Đây là những